KINH THI CHỌN LỌC 28b
Lời nói đầu:
Kinh Thi
(ca dao Trung quốc trước thời của Khổng tử) có 300 thiên. Mỗi thiên có
nhiều bài cùng một đề tài, tổng cộng chừng một ngàn bài.
Kinh Thi
có ba loại thơ. Thơ Phong và thơ Nhã là những bài ngụ ý dạy đời và
nhiều bài hiện còn rất phổ thông. Thơ Tụng gồm những bài ca cho
triều đình và miếu đường, đã lỗi thời vì chỉ xưng tụng những mẫu
mực của thời phong kiến (nhất là nhà Chu). Cả ba loại Phong, Nhã và
Tụng đều xúc tích, cô đọng tới độ, nhiều bài, nếu không có chú
giải (của Mạnh tử và Chu Hy) thì không thể hiểu nổi.
Loạt
bài này gồm những thiên chưa lỗi thời trong toàn bộ Kinh Thi mà Con
Cò đã dịch.
Kinh Thi
dùng thể thơ cổ phong. Vì vậy cổ phong là thể thơ lý tưởng để dịch.
Nếu dịch bằng thể lục bát hoặc song thất lục bát thì mức cô đọng,
xúc tích của Kinh Thi sẽ dễ bị mờ nhạt (dùng một câu 6,7, hoặc 8
chữ để dịch một câu chỉ có 3, 4, hoặc 5 chữ). Một người bạn qúa
niên của tôi, gốc Hoa kiều Chợ Lớn, đã nói với tôi rằng, có lần, ông
đề nghị với Hồ Dzếng dịch ca dao Việt sang thơ Hán để ông gởi về
đăng trên một tuần báo ở Thượng Hải nhưng HD giải thích rằng, làm như
vậy sẽ mất vẻ dịu dàng, uyển chuyển của ca dao Việt vì Hán ngữ
không có thể thơ yêu vận (một thể thơ duy nhất chỉ có ở VN mà chữ
chót của câu lục vần với chữ thứ sáu của câu bát. Yêu: cái lưng). Dịch
Kinh Thi cũng vậy. Dùng thể cổ phong mới dễ diễn đạt nét đặc thù
của nó. Tôi sẽ lựa một số bài dịch điển hình trong bộ Khổng Tử
Kinh Thi của Tạ Quang Phát, xuất bản tại Hà Nội, để đối chiếu.
Thơ cổ
phong phân làm ba loại: Phú, Tỷ và Hứng.
Phú là
những bài nói rõ tên, rõ việc.
Tỷ là
những bài thấy việc hư hỏng đương thời mà không dám nói rõ, chỉ
dùng lối so sánh để̉ diễn đạt một ý kín đáo.
Hứng
là những bài mượn vật, mượn việc để nói lên ý chính.
Tỷ và
Hứng khác nhau ở chỗ Tỷ thì mượn vật, mượn việc làm thí dụ mà
không nói rõ ý chính, còn Hứng thì mượn vật, mượn việc để nói rõ
ý chính.
Một nhận xét:
Hội nhập
văn hóa của người để làm giầu cho văn hóa của mình là một việc vô
cùng tế nhị. Trong một ngàn năm bị Tàu đô hộ, người Việt đã rất
khôn ngoan học được nhiều điều hay đẹp của họ mà vẫn giữ được văn
hóa đặc thù của mình. Đó là nhờ việc
giữ vững phong tục và ngôn ngữ Việt. Không như Mãn Châu, cướp
nước Tàu mà bắt dân mình hoàn toàn theo phong hóa Tàu kể cả phong
tục, tư cách và ngôn ngữ, để sau này bị mất nước và bị đồng hóa.
Riêng về bộ môn thơ, người Việt đã biết dùng mọi thể thơ của Tàu
(cổ phong, tam, tứ, ngũ, lục, thất ngôn và Đường luật) để làm giầu
cho thơ Việt mà̀ vẫn phát huy tối
đa thể thơ lục bát, một thể thơ duy nhất trên thế giới dùng yêu vận
(chữ cuối của câu lục vần với chữ thứ 6 của câu bát. Yêu: cái lưng).
Theo thiển ý của Con Cò, dùng thể thơ cổ phong để̉ dịch Kinh Thi còn
có thêm một ý nghĩa nữa: phân biệt ca dao Việt (chuyên dùng thể
lục bát) với ca dao Tàu (chuyên dùng thể cổ phong).
2
THIÊN THỨ 112
KINH THI
Bài 1
Phạt Đàn
Khảm
khảm phạt đàn hề!
Chí
chi hà chi can hề!
Hà thủy
thanh thả liên y!
Bất
giá bất sắc
Hà thủ
hòa tam bách triền hề?
Bất
thú bất liệp
Hà
chiêm nhĩ đình hữu huyền huyên hề?
Bỉ quân
tử hề!
Bất tố
xan hề!
Bài 2
Khảm
khảm phạt bức hề!
Chí
chi hà chi trắc hề!
Hà thủy
thanh thả trực y!
Bất
giá bất sắc
Hồ thủ
hòa tam bách ức hề!
Bất
thú bất liệp
Hồ
chiêm nhĩ đình hữu huyền đặc hề!
Bỉ quân
tử hề!
Bất tố
thực hề!
Bài
3
Khảm
khảm phạt luân hề!
Chí
chi hà chi thần hề!
Hà thủy
thanh thả luân y!
Bất
giá bất sắc
Hồ thủ
hòa tam bách khuân hề?
Bất
thú bất liệp
3
Hồ
chiêm nhĩ đình hữu huyền thuần hề?
Bỉ quân
tử hề!
Bất tố
tôn hể!
Chú giải:
Thiên này thuộc phú.
Khảm
khảm:
tiếng chặt cây. Đàn: cây gỗ đàn, để
làm xe. Bức: cây bức, để làm căm
của bánh xe. Chí: đặt, để. Can: bờ đê. Liên: gợn nước do gió thổi. Y:
trợ từ. Giá: cấy. Sắc: gặt. Hồ: sao? Hòa: lúa. Triền: chỗ ở của người dân, dịch là lô đất.
Thú: đi săn. Huyên: con chồn. Chiêm: ngước
lên mà nhìn. Nhĩ: mày. Xan: ăn.
Tố: ngồi rỗi. Trực: thẳng, sóng thẳng đứng. Đặc: con thú tơ ba tuổi. Ức: mười vạn. Luân: bánh xe. Luân: nước xoáy. Khuân: bồ.
Thuần: chim cút. Tôn: ăn đồ chín
Ý chính:
Bài
1: đốn
cây đàn để làm xe mà xếp đống trên bờ đê thì bao giờ mới có xe? Nước sông
trong veo gợn sóng (ví đống gỗ đàn như những làn sóng). Có cấy có gặt mới
có lúa nuôi 300 nhà . Có đi săn bắn mới có con chồn treo trước hè. Hỡi chàng quân
tử! Không làm lấy gì mà ăn?
Bài
2:
Chặt cây bức để làm căm cho bánh xe mà xếp trên bờ đê thì bao giờ
mới có bánh xe? Nước sông trong veo nổi
sóng thẳng đứng (ví căm xe như những ngọ̣n sóng thẳng đứng). Có cấy có gặt
mới có lúa chất 300 đống. Có đi săn bắn mới có con thú tơ treo trước hè. Hỡi chàng
quân tử! Không làm lấy gì mà ăn?
Bài
3: Đẽo
bánh xe rồi xếp trên bờ đê thì bao giờ mới có xe? Dòng sông trong veo nước
xoáy (ví bánh xe như chỗ nước xoáy). Có cấy có gặt mới có lúa đựng 300 bồ.
Có đi săn bắn mới có con chim cút treo ở trước sân. Hỡi chàng quân tử! Không làm
lấy gì mà ăn?
Lời bàn của
ConCò:
Tả sự cần lao của dân
gian với những nghề tiều, nông, săn, và thủ công (làm bánh xe). Nghề sĩ
được nhắc qua (chàng quân tử)̣. Văn
chương gọ̣̣n gàng, bình dị, mộc mạc. Phong phú mà không rườm rà. Duyên dáng mà
không màu mè. Khéo vậy thay! Tôi dùng 3 trong 4 câu của một bài ca dao Việt Nam
để dịch thoát câu kết của 3 bài trong thiên này: Tay làm hàm nhai. Tay quai hàm trể. Tay trễ hàm treo. Chéo khoeo treo
hàm.
THIÊN
THỨ 112
Con
Cò
Bài 1
Đốn Đàn
Cạch cạch đốn đàn hề!
Cây đàn xếp trên bờ đê
Nước sông trong veo gợn sóng!
Không cấy gặt hề!
Ba trăm nhà lúa đâu mà sống?
4
Không săn bắn hề
Sao có con chồn anh treo trước hè?
Chàng quân tử hề!
Tay làm hàm nhai!
Bài 2
Cạch cạch chặt căm xe
Căm xe đặt trên bờ đê.
Nước sông trong veo dựng sóng.
Không cấy gặt hề!
Lúa đâu chất đầy ba trăm đống?
Không săn bắn hề!
Sao có nai tơ lủng lẳng trước hè?
Chàng quân tử hề!
Tay quai hàm trễ!
Bài 3
Cạch cạch đẽo bánh xe
Bánh xe đặt trên bờ đê.
Dòng sông trong veo nước xoáy.
không gặt không cấy,
Lúa đâu mà đựng ba tram bồ?
Săn bắn không lo,
Sao trước sân anh treo con chim cút?
Chàng quân tử hề!
Tay trễ hàm treo!
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire