Thái Bá Tân THẾ GIỚI LƯỢC SỬ DIỄN CA
LỜI NÓI ĐẦU
Chào các cháu thân mến. Vậy là ông cháu ta Đã có chuyến du ngoạn Suốt lịch sử nước nhà.
Tổ tiên đã dựng nước, Mở bờ cõi non sông. Giữ nước là công việc Của các cháu và ông.
Con chim nó có tổ. Con thú nó có hang. Con người có tổ quốc, Quê hương và xóm làng.
Tổ quốc ta yêu quí Sẽ thế nào sau này Phụ thuộc vào những việc Các cháu làm hôm nay.
Hiểu biết và kính trọng Lịch sử của nước nhà Giúp các cháu bước tiếp Con đường của ông cha.
Vậy đọc lại cho nhớ. Nếu được thì hàng ngày. Còn giờ đã đến lúc, Bắt đầu từ hôm nay,
Ông sẽ đưa các cháu Ngược thời gian, du hành Lịch sử toàn thế giới, Qua các nền văn minh.
Lâu và xa lắm đấy. Nhưng yên tâm, không sao. Ông hứa sẽ thú vị Và không mệt tẹo nào.
Rồi các cháu sẽ thấy Lịch sử của loài người, Cũng phức tạp, biến động, Đầy máu chảy, đầu rơi.
Vì đó là qui luật Cuộc đấu tranh triền miên Giữa tiến bộ, phản động, Tốt đẹp và thấp hèn.
Ông sẽ đưa các cháu Đi từ gần đến xa. Bắt đầu từ những nước Láng giềng xung quanh ta.
Như cuốn Lược Sử Việt, Khi kết thúc mỗi chương Sẽ có chuyện cổ tích Hoặc triết lý đời thường.
Hôm nay, chương thứ nhất - Lịch sử nước Trung Hoa, Một nền văn minh lớn Gần gửi với chúng ta.
Ông sẽ kể tóm lược, Nên không dài lắm đâu, Bằng thể thơ năm chữ. Nào, chúng ta bắt đầu.
Chương Một TRUNG QUỐC
1 TỪ NGHIÊU THUẤN ĐẾN HẾT NHÀ TÂY CHU
Lịch sử nước Trung Quốc Hơn năm nghìn năm nay. Được ghi chép cụ thể Trong những cuốn sử dày.
Từng tồn tại rất sớm, Nền văn minh Trung Hoa Đã phát triển rực rỡ, Cùng Ai Cập, Lưỡng Hà…
Từ tập quán hái lượm, Họ đã biết nghề nông, Có công cụ lao động, Bằng sắt và bằng đồng.
Khoảng năm nghìn năm trước, Ở dọc sông Hoàng Hà, Một người tên Hoàng Đế, Thủy tổ người Trung Hoa,
Nổi lên, thành thủ lĩnh Một bộ tộc đông dân, Đã biết làm vũ khí, Dệt vải, làm áo quần.
Họ đã có chữ viết, Biết làm xe và thuyền, Biết tạo ra nhạc cụ Và thờ cũng tổ tiên.
Về sau, sử chép lại Rằng vào thời gian này Dân hiền, đời thịnh trị, Toàn điều tốt, điều hay.
Đêm ngủ không đóng cửa. Vua giản dị như dân. Của rơi không ai nhặt, Nhà nào cũng đủ ăn.
Còn các vua của họ, Những vị vua đầu tiên, Như vua Nghiêu, vua Thuấn, Là những bậc người hiền.
Vùng Hoàng Hà thời ấy Lũ lụt xẩy ra nhiều. Hạ Vũ có công lớn Trong việc xây đê điều.
Nên khi vua Thuấn chết, Hạ Vũ được tôn lên, Lập triều đại nhà Hạ, Thành triều đại đầu tiên.
Triều đại này tồn tại Mười sáu đời, trải qua Suốt gần bốn thế kỷ, Dân thuận, nước yên hòa.
Vua cuối cùng nhà Hạ Tên là Kiệt, vua này Nổi tiếng rất tàn bạo, Giết người không ghê tay.
Cũng vào thời kỳ ấy, Ở hạ lưu sông Hoàng, Bộ tộc Thương đã mạnh, Người đứng đầu là Thang.
Thang đem quân đánh Kiệt. Kiệt thế yếu, phải thua. Đời Nhà Hạ chấm dứt. Thang tự mình xưng vua.
Nhà Thương được thành lập. Sáu trăm năm, đời này Dời kinh đô đến Bạc, Tỉnh Hà Nam ngày nay.
Thế kỷ thứ mười bốn Trước Công Nguyên, Bàn Cân Dời đến Ân, từ đó Nhà Thương thành nhà Ân.
Cuối đời Thương, vua Trụ, Một bạo chúa hôn mê, Độc ác, ham tửu sắc, Đánh sưu thuế nặng nề.
Hắn ăn chơi xa xỉ, Lấy rượu đổ thành sông. Si mê nàng Đát Kỷ, Quên triều chính, việc công.
Bộ lạc Chu thời đó, Ở thượng lưu Hoàng Hà Đã bắt đầu lớn mạnh, Thanh và thế vang xa.
Thủ lĩnh bộ lạc ấy Có tên gọi là Xương. Cuối cùng đã lập nước, Tự xưng là Văn Vương.
Nhân khi Thương suy yếu, Vũ Vương, con Văn Vương, Được Tử Nha phò tá, Đem đại binh đánh Thương.
Vua Trụ phải tự tử, Dù tướng nhiều, quân đông. Sau hơn sáu thế kỷ, Nhà Thương bị diệt vong.
Nhà Chu được thành lập, Dời đô về phía Tây, Đến Cảo Kinh, vì thế, Tên nhà Chu thời này
Là Tây Chu, vua Vũ, Để yên lòng người dân, Cho thả hết tù phạm, Cắt giảm thuế dần dần.
Hai năm sau Vũ chết, Con nối ngôi, Chu Công, Một người em của Vũ Làm nhiếp chính, và ông,
Vốn là người tài đức, Giúp ấu chúa yên ngôi, Mở mang thêm bờ cõi, Thu phục được lòng người.
Bước vào thời cường thịnh, Đất rộng, nước yên bình, Vua Chu cắt, cấp đất Cho các con cháu mình.
Những vùng đất được cắt Sau thành nước chư hầu. Nước phân quyền từ đấy, Nhưng liên kết với nhau.
Năm bảy trăm tám mốt Trước Công nguyên, không may Nhà Chu có vua mới Là U Vương, vua này
Là một kẻ tàn bạo, Mê tửu sắc, điên khùng Hắn đã đẩy đất nước Đi vào chỗ khốn cùng.
Hắn bỏ Thân Hoàng hậu Và con trai của bà, Lập con trai Bao Tử Để nối dõi vua cha.
Do việc phế lập ấy, Người gia đình họ Thân Câu kết với Phương Bắc, Vốn không phải chư thần.
Người Phương Bắc thời ấy Được gọi là Hung Nô, Hay còn có tên khác, Gọi chung là giặc Hồ.
Người Hung Nô tiến đánh, Giết chết vua U Vương. Nhà Tây Chu chấm dứt. Âu cũng lẽ bình thường.
Một khi vua tàn bạo, Đắm mình vào ăn chơi, Thì vận nước suy kiệt Là đúng với mệnh trời.
Giwof đến phần cổ tích, Ông sẽ kể hôm nay Nguồn gốc một ngày Tết, Tết bánh trôi, bánh chay.
Hơn thế, nguồn gốc ấy, Vốn đã lâu, rất lâu, Liên quan đến vua Tấn Sẽ kể ở phần sau.
TẤN VĂN CÔNG
Tấn Văn Công là một Trong Ngũ Bá Xuân Thu, Sáu ông vua nổi tiếng, Các chư hầu Nhà Chu.
Ông có tài thao lược, Đao kiếm cũng tinh thông. Rồi nổi lên xưng bá Cùng vua Tề Hoàn Công.
Tên ông gắn với Tết Bánh trôi và bánh chay, Hay còn gọi Hàn Thực. Truyền thuyết kể thế này:
* Đời Xuân Thu, vua Tấn Gặp nạn, sống lưu vong, Hết Tề rồi đến Sở, Hết Tây lại về Đông.
Có một người hiền sĩ Tên là Giới Tử Thôi, Theo vua, giúp mưu kế, Chia hoạn nạn, và rồi,
Một lần nọ, đói quá, Chẳng còn gì để ăn, Ông tự mình xẻo thịt, Một miếng ở bắp chân.
Lặng lẽ, ông đem nướng Rồi mời Tấn Văn Công. Ăn hết vua mới biết, Rất cảm kích trong lòng.
Mười chín năm phiêu bạt, Giới Tử Thôi theo ngài. Cho đến khi vua Tấn Lần nữa được lên ngai.
Ngài ban thưởng hậu hĩnh Cho quan và bầy tôi. Thế mà, thật đáng trách, Lại quên Giới Tử Thôi.
Ông không chút oán hận, Nghĩ mình nghĩa trả xong, Bèn vào rừng ở ẩn Cùng mẹ già của ông.
Khi vua Tấn chợt nhớ, Liền mời ông vào cung. Giới Tử Thôi không chịu, Bất dắc dĩ, cuối cùng
Vua cho người phóng lửa Đốt cháy khu rừng già, Với hy vọng nhờ thế Giới Tử Thôi sẽ ra.
Nhưng ông vẫn cố thủ. Rồi hai mẹ con ông Ôm nhau chịu chết cháy. Vua rất đỗi đau lòng.
Ngài bèn cho lập miếu Thờ cũng ông đêm ngày. Đồng thời ban chiếu chỉ Cấm dân chúng từ nay
Không ai được nhóm lửa Ngày mồng Ba tháng Ba, Để nhớ gương tuẫn tiết Của ông và mẹ già.
Từ đó dân nước Tấn Không nhóm lửa ngày này, Phải ăn thức ăn nguội. Phong tục ấy đến nay
Còn giữ ở Trung Quốc Và cả Việt Nam ta, Thành Tết ăn bánh nguội Ngày mồng Ba tháng Ba.
2 THỜI ĐÔNG CHU VÀ XUÂN THU, CHIẾN QUỐC
Con trai Thân Hàng Hậu Là Nghi Cửu lên ngôi. Bình Vương là đế hiệu, Một ông vua không tồi.
Bình Vương liền ban chiếu Dời đô về phía Đông, Tới thành xưa Lạc Ấp, Đất rộng và dân đông.
Vì thế giai đoạn ấy Được gọi là Đông Chu. Kéo dài nửa thế kỷ Đầy bão áp mịt mù.
Thời kỳ đầu, lịch sử Gọi là Chu Xuân Thu, Vì được ghi chép lại Trong cuốn sách Xuân Thu.
Sách do Khổng Tử soạn. Ông là một thánh hiền, Người Ấp Trâu, nước Lỗ, Chuyên chép sử biên niên.
Nhà Chu càng suy yếu. Trong khi các chư hầu Ngày càng thêm lớn mạnh, Cạnh tranh, hằm hè nhau.
Phía bắc có nước Tấn. Nước Tần ở phía Tây. Phía Nam là nước Sở, Tề - phía Đông, hàng ngày
Các nước ấy quấy phá. Rồi nước Việt, nước Ngô Ở phía Nam trỗi dậy, Mưu toan lập cơ đồ.
Còn có nhiều nước nhỏ Ngoài những nước kể trên, Như Trịnh, Vệ, Tống, Lỗ, Và rồi Thái, Trần, Yên…
Hơn thế, các bộ tộc Được gọi là “man di” Cả phía Nam, phía Bắc, Cũng quấy phá nhiều khi.
Các cuộc chiến lớn nhỏ Luôn xẩy ra thường xuyên. Nhà Đông Chu thêm yếu, Nhường nước khác nổi lên.
Ở nước Tề lúc ấy Vua Hoàn Công lên ngôi, Quản Trọng, một người giỏi, Làm Thừa Tướng, và rồi
Nước Tề thành hùng mạnh Nhờ Quản Trọng tiến hành Nhiều cải cách tiến bộ Và thắng trong chiến tranh.
Tề Hoàn Công chủ động Thành lập một liên minh Với Tống, Trần, Vệ, Trịnh, Gia tăng thế lực mình.
Ông nhiều lần đánh bại Giặc Nhung Địch phía Tây Và “rợ Hồ” phía Bắc, Thanh thế tăng từng ngày.
Các sử gia đánh giá Rằng vua Tề Hoàn Công Là một ông vua tốt, Có tài và có lòng.
Ông là người sớm nhất Xưng bá với Nhà Chu. Một trong năm vua lớn, Ngũ Bá thời Xuân Thu.
Phát triển tương đối muộn, Ở phía Tây, nước Tần Đã bắt đầu hùng mạnh Và bành trướng dần dần.
Đầu thế kỷ thứ bảy Trước Công nguyên, nước này Chiếm được mười hai nước Của Nhung Địch phía Tây.
Trong khi đó, nước Sở Vùng trung lưu Trường Giang, Đã lớn mạnh đến mức Đem quân đánh lân bang.
Nước Sở đánh nước Trịnh, Đánh cả Tấn, cả Tần. Có lúc thắng, lúc bại, Lâu dài và nhiều lần.
Sở cũng không ngần ngại Thách thức cả Nhà Chu Bằng cách ra yêu sách Suốt trong thời Xuân Thu.
Năm năm trăm linh sáu Sau Công Nguyên, vua Ngô Là Hạp Lư, tiến đánh, Sở thua, bỏ kinh đô.
Thân Bao Tư, người Sở, Một mình đứng trước thềm, Cầu xin vua Tần giúp, Khóc bảy ngày bảy đêm.
Vua Tần nể tình cũ, Đem đại binh đánh Ngô. Quân Ngô đành phải rút. Sở lấy lại cơ đồ.
Ở hạ lưu, nước Việt, Vua Doãn Thường băng hà. Con trai là Câu Tiễn Được lên nối ngôi cha.
Vua Ngô nhân lúc ấy Quyết chiếm Việt lần này. Nhưng thua, vua tử trận, Con, Phù Sai, lên thay.
Rồi Việt vương Câu Tiễn Đem đại quân đánh Ngô. Đại bại, vua bị bắt, Tan nát cả cơ đồ.
May Phù Sai không giết, Còn cho làm chư hầu, Câu Tiễn, ơn ngoài mặt, Nhưng đang tính mưu sâu.
Ông sai tướng Phạm Lãi Chọn trong đám cung tần Nàng Tây Thi, là một Trong “Tứ đại mỹ nhân”.
Tây Thi được lựa chọn Dâng cống cho Ngô Vương. Vì nàng mà Ngô mất. Nàng cũng chết thảm thương.
Thời Xuân Thu kết thúc, Với chiến tranh triền miên. Một số nước đã mạnh, Ổn định và tập quyền.
Đó là thời đại loạn, Đánh nhau lộn tùng phèo. Nước lớn đánh nước nhỏ, Nước giàu đánh nước nghèo.
Người dân rất cơ cực, Binh dịch và phu phen. Hàng vạn người chết đói, Xã hội luôn bất yên.
Tiếp đến là giai đoạn Mà trong sử, người Hoa Gọi là thời Chiến Quốc, Cũng chẳng mấy yên hòa.
Bắt đầu từ thế kỷ Thứ năm trước Công Nguyên, Ba trăm năm đấu đá Và chiến tranh triền miên.
Tức từ lúc nước Tấn Bị phân chia thành ba Cho đến khi Doanh Chính Thống nhất nước Trung Hoa.
Cuốn sử “Chiến Quốc Sách” Ghi lại thời kỳ này. Nên gọi là Chiến Quốc Như ta biết ngày nay.
Các nước thời Chiến Quốc, Giống như thời Xuân Thu, Cũng giành nhau quyền lực, Gây chiến tranh mịt mù.
Khác là giai đoạn ấy, Các lãnh chúa địa phương Thôn tính nhiều nước nhỏ Để xưng bá, xưng vương.
Các cuộc chiến ác liệt Và dai dẳng, cuối cùng Xuất hiện bảy nước lớn, Sử gọi là Thất Hùng.
Gồm Sở, Tề, Yên, Triệu, Cùng Ngụy, Hàn và Tần. Vừa nhiều binh lắm tướng, Đất rộng và đông dân.
Cũng vào thời Chiến Quốc Triết học cổ Trung Hoa Đã phát triển rực rỡ, Có ảnh hưởng sâu xa.
Trước hết là Khổng Giáo, Do Khổng Tử khai hoa. Rồi Đạo Giáo Lão Tử, Rồi Mặc Học, Pháp Gia…
Cả Binh Pháp Tôn Tử Cũng xuất hiện thời này, Mà ứng dụng, ý nghĩa Cho đến tận ngày nay.
Thời Chiến Quốc đồ sắt Thay thế cho đồ đồng. Thương mại khá phát triển. Phát triển cả nghề nông.
Quân đội gồm chủ yếu Bộ, kỵ binh, dân quân. Các chiến xa thời trước Đã bị lãng quên dần.
* Bây giờ, để giải trí, Ông kể câu chuyện này, Về một vị vua Sở. Tất nhiên chuyện rất hay.
SỞ TRANG VƯƠNG
Theo truyền thuyết kể lại, Một lần Sở Trang Vương Mở tiệc lớn khoản đãi Các quan và dân thường.
Đang vui thì gió lớn Thổi tắt nến, bất thần, Có vị quan nào đấy Kéo áo một cung tần.
Nàng này túm, kéo đứt Dải mũ của ông ta, Rồi cúi xin vua Sở Trừng phạt kẻ dâm tà.
“Hắn làm điều sàm sỡ. Dải mũ của hắn đây. Mũ ai không có dải Thì đúng là tên này!”
Sở Trang Vương nghĩ bụng: “Quá chén, quan của ta Say, nhưng sao nỡ giết Vì miệng lưỡi đàn bà?”
Rồi ngài liền tuyên bố: “Ta mở tiệc đêm nay, Ai chưa đứt dải mũ Là chưa vui, chưa say!”
Các quan nghe, nhất loạt Dựt dải mũ trên đầu. Nên khi đèn thắp sáng, Mũ ai cũng như nhau.
Bữa tiệc vui đêm ấy Vẫn tiếp diễn như thường. Không ai bị trị tội Nhờ mưu Sở Trang Vương.
Hai năm tiếp, nước Sở Và nước Tấn đánh nhau. Có một vị tướng trẻ Luôn liều chết đi đầu.
Người này rất dũng cảm, Đã nhiều lần cứu vua. Một phần cũng nhờ thế Mà Sở thắng, Tấn thua.
Lần nọ, trong tiệc rượu, Vua Sở hỏi người này: “Ta không hề biệt đãi, Mà sao ngươi xưa nay
Lại hết lòng phụng sự, Cứu mạng ta nhiều lần?” Người kia cúi đầu đáp: “Dạ muôn tâu, vì thần
Đội ơn lớn bệ hạ Đã tha tội chém đầu Vì kéo áo mỹ nữ. Ân đức nặng và sâu.”
3 TẦN THỦY HOÀNG
Ông là vị hoàng đế, Người có công đầu tiên Thống nhất nước, thế kỷ Thứ ba trước Công Nguyên.
Vào năm hai hai một, Ông sáng lập Nhà Tần, Chấm dứt ba thế kỷ Thời Chiến Quốc tranh phân.
Ông tên là Doanh Chính, Con cả Trang Tương Vương. Mẹ - Triệu Cơ, tỳ thiếp Lã Bất Vi, doanh thương.
Tài liệu sử có nói, Tuy còn nhiều hoài nghi, Rằng thực ra Doanh Chính Là con Lã Bất Vy.
Sinh hai trăm năm chín, Mất năm hai trăm mười, Một nhân vật quan trọng Từng lừng lẫy một thời.
Ông thống nhất Trung Quốc, Người có công mở ra Suốt hai thiên niên kỷ Các triều đại Trung Hoa.
Ông tự mình xưng đế, Hiệu là Tần Thủy Hoàng. “Thủy” có nghĩa thứ nhất. “Hoàng” là sáng, vinh quang.
Cùng thừa tướng Lý Tự, Ông đã cho tiến hành Một loạt các cải cách Trong đế chế của mình.
Ông chấn hưng kinh tế, Sắp xếp lại chức quan Và bộ máy cai trị Một cách rất bạo tàn.
Hàng vạn người chết Xây Vạn Lý Trường thành Để ngăn giặc Phương Bắc Lúc ấy đang hoành hành.
Một hệ thống đường bộ Nhằm phát triển giao thông, Trên qui mô toàn quốc, Cũng được xây thời ông.
Để gìn giữ ngôi báu Và bảo vệ cơ đồ, Ông ra lệnh đốt sách, Chôn sống nhiều nhà nho.
(Đang viết) |
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire