Triết
Lý Việt Trong Văn Hóa Ẩm Thực
Gs.
Trần Văn Ðoàn
Ðại
Học Quốc Gia Ðài Loan
Prepared
for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
2.
Ðạo Sống và Ðạo Ăn
2.1.
Ăn Uống Như Là Một Ðạo Sống
Như
ai cũng biết, câu nói "có thực mới vực được đạo"
không chỉ là một câu nói vui đùa; y hệt như câu thơ "Ông
nghè ông khóa cũng nằm co" không chỉ mang tích chất trào
phúng, tự ngạo mình của giới nho mạt. Chúng phản ánh
lối suy tư rất ư thực tiễn của dân Việt: "Dĩ thực vi
tiên." Không những vậy, ăn uống đã biến thành cái
đạo sống, đạo cư xử, hay nói rõ hơn, đạo làm người
Việt. Người Việt lấy "miếng trầu làm đầu câu truyện."
Họ nhận ra trong ăn uống tính chất linh thiêng (sacred): "Trời
đánh còn tránh miếng ăn." Họ coi việc mời ăn, mời
uống, tặng qùa cáp (thực phẩm) như là thước đo lòng
người: "có đi có lại mới toại lòng nhau." Dĩ
nhiên, đó cũng là một lẽ tất yếu trong cuộc giao tiếp:
"hòn đất ném đi hòn chì ném lại." Và họ diễn tả
cái đạo làm người, lòng tôn kính tổ tiên qua "đạo
ăn": "Ăn qủa nhớ kẻ trồng cây," hay qua "đạo
uống": "uống nước nhớ nguồn." Thế nên, họ
chán ghét những kẻ "ăn cháo đá bát," "qua cầu
rút ván," hay "vắt chanh bỏ vỏ." Họ chê bai bọn
"ăn quỵt," "ăn bẩn," "ăn bớt, ăn xén."
Họ không thích những kẻ "ăn bậy, ăn bạ," hay "ăn
trên ngồi chốc." Họ khinh bỉ "bọn" "ăn không
ngồi rồi," "mồm lê mách lẻo," "ăn chực,
ăn rình." Nói cách chung, chỉ có bọn tiểu nhân không
xứng đáng cái danh hiệu trai Việt gái Nam, mới có cái lối
"ăn bậy uống bạ," "ăn ở vô phép vô tắc,"
"ăn gian nói dối," "ăn bám," "ăn nợ"
như vậy. Vậy nên, ta có thể nói, những câu nói tương tự
phản ánh được bản chất của người Việt. Và qua chính
những câu nói như vậy, ta có thể thấy được cách sống,
tầm quan trọng cũng như đạo lý sống của họ. Một đạo lý
mà theo người Việt, ngay cả ông Trời cũng công nhận và
tuân thủ: "Trời đánh còn tránh bữa ăn".
Trong
giới nho gia, Nguyễn Khuyến không phải là thi sĩ duy nhất bị
ăn uống "ám nhập." Giới văn, thi sĩ như Tản Ðà,
Trần Tế Xương, rồi Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, và gần đây
hơn, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng... đều bị ăn uống "ám ảnh"
cả. Thế nhưng, ai dám cáo tội họ là bọn phàm phu tục tử.
Thật ra, họ chẳng phàm chẳng tục. Ðúng hơn, họ can đảm
viết ra những ý nghĩ trung thực của người Việt: "có thực
mới vực được đạo" và "dĩ thực vi tiên".
2.2.
Ăn Uống và Phép Tắc Xã Hội
Con
người Việt, cách chung, đều suy tư chung quanh lối ăn uống.
Xác định nền văn hóa cao thấp, họ nhìn cách thế ăn uống.
"Ăn lông ở lỗ" chỉ nền văn hóa thô sơ, trong khi
"ăn sang," "ăn chơi"... chỉ một nền văn hóa
hưởng thụ. Ðể định địa vị, người ta đặt mâm, đặt
đũa, đặt bát, xem món ăn, đo thức uống: "mâm phải cao,
đĩa phải đầy." Vinh dự, vinh quang, vinh hiển cũng gắn
liền với nơi ăn chỗ uống "một miếng giữa làng bằng
xàng xó bếp," và món ăn "sơn hào hải vị" cũng
như cách thế ăn "yến tiệc linh đình." Ðể nói lên
tầm quan trọng xã hội, họ chỉ định món ăn, thức uống:
thủ lợn cho người quyền cao chức vọng, cho bậc tiên chỉ;
trong khi đuôi, chân, hay những phần không ngon cho giới lê
dân. Sơn hào hải vị, yến xào là những món chỉ có những
bậc quan to chức lớn mới được vua thưởng, trong khi thứ
dân thì "vui" với hũ tương bầm, nồi gạo hẩm, niêu
cá rô kho, đĩa rau muống luộc. Mà đúng như vậy, mâm cao là
biểu hiệu của quyền cao chức trọng. Chiếu hoa giữa đình
nói lên địa vị bậc trưởng thượng. Bát hoa, đũa ngà,
cốc pha lê, mâm son thếp vàng tự chúng đã làm nở mày
nở mặt người xử dụng. Về đồ uống cũng thế. Rượu
ngon chỉ dành cho những người qúy trọng, cho bạn hiền, vân
vân. Những chén rượu cầu kỳ gốc tự Tầu, tự Tây đã
từng là báu vật mà người dân đen chỉ mong được ngắm,
chứ đừng nói đến được sờ vào. Ðối với bọn dân
"ngu cu đen" thì một bát rượu nhạt, một cốc rượu
"quốc lủi" bên vệ đường hay trong xó bếp cũng đã
gọi là qúy. Nhưng đối với họ, chưa chắc ly rượu sâm banh
có ý nghĩa hơn là bát rượu đế, vì không có Bá Nha thì
làm sao Tử Kỳ có thể nhâm nhi nhắm rượu một mình được:
rượu ngon phải có bạn hiền mới thật là ngon.
Ðể
được chấp nhận, công nhận, ta cần phải khao, phải đãi,
phải vọng. Ðình đám, tiệc tùng thực ra là những bữa khao,
bữa vọng, bữa đãi, bữa hoan (nghênh), bữa tống (biệt),
bữa từ (khỏi tai nạn), bữa sầu (khổ), vân vân. Danh chính
ngôn thuận luôn đi đôi với khao với đãi: khao làng, khao
xóm, đãi quan, đãi họ hàng, đãi bạn bè, và đãi cả
những người giúp việc. Cưới hỏi phải khao phải đãi là
lẽ tất nhiên. Nhưng, đậu đạt, làm ăn phát đạt, thậm chí
mua nhà tậu đất, sinh con đẻ cái, nhất nhất ta cũng phải
khao đãi hàng xóm láng diềng. Khao đãi đã thành một cái
luật bất thành văn mà "phép vua cũng phải thua lệ làng."
Nhưng khao đãi không chỉ là một tục lệ thông thường. Và
nơi khao đãi không được tùy tiện. Khao đãi phản ánh cái
thú vui, cái lối diễn tả tâm tình, cái lối giao tiếp, cái
đạo sống, cái địa vị của người đãi, người được
đãi, cũng như tầm quan trọng của bữa ăn. Khao vọng chỉ
dành cho những vị cao tuổi, hoặc có địa vị. Tiệc chỉ tầm
quan trọng; mà tiệc tùng không chỉ quan trọng mà còn long
trọng. Tiệc ở đình mang một tầm quan trọng đặc biệt, trong
khi tiệc ở căn giữa nhà dĩ nhiên là qúy trọng hơn bữa
cơm trong nhà bếp. Nói cho cùng, ăn uống luôn có lý do phản
ánh tầm quan trọng xã hội của người mời cũng như người
dự. Hoan nghênh, ta ăn. Tiễn đưa, ta uống. Vui thì "nhậu
nhoẹt." Buồn thì "nhâm nhi". Gặp tri kỷ, ta "chén tạc
chén thù." Thất bại, ta cùng nhau "rượu vơi sầu khổ."
Lẽ dĩ nhiên, ta cũng thấy những bữa tiệc tương tự, với
những lý do tương tự trong các nền văn hóa khác. Nhưng
có lẽ hơn họ, người Việt chúng ta chủ trương, đã ăn thì
phải ăn cho đã, đã uống thì phải uống cho say. "Nhậu
chết bỏ," "say chết luôn," là những câu nói
thường thấy trên môi trên miệng người Việt. Vay tiền để
ăn, mượn tiền để uống không phải chỉ là kiểu sống của
người Nam bộ dễ dãi, mà là cách sống chung của người
Việt. Bởi lẽ, say túy lúy, no kềnh bụng nói lên cái tình
quyến luyến của họ: "rượu say phải có bạn nồng."
Cái tâm tình này dành cả cho những người qúa cố. Ma chay
thì phải có đám, mà giỗ thì phải là lễ. Ðám thì có ăn,
có uống, và giỗ thì còn long trọng hơn. Người Việt ta trở
về để giỗ chứ không phải để mừng sinh nhật. Càng thân
thiết thì càng không thể quên ngày giỗ: "Ai ơi ngày giỗ
nhớ về." Thành thử lễ giỗ thường long trọng và quan
trọng hơn. Phần dành cho người qúa cố không chỉ y hệt dành
cho kẻ còn lại, mà nhiều khi lại có phần hơn. Ở cái thế
giới bên kia, họ cũng cần ăn, cần uống, và cần cả tiền
bạc để mua đồ ăn thức uống nữa. Nói tóm lại ngày giỗ
mang một ý nghĩa quan trọng, và đám giỗ nói lên tầm quan
trọng này. Ăn uống biểu tả tình thân mật thiết, là một
sự "thông công" mà cả người sống lẫn kẻ đã qua
đời đều phải tham dự. Nói cách chung, vui ta ăn, buồn ta
cũng ăn. Gặp may ta ăn, gặp tai nạn, đau khổ ta cũng nhậu
để "xả sui," để bớt sầu. Ta có mọi cớ để ăn.
Về
cách ăn, món ăn, người giầu thì phừa phứa, mâm cao đĩa
đầy; còn người nghèo thì vài món thanh đạm, một cút
rượu quốc lủi, một gói lạc rang, dăm chiếc bánh đa cũng
gọi tạm đủ. Nhưng dù cho nghèo "rớt mùng tơi,"
ngày giỗ, ngày lễ cũng không thể để bếp tro lạnh lẽo.
Lòng thành được biết qua những món ăn. Không có một quy
định rõ ràng phải bao nhiêu món, nhưng ai cũng biết là,
càng sang càng trọng càng nhiều, càng yêu càng qúy càng
đắt. Thế nên nhìn vào mâm cỗ, ta biết được mối quan hệ
của người dự tiệc, tình thân nồng thắm vôi trầu hay nhạt
như nước ốc giữa chủ và khách, tầm quan trọng của bữa
tiệc, vân vân. Tương tự, nhìn vào món ăn, ta cũng dễ
dàng nhận ra được sự tương quan giữa chủ và khách. Nói
tóm lại, ta có thể biết được tâm tình, mối tương quan,
địa vị, tầm quan trọng, mối liên hệ của người ăn qua chính
những bữa ăn, món ăn, chỗ ăn: chức nào phần nấy; phẩm
nào món nấy; trật nào chỗ nấy và tước nào rượu nấy.
Nói
như vậy không có nghĩa là con người Việt chỉ biết có ăn
uống, đầu óc chỉ nhét đầy rượu thịt, và cách sống,
phép tắc chỉ toàn là những khao, đãi, mời mọc. Người
liêm sỉ vẫn biết "miếng ăn là miếng nhục." Người
trí thức vẫn còn nhớ câu thơ của nhà thi sĩ họ Nguyễn
"ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn
chẳng cầu no." Người bình dân ai mà chẳng biết "ăn
lấy thơm tho, chứ không ai ăn lấy no, lấy béo." Người
Việt không phải là hạng người "lấy bụng làm Chúa,"
một hạng người từng thấy nơi mọi xã hội mà thánh Bảo
Lộc (Phao Lô) từng chê trách. Họ ăn nhưng không tham, họ
uống nhưng không phải là đệ tử của Lưu Linh, và họ
luôn có cái đạo lý chính đáng sau những bữa tiệc đình
đám.
Nhưng
nếu người Việt qủa thật như thế, thì làm sao ta giải thích
được hiện tượng qúa chú trọng vào ăn uống, gần như bị
ám ảnh, của họ? Làm sao ta hiểu được ăn uống gần như
đồng nghĩa với sinh sống? Ðó không phải là một nghịch lý
hay sao? Sự thực là người Việt, đặc biệt giới nông
thôn nghèo túng, gạo không đủ, thịt không có, y như bất
cứ giống người nào khác, luôn bị cái đói đeo đuổi.
Nhưng cho dù bị cái nghèo đói ám ảnh, họ vẫn không đánh
mất liêm sỉ, vẫn chưa đem cái bụng lên làm Chúa, bởi vì
ai cũng biết "miếng ăn là miếng nhục," và "miếng
ăn để đời." Vào những năm khốn khổ bi đát ở
vùng châu thổ Bắc hà (1945-6), khi mà hàng triệu người
chết đói, thì nạn cướp bóc, đĩ điếm, tuy có, nhưng vẫn
còn thua xa các dân tộc khác. Họ tuy cho con đi ở đợ (để
con khỏi đói), nhưng không có đem bán chúng như món hàng
hóa. Họ có thể làm lẽ (trường hợp Kiều), nhưng họ vẫn
biết, đó là nỗi nhục họ chịu đựng để cứu gia đình họ.
Họ tuy đi ăn xin, nhưng họ vẫn biết đó không phải là một
nghề, kiểu nghề "khất thực" của "cái
bang." Họ tuy phải "bán thân" nhưng họ biết đó
là nỗi khổ, nỗi nhục, nỗi đau, và có lẽ không hề dám
nghĩ đến việc hợp pháp hóa, công khai như kỹ nghệ "bán
hoa" tại các nước Âu Mỹ.
Ðây
không phải là trọng tâm của bài viết, nên xin không bàn
tới. Ðiều mà chúng tôi chú ý, đó là, đối với ngưòi
Việt, ăn uống là những cách thế, hình thức, và cả phép
tắc biểu tả xã hội Việt, diễn đạt con người Việt, nền
luân lý, cách xử thế của họ. Cách thế hay, hình thức
tốt, phép tắc hợp lý tạo ra một xã hội có tôn ti, có
trật tự, nói lên cái chính danh, đạo nghĩa con người; cha ra
cha, con ra con; thầy ra thầy trò ra trò, quan ra quan, dân ra dân.
Ngược lại, vô lễ vô tắc, kém đạo thiếu tình nói lên
một xã hội kiểu "ăn lông ở lỗ." Nếu qủa như
vậy, thì ăn uống cũng có thể biểu tả được xã hội: ăn
uống có phép có tắc nói lên một xã hội tôn ti trật tự;
ngược lại, nhậu nhoẹt sô bồ chỉ phản ánh được lối
sống "thiên nhiên" của con người "tiền sử":
"ăn lỗ miệng, tháo lỗ trôn" hay "ăn lắm thì
hết miếng ngon. Nói lắm thì hết lời khôn hóa rồ."
2.3.
Ăn: Biểu Hiệu Toàn Diện Sinh Sống
Chúng
ta bắt đầu với ngôn ngữ thường nhật về ăn, và không
ngạc nhiên khi thấy chữ ăn gần như gắn liền với mọi tác
động, ý thức, phán đoán gía trị, đạo đức của người
Việt, từ sinh (ăn nằm, ăn đẻ) tới cuộc sống (ăn nói,
ăn học, ăn nằm, ăn ở...), từ sống tới lạc thú (ăn
chơi,
ăn mặc), từ tôn giáo (ăn thờ) tới đạo đức (ăn năn).
Mặc dù rất thông dụng trong ngôn ngữ thường nhật, ta vẫn
thử lướt qua các từ ăn tương đối thông dụng:
-
Ăn (Bắc mặc Kinh), ăn bám, ăn bậy ăn bạ, ăn bẩn (ăn
thỉu), ăn bịp ăn bợm, ăn bốc, ăn bơ (làm biếng), ăn bớt
(bát, nói bớt lời), ăn bữa (sáng, lần bữa tối), ăn
bừa ăn bãi (ăn bừa ăn bứa), ăn bủn (ăn xỉn, ăn bùi)...
-
Ăn chực (nằm chờ), ăn cá (bỏ vây), ăn cây (nào rào
cây nấy), ăn cắp, ăn có chỗ (đỗ có nơi, ăn có nơi làm
có chỗ, ăn có mời làm có khiến), ăn cỗ (đi trước,
lội nước đi sau), ăn cơm chúa (múa tối ngày), ăn cơm (không
rau như nhà giàu chết không kèn trống), ăn cơm (lửa thóc
ăn cóc bỏ gan), ăn cơm mới (nói chuyện cũ), ăn của ngọt,
ăn cay (nuốt đắng), ăn chơi, ăn chạy, ăn chay, ăn chầy (ăn
cối), ăn chịu, ăn chung, ăn chẹn, ăn chừng (mực), ăn
chửng ăn chưng, ăn cùng (nói tận), ăn cỗ, ăn cứt, ăn c.
(chửi tục), ăn cúng, ăn chín, ăn công (ăn tư), ăn của
ngon (mặc của tộ), ăn cơm nhà (vác ngà voi), ăn cơm nhà nọ
(kháo cà nhà kia), ăn cơm nhà (thổi tù và hàng tổng), ăn
cơm với cáy (thì ngáy o o, ăn cơm với bò thì lo ngay ngáy),
ăn cùng chó (nói só cùng ma), ăn chẳng nên đọi (nói
chẳng nên lời), (ông) ăn chả (bà) ăn nem...
-
Ăn dầm nằm dìa, ăn da (lóc thịt), ăn dư (ăn giả), ăn dưng
(nói có), ăn dởm (rởm), ăn dùng, ăn dài, ăn dại, ăn
dỗi, ăn dối, ăn dữ, ăn dùng, ăn "dzui" (vui)...
-
Ăn đục (khoét), ăn đàn (anh làm đàn em), ăn đại, ăn
đấu (trả bồ), ăn đong (cho đáng ăn đong), ăn đông (ăn
tây), ăn đám, ăn đứng (ăn nằm, ăn ngồi), ăn đã, ăn
đẻ, ăn đề, ăn đêm, ăn đè (ăn nén), ăn đẹp (chơi
đẹp), ăn độc ăn địa, ăn đớp (ăn hít), ăn độn, ăn
đồng, ăn đổ, ăn đua, ăn đưa, ăn đón, ăn được (ngủ
được là tiên, ăn được cả, ngã về không), ăn đường...
-
Ăn gửi, ăn giỗ, ăn giờ (ăn giấc), ăn gả, ăn giấu ăn
giếm, ăn gán, ăn gượng (ăn ép), ăn gàn (nói gàn), ăn
gạ, ăn ngồi (ăn không ngồi rồi)...
-
Ăn học, ăn hôi, ăn hờn, ăn hối (lộ), ăn ham, ăn hàng,
ăn hại, ăn hết, ăn hiếp, ăn hung, ăn hớt, ăn hời, ăn
hởi, ăn (nói) hồ đồ, ăn (nói) hồ hởi, ăn hộ, ăn hội
đồng, ăn hơi, ăn hỏi...
-
Ăn ỉa, ăn ít, ăn ị, ăn ỉm (đi)...
-
Ăn không (nói có), ăn khăm, ăn khờ, ăn khoét, ăn khoẻ,
ăn khoe, ăn (nói) khoác lác, ăn khéo, ăn khơi khơi, ăn khổ,
ăn khô, ăn khối, ăn khen (kham)...
-
Ăn làm, ăn lắm, ăn lấy (thơm tho), ăn lỗ (miệng tháo lỗ
trôn), ăn lông (ở lỗ), ăn lúc (đói nói lúc say), ăn
lời ăn lãi, ăn lợi (ăn hại), ăn lộc (thánh, vua), ăn
liều (nói bậy), ăn lề (phép), ăn lên (ăn xuống)...
-
Ăn mặc, ăn (lỗ miệng), ăn mày, ăn mời, ăn mò, ăn mẽ,
ăn muộn, ăn mặn (nói ngay còn hơn ăn chay nói dối), ăn
miếng (trả miếng), ăn mướp (bỏ sơ)...
-
Ăn nằm, ăn ngay (nói) thẳng, ăn nghỉ, ăn ngồi, ăn ngủ, ăn
ngố ăn nghếch, ăn ngu (ăn dại), ăn no (tức bụng), ăn nói,
ăn nhạt, ăn nhiều, ăn nhịn, ăn như (tráng làm như lão),
ăn năn...
-
Ăn ốc (nói mò), ăn măng (nói mọc, ăn cò nói leo), ăn
ớt (sụt sịt ăn quít ghê răng), ăn ở...
-
Ăn phung, ăn phí (ăn phạm), ăn phừa ăn phứa, ăn phúc ăn
đức, ăn phò, ăn (uống) phô trương...
-
Ăn qùa, ăn qủa (nhớ kẻ trồng cây), ăn quịt, ăn quen, ăn
qúa, ăn quán, ăn (nói) quê mùa...
-
Ăn rỗi, ăn rờ, ăn rượu (nếp chết vì say), ăn rồi (lại
nằm mèo), ăn rơi ăn rác, ăn rủa (ăn riếc), ăn rửng ăn
rưng, ăn rành...
-
Ăn sung (trả ngái), ăn sơ sơ, ăn sõi, ăn sống, ăn (uống)
sô bồ, ăn sướng, ăn sả (láng)...
-
Ăn tàn (theo đóm), ăn to (nói lớn), ăn tanh (ăn bẩn), ăn
tham, ăn thật, ăn thúng (trả đấu), ăn trái (nhớ kẻ trồng
cây), ăn trắng (mặt trơn), ăn trấu, ăn treo, ăn trên (ngồi
chốc), ăn trông (nồi ngồi trông hướng), ăn trộm, ăn tiêu...
-
Ăn uống (tìm đến đánh nhau tìm đi)...
-
Ăn vạ, ăn vờ ăn vịt, ăn vặt ăn vãnh, ăn vụng, ăn vóc
(học hay), ăn vội ăn vã, ăn vung ăn vít, ăn vốn (ăn lời), ăn vơ ăn
vét, ăn vui...
-
Ăn xổi (ở thì), ăn xôi (chùa ngọng miệng), ăn xép, ăn
xưa (chừa sau), ăn xuông...
-
Ăn yếu...
Ngoài
từ ăn, ta có những từ tương tự diễn tả ăn, nhưng
thường mang nghĩa xấu hơn là tốt:
-
Nhậu (thông dụng trong miền Nam): nhậu nhoẹt, nhậu tưng bừng,
nhậu chết bỏ, nhậu cho đã, nhậu tùm lum, nhậu bậy nhậu bạ, nhậu
tôm, nhậu cá, nhậu dê, nhậu chó... nhậu càn, nhậu tham, nhậu
lậu...
-
Ðớp (thông dụng ở miền Bắc): đớp hít, đớp miếng cơm,
đớp bậy đớp bạ, (cũng có nghĩa là cắn), đớp trước
đớp sau, đớp của (thiên hạ) (có nghĩa ăn cắp, tham nhũng), đớp thịt đớp
cá, đớp người (cũng có nghĩa là cắn, hay đánh), đớp tiền đớp bạc
(có nghĩa là ăn cắp,
ăn quỵt)...
-
Biện: biện cơm em, biện (biển) thủ, biện sĩ (người trí
thức chỉ biết ăn, khác với biện sĩ, người biện hộ)...
-
Thực (tiếng Hán, sực, Quảng Ðông, ăn): thực phẩm, thực
khách, thực đơn, thực phạn.
-
Chén: Chén vốn có nghĩa là bát đĩa dùng để uống, ăn (chén
rượu, chén cơm, chén rau), nhưng nơi đây chỉ tác
động ăn uống: chén tạc chén thù, đánh chén, ăn chén (ăn
tiệc), vân vân.
2.4.
Phân Tích Những Ðặc Tính Trong Văn Hóa Ăn
Từ
những nhận định sơ bộ, và từ những câu nói liên quan
tới ăn trong phần trên, ta thấy ăn uống là một phần tối
quan trọng không thể tách rời khỏi đời sống Việt. Tầm
quan trọng, cũng như tầm ảnh hưởng rộng lớn của sinh hoạt
ăn uống từng được người dân công nhận như chính cuộc
sống. Chính vì thế mà từ ăn không chỉ hành động ăn, từ
uống không chỉ biểu tả tác động uống mà thôi. Chúng nói
lên mọi sinh hoạt của con người Việt, mọi phán đoán đạo
đức cũng như tâm tình của họ. Người ngoại quốc sẽ
không hiểu, mà rất có thể cho là người Việt ngớ ngẩn,
kỳ cục khi dùng những từ không tương xứng, hay không thể
có như ăn nằm, ăn tục, ăn bậy ăn bạ, ăn chơi, ăn bẩn
ăn thỉu, ăn cháo đá bát. Họ khó có thể hiểu được
kiểu nói như ăn trên ngồi chốc, ăn liều nói càn, ăn nói
vô duyên, vân vân. Lẽ dĩ nhiên, họ càng không thể (hay
không dễ mà) hiểu được những kiểu ví von như ăn năn (hối
lỗi), ăn chực nằm chờ, ăn phải bùa ngải, ăn ở
với nhau, vân vân. Trong phần tới, chúng tôi thử phân tích
những từ, những kiểu nói trên trong mối liên quan với
những khía cạnh của cuộc sống.
2.3.1.
Ăn là một hành vi thuần túy với những mục đích khác nhau
Nơi
đây từ ăn nói lên động tác ăn với nhiều mục đích
khác nhau. Ăn để sống, ăn để vui, ăn để xã giao, ăn để
quên buồn, ăn để mừng, vân vân, và nhất là ăn là một
lối hưởng thụ. Sinh hoạt ăn này chỉ mang ý nghĩa ăn thuần
túy, tức dùng miệng, răng để ăn, và tiêu hóa trong bụng.
Do đó, ăn luôn đi với thực phẩm, như ăn cái gì; với
cách ăn, các cách thế nấu ăn: phải ăn ra sao; đồ ăn gì
phải ăn cứng, thức ăn gì phải ăn mềm, thịt rau loại gì
phải ăn sống hay ăn chín hay ăn tái, phải nấu thế nào:
"cải nhừ cần tái," "bò tái trâu nhừ."
Rồi, thực phẩm nào cần gia vị nào: "chó riềng, gà
hành," vân vân. Hơn thế nữa, bữa cơm ngon cần có một
Bá Nha, một Tử Kỳ. Bữa ăn mà không có câu chuyện
"làm qùa" thì lạnh lẽo như bữa cơm ma, rượu thì
nhạt hơn cả nước ốc. Chính vì vậy, một người rất biết
thưởng thức nghệ thuật ăn như Tản Ðà từng đưa ra bốn
nguyên tắc về nghệ thuật ăn: món ăn phải nấu ra sao cho ngon, người ăn phải ăn với ai mới
thú, nơi ăn phải thơ
mộng mới thêm thú vị, và thời gian ăn phải đúng thời
điểm mới thêm phần long trọng: "Ðồ ăn không ngon, cơm
không ngon. Ðồ ăn ngon, người ăn không ngon, bữa ăn không
ngon. Ðồ ăn ngon, người ăn tri kỷ, nhưng nơi chốn không
đẹp, bữa ăn cũng không ngon; và nếu ở vào thời điểm
không đúng, bữa ăn cũng không ngon."
Từ
đây ta thấy, việc chọn đồ ăn, việc nấu ăn, cũng như
cách ăn, cách chế biến thực phẩm đóng góp một phần quan
trọng trong nghệ thuật ăn, phản ánh lối suy tư Việt.
-
Về Ðồ Ăn: Ăn xôi, ăn thịt, ăn cơm, ăn rau, ăn bánh, ăn
qùa, ăn canh (người Tầu nói là uống canh)... Ăn loại nào,
thì phải nấu thế nào, phải cần gia vị nào, phải nuớng,
rán, luôc hay chiên: "Con gà cục tác lá chanh / Con lợn
ủn ỉn mua hành cho tôi / Con chó khóc đứng khóc ngồi / Mẹ
ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.
-
Về Cách Ăn: Ta phải ăn như thế nào, dùng đũa hay dùng tay,
ngồi hay đứng, ăn trước hay ăn sau, ăn chậm hay ăn nhanh:
"ăn chậm mất ngon," "Ăn bốc, đái đứng."
Tương tự, ăn đồ gì phải ăn như thế nào: "Ăn cơm
lừa thóc, ăn cóc bỏ gan" hay "Ăn cá bỏ vây,"
"Ăn cá nhả xương, ăn đường nuốt chậm."
-
Về Thái Ðộ Ăn: Ta phải ăn như thế nào. Ăn với ai phải
có thái độ nào; ăn ở đình khác với ăn ở nhà; mà
ăn với khách lại khác với ăn với bạn thân. Thế nên,
"Ăn trông nồi, ngồi trông hướng" cũng như "rào
trước đón sau." Phong tục mời cơm, mời cha mẹ, mời
các bậc trưởng thượng dùng cơm trước, rồi ăn giữ kẽ
là những cách biểu hiện thái độ ăn của người Việt.
-
Về Nơi Ăn: Ta phải ăn ở đâu. Dịp nào phải ăn chỗ nào:
"Một bát giữa làng bằng một sàng xó bếp." Nhưng
để mời khách, người Việt thích mời họ về nhà hơn là
quán. Không phải vì tiết kiệm, nhưng vì đó là một dấu tỏ
thân thiện "cơm nhà lá vườn." Hay như Nguyễn Khuyến
từng diễn đạt: "Ðã bấy lâu nay bác tới nhà... Bác
đến chơi đây ta với ta."
2.3.2.
Ăn là một cách sống
Quan
trọng hơn, cách ăn uống, y hệt như cách ăn nói biểu hiện
chính cách sống. Thứ nhất, nó biểu hiện qua hành vi. Chúng
ta chỉ cần nhìn người ăn, cách ăn, nơi ăn, thì đã có
thể biết được người đó thuộc loại người nào, trí
thức hay lao công, thành thị hay thôn quê, bắc hay nam. Người
lao động húp canh sùm sụp, và cơm như gió, trong khi nhà nho
ăn nhỏ nhẹ, uống nhâm nhi, "ăn chẳng cầu no."
Người buôn bán ăn vội vã, vừa ăn vừa làm, trong khi
những cụ già khề khà với ly rượu nho nhỏ, suốt ngày
chưa xong. Từ những thái độ ăn như vậy, ta thấy chúng nói
lên lối sống của mỗi người: người thợ lam lũ với
cách thế ăn mộc mạc, thẳng thừng; người có học, từ
từ không vội vã. Chính vì nhận thấy sự tương quan giữa
lối ăn và cách sống, mà ta thấy trong ca dao tục ngữ không
thiếu những câu như "Ăn đã vậy, múa gậy làm sao,"
hay "ăn bốc đái đứng."
Nếu
cách thế ăn uống phản ánh hành vi con người, thì ở xã
hội nào chả thế. Có chi đáng nói. Ở đâu mà giới thợ
thuyền có thể chầm chậm thưởng thức sâm banh như giới
qúy tộc nhàn nhã hưởng thụ? Ở đâu mà giới nông dân
có thể hưởng bữa tiệc cả mấy tiếng đồng hồ của bọn
trưởng gỉa học làm sang? Ðiểm mà chúng tôi muốn nói, đó
là cách sống Việt qua lối ăn uống không chỉ là những
phản ứng máy móc, tùy thuộc vào thời gian và công việc.
Hơn thế nữa, miếng ăn, cách ăn phản ánh lối sống, tức
lối cư xử cũng như lối phán đoán giá trị của họ. Thế
nên đối với họ, không phải "người thế nào ăn thế
nấy," mà lối ăn đánh giá trị lối cư xử, lối sống.
Họ nói "Ăn đấu trả bồ" khi diễn tả lối sống
sòng phẳng, công bằng. Khi diễn tả sự tranh dành, hay sự
ganh đua, trả thù, họ nói "ăn miếng trả miếng," hay
"chồng ăn chả vợ ăn nem." Tương tự, ăn uống nói
lên tâm tình tri ân: "ăn qủa nhớ kẻ trồng cây,"
hay "uống nước nhớ nguồn." Ăn uống cũng nói lên
niềm hy vọng:
"Ăn
đong cho đáng ăn đong.
Lấy
chồng cho đáng hình dong con người
Ăn
đua cho đáng ăn đua
Lấy
chồng cho đáng việc vua việc làng"
Sau
nữa, người Việt đánh giá trị cách sống bằng chính cách
ăn, hay dụng cụ để ăn như bát, đũa, mâm, vân vân. Thế
nên, cách ăn, dụng cụ ăn luôn đi đôi với thân thế,
cũng như với tầm quan trọng của bữa ăn. Người Việt xếp
loại bữa ăn theo tầm quan trọng: bữa cơm, bữa cỗ, bữa
tiệc, đám. Ăn không tương xứng với thân phận; dùng dụng
cụ ăn không tương xứng với tầm quan trọng của bữa ăn
thường được ví von so sánh với mặt trái của xã hội:
Vợ
chồng như đũa có đôi
Bây
giờ chống thấp vợ cao
Như
đôi đũa lệch so sao cho đều
Hay:
Vợ
dại không hại bằng đũa vênh
2.3.3.
Ăn là nghệ thuật sống
Khi
nói ăn là một cách sống, là một lối sống, chúng tôi
cũng phải nói thêm, đối với người Việt, ăn là một
nghệ thuật sống. Một lối sống có ý nghĩa là một lối
sống đầy nghệ thuật, trong đó có nghệ thuật ăn uống.
Chúng ta không lạ gì nghệ thuật uống chè của người Nhật,
lối ăn cầu kỳ của người Trung Hoa, hay những bữa tiệc
đầy hình thức của giới ngoại giao. Chúng làm cuộc sống
của họ thêm thú vị, hay ít ra, không mấy nhàm chán. Tương
tự, nơi người Việt, nghệ thuật ăn làm cuộc sống của họ
mặn mà hơn. Cách tiếp khách thân thiện nhất vẫn là một
bữa ăn thịnh soạn. Lối yêu thương chồng, con cái cụ thể
nhất, vẫn là việc người vợ, người mẹ "mặt mũi
nhọ nhem, mồ hôi nhễ nhãi" sửa soạn những món ăn
người chồng và con cái ưa thích.
Vậy
nên, ta có thể nói, nghệ thuật sống của người Việt không
chỉ nói lên cách sống thoải mái, khiến giác quan thích thú,
mà còn hơn thế nữa, nó biểu tả những cảm tình sâu đậm
nhất. Qua ăn, ta có thể tìm được sự thỏa mãn tình cảm.
Qua ăn, ta có thể biểu lộ tình yêu, tình thương, hay sự quan
tâm của ta với người khác. Và như vậy, nghệ thuật ăn
của ta có lẽ hơi khác với nghệ thuật ăn uống của các
dân tộc khác. Người mẹ cảm thấy hạnh phúc khi nhìn chồng
con "nhồm nhoàm" ăn không kịp thở. Người con vui
sướng khi thấy bố mẹ thưởng thức món qùa (bánh) cô
(anh) ta làm biếu song thân. Nơi đây, ta thấy người Việt
diễn tả nghệ thuật sống qua chính nghệ thuật ăn uống. Nghệ
thuật ăn của họ mục đích không chỉ nhắm tăng khẩu vị,
không chỉ để thỏa mãn dạ dày, mà còn để biểu lộ tình
cảm của họ. Như vậy, nó không hoàn toàn chỉ dừng lại nơi
nghệ thuật thưởng thức mỹ vị của mỗi cá nhân. Ta biết
người Tầu rất để ý đến mùi vị, mầu sắc, cách xếp
món ăn. Nghệ thuật nấu nướng rất cầu kỳ, không chỉ làm
ta "khoái khẩu" mà còn "khoái nhãn,"
"khoái vị," và "thỏa mãn óc tưởng tượng."
Ðối với người Nhật, nghệ thuật ăn, uống phản ánh nghệ
thuật sống của họ: rất tỉ mỉ, rất điêu luyện, gần thiên
nhiên (biển cả), gần thế giới cỏ cây. Nhưng nói chung,
đối với người Tầu hay người Nhật, nghệ thuật ăn mục
đích chính vẫn là làm thỏa mãn ngũ giác của chính người
đương ăn. Nghệ thuật bếp núc của họ chưa hẳn gắn bó
với tình cảm con người, một cách mật thiết và một cách
toàn diện, như trong các món ăn Việt. Chính vì coi tình cảm
là bản chất, mà đối với người Việt, ăn không chỉ nói
lên tình trạng thoải mái của con ngưòi:
"Ăn
được ngủ được là tiên
Không
ăn không ngủ mất tiền thêm lo"
Mà
còn biểu tả sự hưởng lạc:
"Ăn
lấy đời, chơi lấy thời"
Và
nhất là biểu lộ tình thương:
"Ăn
rượu nếp chết vì say
Chẳng
say vì tượu mà say vì người
Say
vì cái miệng ai cười
Ðôi
mắt ai liếc chào mời nở nang".
2.3.4.
Ăn uống như là quy luật sống
Quan
trọng hơn cả, đó là người Việt thường đánh giá trị con
người qua miếng ăn, cách thế ăn. Nói cách khác, quy luật
xã hội thường được người Việt diễn tả qua lối ăn
uống: ăn uống phản ánh phạm trù sống, phương thức sống,
cách thế sống và phép tắc sống. Và từ đây, ta có thể
nói, quy luật, phép tắc ăn uống cũng phản ánh một phần
lớn phép tắc sống. Ta thấy trong các câu ca dao tục ngữ như
sau:
-
Ăn nói lên quy luật sống:
"Ăn
cây nào rào cây nấy"
-
Ăn nói lên bổn phận sống:
"Ăn
qủa nhớ kẻ trồng cây"
"Uống
nước nhớ nguồn"
-
Ăn nói lên phương cách sống:
"Ăn
có nơi làm có chỗ"
2.3.5.
Miếng ăn nói lên tấm lòng sống:
Những
quy luật sống chỉ được tuân thủ, nếu nó phản ánh, giúp
và giải quyết những vấn nạn trong cuộc sống. Và nhất là
nó phát xuất từ chính tấm lòng của con người. Ðây là
một lý do quan trọng giải thích vai trò quan trọng của ăn
uống trong nền văn hóa Việt. Bài thơ của Nguyễn Khuyến sau
đây được người Việt ưa thích, chính vì nó nói lên tâm
tình chung của dân Việt:
"Ðã
bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ
thời đi vắng chợ thời xa
Ao
sâu nước cả không chài cá
Vườn
rộng rào thưa khó đuổi gà
...
Bác
đến chơi đây ta với ta."
2.3.6.
Ăn biểu hiện tính cộng đồng, xã hội
Trong
tập Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm nhận định,
chính những đặc tính như tổng hợp, cộng đồng và mực
thước thấy trong nghệ thuật ăn uống mới là những nguyên
lý cốt lõi của văn hóa Việt. Nhận định trên qủa thật
có một cơ sở khá chắc chắn. Nơi đây, chúng tôi xin bàn
thêm về tính chất cộng đồng (hay gia đình) của bữa cơm
Việt, lối ăn Việt, và ngay cả cách chế biến thực phẩm
Việt.
Bữa
cơm truyền thống Việt ngồi quay quần trên chiếu, chung quanh
mâm cơm cũng tròn. Cách ăn cũng cộng đồng: cùng chấm
một bát nước mắm, cùng múc một bát canh, cùng gắp món
ăn từ đĩa, cùng một niêu (nồi) cơm. Không có chia phần, cũng không có phân
loại, như thường thấy trong bữa
ăn Âu Mỹ. Thêm khách, thêm bát, thêm đũa, và mọi
người đều nhịn một tí để chia cho người khách.
Tuy
theo trật tự trên dưới. Người dưới đợi người trên,
nhưng ngược lại, ta cũng thấy người trên nhường người
dưới. Con cháu mời và đợi ông bà, cha mẹ gắp thức
ăn, ăn trước. Nhưng ông bà, cha mẹ thường gắp thức ăn
cho con cháu trước. "Ăn trông nồi, ngồi trông
hướng" không có nghĩa là tuân thủ quy luật kẻ ngồi
trên. Câu này mang một ý nghĩa tương quan. Ta tuân thủ luật
tương quan cộng đồng một quy luật dựa theo sự tương quan
giữa mọi người. Do vậy, người Việt không có lễ nghi cố
định trong các bữa tiệc, nhưng họ có lễ phép theo tinh thần
tôn kính và nhường nhịn. Con kính cha, cha nhường con, cháu
mời ông, ông cho cháu. Chủ nhường khách, khách nhường
chủ. "Ngồi trông hướng" có lẽ phải hiểu theo nghĩa
như vậy. "Ăn trông nồi" là xem nồi cơm có đủ cho
mọi người hay không. Ðây là lý do tại sao ai cũng ăn
không no, nhưng mà đồ ăn vẫn còn đồ thừa. Ai ai cũng
nhường cho nhau.
Tính
chất cộng đồng cũng thấy trong cách dùng bát, đũa, nồi
và mâm. Chiếc bát "cái", chiếc đĩa "cái"
để dùng chung, và đặc biệt là cái mâm, bát nước mắm
và bát canh. Tác gỉa Băng Sơn nhận xét: "Lý do gì mâm
mang hình tròn... có lẽ trước hết vì nó hợp lý, gần với
tất cả mọi người ngồi quanh nó... Tâm điểm của mâm là
bát nước chấm, một đặc biệt của mâm cơm Việt Nam, nó
điều hòa mọi vị khẩu mặn hay nhạt, chua hay cay, đặc hay
loãng..." Tương tự, Trần Ngọc Thêm cũng nhận định:
"Tính cộng đồng và tính mực thước trong bữa ăn thể
hiện tập trung qua nồi cơm và chén nước mắm."
Gs.
Trần Văn Ðoàn
Ðại
Học Quốc Gia Ðài Loan
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire