Bắc
Kỳ
http://www.saigonocean.com/trangNguyenTaiNgoc/vanNTN.htm
Trong những buổi nói
chuyện với bạn bè, nếu người
nào nói chuyện gì có vẻ khó tin và rào trước đón
sau cao hơn cả bức tường Đông Bá Linh, tôi
thường hay nói giễu cợt là họ nói chuyện
như người Bắc Kỳ Hà Lội. Bấy lâu nay
tôi tưởng đó chỉ là một bình phẩm vô
bổ, thế nhưng gần đây và
i người email “phê bình xây dựng” là tôi không
nên nói xấu người Bắc thường nhật vì
không phải người Bắc nào cũng như thế.
Là người có tinh thần hoà giải luôn có đầu óc
cầu tiến, thấy sai thì nhận thức mình đúng
ngay lập tức để sửa đổi, tôi hoàn toàn
đồng ý không phải tất cả người
Bắc nào cũng vẽ hươu vẽ vượn;
thế nhưng sự thật là phần đông tính tình
người Bắc giống nhau. Mở quyển tự
điển Việt Nam của hai tác giả Nguyễn Tài
Đức và Nguyễn Tài Tình (hai người này
đều là bà con ruột thịt của tôi) tra khảo chữ “khách sáo”,
lời giải thích sẽ là: một người sinh
truởng hay có máu mủ liên hệ trực thuộc ở
miền Bắc.
Trước khi độc
giả cực lực phản đối cho tôi lên đoạn
đầu đài là tôi nói xấu người Bắc, tôi
xin khẳng định rất tỏ tường tôi không
phải là điệp viên nằm vùng quê em miền Tây Ninh
trà trộn vào hàng ngũ người miền Bắc làm
mật thám: tôi cũng là người miền Bắc. Bố mẹ tôi sinh ở làng Bách
Cốc, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Tuy
rằng tôi sinh trưởng trong Sàigòn ở nhà thương
Đức Chính đường Cao Thắng, đối
diện rạp Đại Đồng gần chợ Bàn
Cờ, cái văn hóa giáo dục tôi thấm nhuần là
từ bố mẹ tôi người miền Bắc, hoàn toàn
không có một chút pha loãng hay ảnh hưởng một tí
nào của người miền Nam. Thật sự là văn
hóa miền Bắc ghi khắc quá sâu đậm trong tôi
đến nỗi khi tôi vừa mới lên lên ba tuổi, bố mẹ tôi
đã tốn rất nhiều tiền cho tôi vào
trường học sửa giọng để tôi nói
“lấy cái chổi”chứ không phải “nấy cái chủi”, “lái xe” thay vì
“nái xe”.
Hạn chế chỉ tiếp
xúc với người trong gia đình nên hành động và
cư xử của tôi như người miền Bắc
từ lúc bé, tôi chỉ phát hiện
sự khác biệt giữa Bắc Kỳ và Nam kỳ khi vào
học tiểu học. Trước khi đi
học, bố tôi đã dậy tôi tập đọc ở
nhà, lối dậy đánh vần của bố tôi khác
với ở trường cô giáo người miền Nam
dậy. Chẳng hạn như chữ “tam”, bố tôi
dậy đọc là “te^-a-ta-em-tam”, trong khi cô giáo dậy : “a-em-am, tờ-am-tam”. Chữ
“đàn”, bố tôi đọc là
“đê-a-đa-en-đan-huyền-đàn”, trong khi cô giáo
dậy “a-en-an-huyền-àn, đờ-àn-đàn”. Ban
đầu tôi hơi ngớ ngẩn một tí nhưng khám
phá ra ngay là tuy khác lối đánh vần, chữ đọc
cuối cùng cũng giống nhau. Có một lần khi cãi
nhau, tôi nói với người bạn là: “Đồ mặt dầy”. Nó
đứng thộn mặt ra, hỏi tôi mặt dầy là
mặt gì, tôi cũng không biết làm sao mà giải thích
được cho nó hiểu nên cuộc cãi cọ chấm
dứt. Làm sao cãi cọ khi hai bên không
hiểu nhau? Rồi có những lúc đám bạn Nam
Kỳ chọc tôi, hát: “Bắc
Kỳ ăn cá rô cây, Ăn nhằm
lựu đạn chết cha Bắc Kỳ”, thì tôi
biết chắc là tôi không phải là người Nam.
Tôi kể chuyện vòng vo tam
quốc như thế để xác định chính tôi
cũng là Bắc kỳ, do đó nếu có chỉ trích
người Bắc thì tôi là người tay trong, có
đầy đủ thẩm quyền và kinh nghiệm
để phân tích và phê bình.
Nước Việt Nam
cấu tạo bằng ba miền, Bắc Trung Nam. Vì
lịch sử và địa thế, cách phát âm và cá tính
của người ba miền khác nhau. Người
Việt bắt đầu từ miền Bắc rồi
đi dần vào miền Trung và miền Nam. Các vua nhà
Trần thôn tính nước Chiêm Thành từ Quảng Bình
đến Phú Yên vào thế kỷ thứ Mười Lăm,
và vua Quang Trung Nguyễn
Huệ xâm chiếm miền Nam của người Khmer vào
thế kỷ Mười Bẩy. Người ở
miền Trung do đó phát âm tiếng Việt với âm hoà
lẫn của
người Chiêm Thành, và người miền Nam phát
âm tiếng Việt hoà lẫn với âm tiếng Khmer.
Cộng thêm ảnh hưởng văn hóa, cá tính của
người miền Trung và Nam có đặc thù rõ rệt so
với người miền Bắc.
Người miền Bắc
ảnh hưởng sâu đậm của đạo giáo Khổng
Tử, vua ra vua , tôi ra tôi, kẻ sĩ là kẻ sĩ. Lễ là một đức tính quan trọng trong
năm đức tính nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Hơn nghìn năm bị người Tầu đô hộ
sáng nào cũng ăn đim-sâm làm người miền Bắc ngao ngán luôn
mang ý tưởng nổi dậy đánh đuổi
người Trung Hoa dành lại độc lập
để có cơ hội ăn lại được bát
phở. Người miền Nam ảnh hưởng
Phật Giáo, của nền văn minh Khmer, ruộng lúa phì nhiêu vì nằm trong
đồng bằng sông Cửu Long, thức ăn
đầy dẫy với tôm
cá, lúa gạo nên dân tình phè
phỡn. Cá tính của
người miền Bắc do đó khác hẳn
người miền Nam: Người miền Bắc
tiết kiệm, cần cù, siêng năng, khoe khoang, tài
giỏi, khéo ăn nói, khách sáo, trong khi người miền
Nam hiền từ, chất phác, thành thật, đơn
giản, thoải mái trong đời sống, suy nghĩ,
thẳng thắn có sao nói vậy.
Tôi lấy vợ người
Nam, có bạn cả người Nam lẫn người
Bắc nên am tường cả hai
nền văn hóa. Trước 75 khi từ ngoài Bắc di
cư vào Nam, chúng
tôi không gọi ba má là bố mẹ mà gọi là Thầy U thì
đủ biết là tôi hấp thụ nền văn hóa
Bắc Kỳ mức thượng thừa đến
chừng nào. Người Bắc lúc nào cũng
lịch sự, khi nói chuyện với bạn của
người thân trong gia đình vai vế nhỏ hơn mình
thì luôn luôn hạ danh xưng mình bằng người
thấp hơn. Tôi còn nhớ khi còn học tiểu
học, một cậu bé đến nhà rủ tôi đi
học chung. Lúc ấy tôi đang tắm,
bố tôi ngồi trong nhà mới nói với cậu bé:
-Em còn đang
tắm, anh vào nhà ngồi chơi một chốc đợi
em nó xong thì sẽ ra đi với anh.
Thằng nhỏ
người Nam mặt non choẹt, chỉ mới có
mười tuổi thấy ông già râu tóc bạc phơ
ngồi trên ghế sa-lông gọi mình là anh nên sợ vãi
đái ra cả quần không dám đứng đợi tôi, bỏ
ù chạy mất.
Sự khách sáo về lễ nghi
không phải một sớm một chiều một
người có thể thu hoạch được.
Nó giống như bí quyết kiếm hiệp huyền bí
Tịch Tà Kiếm Phổ trong Lục Mạch Thần
Kiếm phải tu luyện trên núi Bảo Long ba mươi
năm mới trở nên cao thủ võ lâm. Bố mẹ dậy ngày
đêm hết năm này sang năm khác, bị chửi te tua “Dậy con như nước
đổ lá khoai!”, “Cái thằng tối như đêm,
dầy như đất!”, “Nói con như nói van nói lậy!” thì
mới trở nên điêu luyện trong việc khách sáo.
Một lần lễ lộc nhà
nấu xôi chè, sau khi cúng kiếng và gia đình đã ăn
xong, mẹ tôi sới xôi và chè ra hai bát nhỏ –xôi chè vẫn
còn rất nhiều ở trong nồi- và bảo anh tôi, lúc
bấy giờ khoảng chừng sáu tuổi, mang
sang biếu nhà bà Bác ở xóm kế bên.
Anh tôi khệ nệ bưng hai
bát xôi chè sang nhà bà Bác và trở về nhà mười lăm
phút sau với bộ mặt tươi rói, báo cáo với
bố tôi là sứ mạng đã hoàn thành:
-Thưa
Thầy con đã mang chè sang biếu Bác.
-Con giỏi
lắm. Bác có nhà không con?
-Vâng, Bác có
nhà. Bác ăn chè ngay vì Bác nói Bác đang
đói bụng.
-Thế Bác có nói gì không?
-Bác bảo
về nói với U là U nấu chè ngon, và cảm ơn
Thầy U.
-Con mang sang
cho Bác, có nói gì với Bác không?
-Dạ, con
nói với Bác là
nhà cháu ăn thừa mang sang biếu Bác...
Bố tôi nghe đến đây
thì nổi ngay lên một cơn nhồi máu cơ tim:
-Ối
giời ơi cái thằng chết tiệt! Ai bảo con
lại nói thế? Cái thằng tối như đêm, dầy
như đất!
Bố tôi giận
dữ vì quá hiển nhên là anh tôi trình độ khách sáo
vẫn còn quá sơ đẳng, thấy sao nói vậy
người ơi. Nhưng nhận thức ra lỗi này không
phải là lỗi của anh tôi mà là là lỗi chính mình
chưa rèn luyện chín chắn cho con nên bố tôi phải
dành ra vài phút thì giờ huấn luyện anh tôi lại cho
thấu đáo nền văn hóa Bắc Kỳ:
-Bận sau
con không nên nói như thế. Khi mang biếu cho Bà hay bất
cứ ai, con phải nói là U cháu trước khi nấu món
này cả tháng trước đó chỉ nghĩ đến
Bác. Đêm qua U cháu trước khi nấu đã trằn trọc cả đêm vì
cứ hình dung là Bác ăn bát chè sẽ thấy ngon miệng
vì U cháu nấu chỉ quyết ý dành riêng cho Bác....
Khách sáo có nghĩa là có
tính chất xã giao, lịch sự bên ngoài, không thật lòng. Vì vậy mà tuy rằng
gia đình nghèo rớt mồng tơi, các con đứa nào
cũng được bố dặn dò kỹ lưỡng
là ai cho gì cũng không lấy, có đói đến đâu,
đến nhà người khác được
mời ăn thì cũng
phải từ chối. Mang cái chỉ thị tối cao
như vậy nên ngày xưa tôi chỉ thích đến nhà
bạn người Nam vì nếu ba má chúng nó mời ăn uống,
tôi không bao giờ trả lời không; trong khi đó nếu
đến nhà bạn Bắc Kỳ, lúc nào cũng vậy, chưa
đến mà tôi đã no tuy rằng trong bụng thì đói
meo khi được bố mẹ bạn mời: “Dạ, cháu mới ăn ở
nhà”, “Không cháu không uống”.
Chữ khách sáo bao hàm ý nghĩ
không thật lòng nên nói chuyện với người Bắc
một người lúc nào
cũng nên đề cao cảnh giác như ngày xưa lính Việt
Nam Cộng Hòa đứng gác sông Bến Hải vĩ
tuyến thứ 17 vì không biết đâu là hư, đâu là
thực. Chỉ có người Bắc uyên thâm có bằng
Tiến Sĩ, Thạc Sĩ, đầu óc mới thông
suốt để đoán biết lúc nào người
Bắc nói thật, lúc nào ý của họ ngược
lại 180 độ. Một cô bạn vợ tôi
ngưởi Nam lấy chồng người Bắc, nhà
ở California, sang thăm mẹ chồng ở Ohio. Máy bay
đến khuya, sáng 7:30 bà mẹ chồng đã đến
gõ cửa phòng hỏi dậy chưa. Cô ta
trả lời vẫn còn ngái ngủ. Bà mẹ
chồng trả lời: “Thế
thì con cứ ngủ tiếp đi nhé, chừng nào dậy
cũng được”. Cô bạn
người Nam của vợ tôi không có kinh nghiệm
chiến trường giao thiệp với người
Bắc nên tưởng bà ấy nói thật, ngủ luôn
một mạch cho đến 11 giờ. Trong thời
gian này thì bà mẹ chồng đã nấu điểm tâm cho
thằng con trai ăn sáng, rồi bắt đầu
chuẩn bị cho buổi ăn trưa.
Về nhà sau này anh chồng kể bị bà mẹ dũa thê
thảm là lấy con vợ không có ý tứ,
sáng không biết dậy sớm lo điểm tâm cho
chồng hay cho bố mẹ chồng. Cô bạn vợ tôi nói : “Chính bả
nói mình cứ ngủ, mình nghe lời bả ngủ tiếp mà bả lại chửi
mình!”
Vợ tôi là người miền
Nam, khi lấy tôi đã học xong đại học Văn
Khoa ở Việt Nam, đang học dở chừng
đại học bên Paris, sang đây học tiếp
đại học Mỹ nên đầu óc tương
đối thông suốt: chỉ trong vòng vài tháng đầu
là nàng đã tiếp thụ được lối nói
chuyện vòng vo tam quốc của người Bắc gia
đình chúng tôi thay vì đi vào thẳng vấn đề.
Mỗi lần nàng xuống bếp, chỉ cần nàng nói: “Cái bếp hôm nay sao bẩn quá”
là tôi tự khắc hiểu ý nàng nói ngay là “Anh Ngọc đi lau cái bếp!”, tôi phải nhanh
chân đi lau bếp; hay hôm nào đi làm về nàng nói: “Hôm nay sao Loan thấy hơi
nhức đầu”, là tôi hiểu ngay ý nàng nói “Tối nay Loan không nấu
cơm”, tôi tự động chèo thuyền ra sông
Đồng Nai câu cá về chiên ăn một mình. Nói thế nhưng không có nghĩa lúc nào tôi cũng
hiểu ý nàng. Có một lần đứng trong phòng
khách, nàng nói “Nhà mình sơn
mầu khác chắc đẹp”, tôi dịch nghĩa ngay
là: “Anh Ngọc, sơn nhà bên
trong mầu khác!”. Phòng có nhiều
đến đâu, cực đến đâu đi nữa
tôi cũng có khả năng sơn lại cả căn nhà, thế nhưng
phòng khách nhà tôi khoảng khoát, trần nhà cao hai tầng không
cách gì tôi sơn được ngoại trừ mướn
thợ với cầu thang chuyên môn có thể với tuốt
tận trên cao để sơn trần nhà. Khảo
giá thì thợ nói sơn lại cả bên trong nhà khoảng
$2,000 làm tôi bệnh mấy ngày liền vì nếu tôi sơn
thì chỉ tốn $500 là cao lắm. Lo lắng vài
tuần mất ăn mất ngủ,
tội sụt cân vài pounds. Nàng hỏi lý do thì tôi thú thật
trả lời. Lúc ấy nàng mới cho tôi biết là nàng
không có ý muốn tôi sơn lại nhà, chỉ nói một câu
bâng quơ vậy thôi!
Khi mình nói chuyện có
tính chất bên ngoài không thật lòng thì từ điểm
đó đến điểm nói chuyện phóng đại tô
mầu Eastmancolor cũng không xa nhau là mấy. Ở điểm này,
người Bắc cũng bỏ xa người miền
Nam, đặc biệt là người sinh sống ở
miền Bắc .
Tôi có một
người chị cùng cha khác mẹ ở Nam Định
tên là chị Hiền. Sau khi bố tôi di cư vào Nam thì khoảng
năm 1960 mọi liên lạc thư từ bị miền
Bắc cắt đứt nên hai bên không biết tin tức
nhau. Đến năm 1995 khi tôi về Sàigòn lần
đầu tiên, thăm một gia đình họ hàng xa ở
Vũng Tầu, những người này vẫn còn liên
lạc với gia đình người chị tôi ở ngoài
Bắc nên họ dẫn tôi ra bưu điện để
gọi điện thoại ra Nam Định để nói
chuyện với chị ấy:
-Thưa
chị, em là Ngọc, con thứ năm của Thầy U. U
và cả gia đình sang định cư bên Mỹ từ
năm 1975, hiện tất cả bình yên. Em là
người đầu tiên trong gia đình về lại
Sàigòn thăm nhà. Lúc Thầy U vào Nam thì em chưa
sinh...
-Giời
ơi, Ngọc đã về quê hương đấy à. Chị tôi khóc nức
nở rồi nói tiếp:
-Lúc em sinh
ở Sàigòn chị có biết vì Thầy U có biên thư cho chị.
-Anh chị
không bận thì vào Sàigòn thăm em, em có một tí quà biếu
anh chị.
-Chị
yếu lắm, đi tầu hoả 40 giờ vào trong Nam
chị rất là ngại. Em đã đi xa xôi
vạn dăm từ Mỹ về Việt Nam mà sao em không
đi nốt ra Bắc thăm chị?
Rời Việt Nam tháng 4 năm
1975, trở về Sàigòn lần đầu tiên hai
mươi năm sau nơi căn nhà cũ và những
đường phố quen
thuộc từng sinh sống
mà tôi còn lo sợ không yên lòng, huống gì nói chuyện
đi ra Bắc? Đã thế người nhà họ hàng tôi
ở Vũng Tầu ai cũng một lòng ngăn cản tôi
không nên đi: “Chú đi ra ngoài
Bắc thì thế nào họ cũng thịt chú. Cướp
bóc nhiều lắm!”. Vì
thế, dù rằng tôi rất ước ao gặp lại
người chị cùng máu mủ từ bố tôi nhưng tôi
không dám ra Bắc mà muốn chị ấy vào Nam để
chị em gặp nhau.
-Em ngại ra
Bắc...
-Thôi em nói
chuyện với anh Lễ nhé. Anh Lễ là chồng của
chị tôi, chị trao máy cho anh Lễ:
-Cậu Ngọc đã về Việt Nam rồi
đấy à?
-Thưa vâng.
-Từ ngày
miền Nam được giải phóng, anh chị đã
tưởng gặp lại Thầy U và các em, thế
nhưng chỉ trong một thời gian ngắn cháu Vinh và Toàn
tập kết vào Nam báo tin cho anh chị hay là Thầy đã
mất từ năm 1970, còn U và các em đã đi đâu
mất làm anh chị khóc cả mấy ngày đêm. Sau này biết U và các em định cư ở
Mỹ anh chị cũng mừng. Giờ thì em đã
về lại quê hương, giòng máu mủ duy nhất
của Thầy mà em lại không ra Bắc thăm anh
chị...
-Em sợ
lắm. Em nhất định không đi.
-Nếu
thế thì anh và cháu Tuấn đi xe hoả
vào thành phố đón cậu ra đây. Nhà ta có chú Biên trong
quân đội, sẽ ra đón cậu ở nhà ga, cậu
không phải sợ gì cả.
Sau khi anh ấy nài nỉ
đến bao nhiêu lần, cuối cùng tôi cũng xiêu lòng theo lời đề nghị, chờ anh ấy
và cậu con trai vào Nam rồi tháp tùng tôi ra Bắc.
Tôi xuống nhà ga Nam Định
sau khi ngồi trong chuyến tầu hoả kinh hoàng gần
44 giờ, và đúng như anh Lễ nói, anh Biên, đại
gia đình vợ chồng anh Lễ chị Hiền cùng con ,
cháu , chắt, và bao nhiêu là người lạ đã
đến đón vợ chồng chúng tôi. Từ nhà ga đi
bộ về nhà
khoảng chừng hai cây số. Nhận thấy chúng tôi là
người ở ngoại quốc về, những
người khác ở trong làng túa ra đi bộ với
chúng tôi càng ngày càng đông, cho đến khi về
đến nhà thì tôi không còn biết ai là ai vì số
người đứng vây quanh tôi đông vô số kể.
Trong bao nhiêu tiếng xì xầm bàn tán về tôi, tôi bỗng
nghe tiếng đàm thoại rất rõ của hai đứa
nhỏ nói chuyện đứng ngay kế bên tôi:
-Ai
đấy? Một
thằng bé người lạ hỏi.
-Ông tao
đấy. Ông tao ở Mỹ mới về.
Chị của tôi năm nay 70
tuổi, đã có con lẫn cháu chắt, nên tôi là vai ông
với những đứa cháu chắt này. Tôi nghĩ thằng
bé đang nói là một trong những đứa cháu chắt
của chị ấy đang nói về tôi.
-Thế ông
mày nói tiếng gì?
-Ông tao
đấy hả? Gớm, ông tao nói tiếng Mỹ,
tiếng Tây, tiếng Tầu..,. tiếng
gì cũng được cả.
Tôi nghe thằng bé nói mà trố
mắt nhìn xem mặt mày nó ra như thế nào. Nó non choẹt, chỉ độ chừng bẩy
tuổi là cùng, chưa bao giờ gặp tôi, tôi cũng
chưa bao giờ biết nó. Thế mà nó đã khoe xoen
xoét ông của nó – là tôi- với thằng bạn nó là
tôi nói đủ thứ tiếng!
Chị tôi mừng vô
hạn khi gặp lại tôi.
Hai bàn tay gầy guộc dơ
xương của chị ấy cứ bấu chặt vào
tay và vai của tôi trong khi nước mắt chị khóc
ròng.
-Thầy
mất chị không đươc gặp Thầy nhưng
bây giờ gặp được em, xem như là chị
cũng mãn nguyện rồi. Em giống Thầy như
đúc...
Tuy mừng gặp lại
người chị cùng cha khác mẹ, tôi vẫn còn mối
quan tâm trong lòng về tình trạng an ninh
ở ngoài Bắc mà người thân trong Nam đã nói cho tôi
biết. Có lẽ biết được nỗi lo sợ
của tôi, anh Lễ xen vào:
-Cậu có
thấy là ở đây bình yên vô sự làm gì có cướp
bóc phải không? Người ở trong Nam họ nói láo,
hăm dọa cậu không muốn cậu ra Bắc, cố
tình ngăn chận tình ruột thịt của anh chị em
mình chứ ngoài Bắc làm gì có cướp bóc, cậu
thấy không? Tất cả mọi sự đều bình
thản vô tư.
Đêm hôm ấy ngủ
trên gác nhà chị Hiền mà tôi trọc trằn ngủ không
yên tuy rằng đã được anh Lễ trấn an ngoài
Bắc không có chuyện cướp bóc. Giữa
đêm tôi xuống dưới nhà vì cần đi toilette.
Căn nhà này bước vào là phòng khách, dài khoảng bẩy
thước , rồi có một gian
trống khoảng bốn thuớc không có nóc nhà nhìn
thẳng lên trời chị tôi dùng làm nhà bếp. Sau gian trống này là một gian nhỏ toilette và chỗ
để tắm. Từ phòng khách
muốn đi toilette phải mở cửa đi vào nhà
bếp trước. Ban đêm trời tối đen
như mực không thấy gì ở phía truớc, tôi mò
mẫm vịn thành thang gác xuống lầu rồi chậm
chạp tiến về cửa hướng ra nhà bếp.
Sờ soạng được mặt cửa, tôi mò tay
xuống quả đấm, xoay đẩy cửa ra ngoài
thì tiếng soong chảo khoảng dưới cánh cửa
rớt đổ vang ầm trong đêm tối, to còn hơn
bom nguyên tử nổ ở Nagasaki . Tôi bàng hoàng, chưa đoán biết sự gì đã
xẩy ra thì cái đèn vàng héo hắt trong nhà ai đã bật
lên. Nhìn kỹ lại tôi thấy anh Lễ đang
ngủ ở giường kế bên cửa đã bật
ngồi dậy và với tay vào
công-tắc bật đèn lên vì tiếng động khua anh
ấy dậy. Qua ánh đèn, bây giờ tôi mới biết
tại sao có tiếng soong chảo rớt đổ: Nhà
nghèo cửa mở ra sau nhà bếp không có khóa nên anh Lễ
ban đêm sợ ăn trộm vào nhà nên để vài
nồi niêu soong chảo ngay dưới bực cửa. Ai
mở cửa ra là nồi sẽ rớt xuống
đất, tạo ra một hệ thống báo động
ăn trộm cực kỳ tinh vi không
tốn một đồng xu nào.
Nhà chị tôi nghèo, chả có gì
đáng ăn cắp mà anh tôi còn “gắn” hệ thống báo
động ăn trộm soong chảo, thế mà vào lúc ban
ngày anh ấy nói với tôi là ngoài Bắc không có
cướp, tôi cứ thoải mái vô tư! Đúng là
chỉ có người Bắc chúng tôi mới ba hoa chích chòe
đến thế!
Cái tật vẽ hươu
vẽ vượn của người Bắc nó đã
tồn tại từ cả nghìn năm nay. Lịch sử Việt
Nam chúng ta có nhiều bằng chứng cụ thể
: Phù Đổng Thiên Vương lên ba không biết nói
cười nhưng khi có giặc Ân tràn xuống thì
vươn vai thành người ba trượng cỡi
ngựa đánh tan quân giặc, Lý Thuờng Kiệt giả
cho người vào đền thờ ngâm thơ bài Nam
Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư trong đêm để
vận đông tinh thần binh sĩ đánh bại quân nhà
Tống. Một thói quen hay tật xấu thường hay
khó thay đổi. Trường hợp tôi
cũng là thí dụ điển hình. Cho dù tôi có óc sửa
sai đến đâu để cải tiến, có nhận
thấy người Bắc có nhiều khuyết
điểm sai lầm đến đâu để sửa
đồi, mà
vợ tôi người Nam cứ khen người Bắc phát
âm chính xác, nói năng bặt thiệp lưu loát thì chắc chắn
đến Tết Congo người Bắc chúng tôi sẽ không
bao giờ có sự thay đổi!
Nguyễn
Tài Ngọc
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire