Tôi đã giới thiệu truyện này mấy lần trên trang Blog của tôi và mễi lần mang một tâm sự khác nhau.
Trước khi vào đoc̣ truyện, mời quý anh chị đọc qua phần tiểu sử của Nhã Ca,
Caroline Thanh Hương
Nhã Ca
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mục lục
Tiểu sử
Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm.Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương)[1]
Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...[2]). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà[3]. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế[4] bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà.[5] Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam.
Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ[6][7]
Tác phẩm
|
Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như:
- Hồi ký một người mất ngày tháng
- Đường Tự Do Sài Gòn (2006).
- Đêm nghe tiếng đại bác đã được Liêu Truong dịch sang tiếng Pháp với tựa Le cannon tonnent la nuit
- Đoàn nữ binh mùa thu được Barry Hilton dịch sang tiếng Anh với tựa The Short Timers
- Giải khăn sô cho Huế được giáo sư sử học đại học Texas A&M,Olga Dror, dịch sang tiếng Anh với tựa Mourning Headband for Hue (2014)[8]
- Phim Đất khổ được hãng Remis phát hành với tên Land of Sorrows
Bút ký Giải khăn sô cho Huế
Theo đài RFA, 40 năm trôi qua (tới 2008) nhưng quanh sự việc xảy ra tại Huế, vẫn chưa xác nhận ra ai chịu trách nhiệm [10], cho nên hồi ký Giải khăn sô cho Huế, miêu tả lại hầu như toàn cảnh biến cố Tết Mậu Thân tại Huế vẫn còn được tìm đọc. Cuốn sách đã bị tịch thu và bị thiêu hủy sau 1975, tác giả phải vào tù, tường thuật lại những biến động với người dân Huế trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân. Vào thời điểm đó Nhã Ca rời Sài gòn ra Huế để dự tang lễ của thân phụ rồi bị kẹt lại trong thành phố. Tác giả tuyên bố đã thấy tận mắt, hoặc thu thập từ những nhân chứng khác về những cuộc truy lùng, bắt giữ, những trận đánh, những ngôi mả tập thể...[2] Trong sách có viết về ba nhân vật có thật, mà sau này đã có gặp mặt nói chuyện với tác giả, trước khi bà được phép rời Sài Gòn sang Thụy Điển tị nạn. Đó là giáo sư Lê Văn Hảo, nguyên Chủ tịch UBND Cách mạng Thành phố Huế, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nguyên Tổng Thư ký Liên Minh Các Lực lượng Dân tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Thành phố Huế, và nhà văn Nguyễn Ðắc Xuân, một phụ tá của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhân dịp tưởng niệm 40 năm biến cố Tết Mậu thân, nhà xuất bản Việt Báo đã cho tái xuất bản sách này[2] Trong cuộc phỏng vấn với Thuy Khuê của đài RFI, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cảm ơn Nhã Ca đã viết trong cuốn Giải Khăn Sô Cho Huế, là ông đã không về Huế trong biến cố Mậu Thân, chứng minh ông không có trách nhiệm gì về "những thảm sát ở Huế" mà người khác vu oan cho ông.[11]2014, sách này được giáo sư sử học đại học Texas A&M, tiến sĩ Olga Dror, dịch sang tiếng Anh với tựa Mourning Headband for Hue và được Indiana University Press xuất bản. Olga Dror là người Nga đã sang Việt Nam học từ 1982 cho tới 1987, tuy nhiên chỉ bắt đầu đọc văn học miền Nam khi bà theo học tại Đại học Cornell. Về lý do chọn dịch tác phẩm này sang Anh Ngữ, Tiến sĩ Dror cho biết, “Tôi nghĩ 'Giải Khăn Sô Cho Huế' là một cuốn rất quan trọng bởi nó không chỉ mô tả về thường dân mà nó còn là tiếng nói của văn học miền Nam. Phần lớn các tác phẩm xuất hiện trong thời chiến tranh được dịch ra tiếng Anh đều từ miền Bắc. Tôi nghĩ người Mỹ cũng phải nghe tiếng nói của miền Nam vì đó là một bộ phận cốt yếu trong cuộc xung đột kia.[12]
Nhưng theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân (1 trong 3 nhân vật có thật được nhắc đến trong sách) thì đây là một tác phẩm có nội dung tuyên truyền để đánh lạc hướng dư luận trong nước và trên thế giới nên đã nhận được giải Văn chương Quốc gia do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tặng năm 1970. Cuốn sách đã vu oan cho rất nhiều nhân sĩ, trí thức ủng hộ quân Giải phóng mà trong số đó nổi bật là ba nhân vật "Tường - Xuân - Phan". Sau này, khi tình cờ gặp ông Xuân, Nhã Ca công nhận là cuốn sách đã hư cấu nên nhiều chuyện về ông Xuân và những người đồng đội của ông, khiến ông Xuân phải chịu oan nhiều tiếng xấu về sau. Nhã Ca nói lý do việc mình hư cấu như sau: "viết ký thì phải có những con người bằng xương bằng thịt mình biết rõ ràng mới hay, chứ anh nghĩ lính giải phóng ở miền Bắc vào tôi nào có biết ai đâu"[6][7]
Phê bình
- Một nhân vật được đề cập trong cuốn sách, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường nói với Thuy Khuê, đài RFI năm 1997: "Dù có một số sự việc không đúng sự thực, do có hoặc không có dụng ý của tác giả, Giải Khăn Sô Cho Huế đối với tôi, vẫn là một bút ký hay, viết về Huế Mậu Thân; hàng chục năm qua đọc lại, tôi vẫn còn thấy quặn lòng. Chị Nhã Ca làm tôi liên tưởng tới Nỗi Buồn Chiến tranh của Bảo Ninh."[11]
- 25/2/15, Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á của Đại học California Berkeley đã có buổi giới thiệu bản dịch tiếng Anh của Olga Dror, Giáo sư sử học đại học này Peter Zinoman nhận định: “Giải khăn sô cho Huế là tài liệu lịch sử quan trọng nhất về biến cố Tết Mậu Thân ở Huế và khi tìm hiểu về cuộc chiến Việt Nam cần đọc nó bên cạnh All Quiet in the Western Front và những tác phẩm khác.”[13]
- Năm 2008, khi biết cuốn sách được tái bản với nội dung như cũ, Trần Đắc Xuân trả lời đài RFA: "Năm 1969 Nhã Ca viết sách trong lúc chạy loạn, viết trong trường hợp bà tưởng tôi chết rồi, bà viết để lấy tiền của chính phủ Thiệu... để sống, tôi có thể hiểu được nên tôi không giận gì bà. Nay bà đã biết tôi còn sống, bà đã biết rõ không có chuyện tôi giết người, không có chuyện tôi ngồi xử án ai vậy tại sao bà còn hạ bút viết trong hồi ký những điều ác nhân đến như thế? Nếu bà sống với tôi cùng trong một nền pháp luật tôi sẽ đưa bà ta ra tòa về tội vu khống... Riêng tôi-Nguyễn Đắc Xuân, bao giờ Nhã Ca chưa có lời xin lỗi, chưa xoá bỏ tất cả những lời vu khống tội ác cho tôi trong tất cả tác phẩm của bà thì trong hồi ký của tôi sẽ có những Phụ lục đời đời lên án bà"[1]
Nhận xét
Trong sách Văn Học Miền Nam (quyển "Thơ Miền Nam"), nhà văn Võ Phiến đã nhận định về Nhã Ca như sau:- "Sống giữa một thời không còn cấm kỵ, mà sôi nổi, mà cực đoan, Nhã Ca mạnh dạn tự mình chọn lựa tình yêu của mình, con đường hạnh phúc của mình, con đường đời của mình. Bà không ngần ngại bỏ nhà ra đi, đổi họ thay tên, phiêu lưu trong cái nghề viết văn làm báo. Tự do, bà thích nói đến tiếng ấy: tự do trong thể xác, trong đời mình..."
- Và văn chương bà, dù là văn chương viết về tuổi trẻ, vẫn trĩu nặng ưu tư. Nghệ thuật của bà là cuộc đời trước mặt. Ở bà, cá nhân là chính trị, là xã hội. Bà có chân dung đầy góc cạnh nhọn, như những bức tranh của Braque, của Picasso.
- Nhã Ca là một nhà văn độc lập và bất khuất, bà cũng là một tiêu biểu rõ rệt nhất cho nền văn chương nhân bản của miền Nam trong thời kỳ 1954-1975.[14]
Thơ Nhã Ca
-
- ...Tôi làm con gái
- Một lần yêu người
- Một lần mãi mai
- Bây giờ chưa thôi
- Tôi là con gái
- Bao nhiêu tuổi đây
- Bấy lần ngây dại
- Buồn không ai hay
- (trích Nhã ca thứ nhất)
- ...Chợt tiếng buồn xưa động bóng cây
- Người đi chưa dạt dấu chân giày
- Bàn tay nằm đó không ngày tháng
- Tình ái xin về với cỏ may.
- Và lá mùa xanh cũng đỏ dần
- Còn đây niềm hối tiếc thanh xuân
- Giấc mơ choàng dậy tan hình bóng
- Và nỗi tàn phai gõ một lần.
- (trích Thanh Xuân)
- ...Quả phượng vừa khô trên nhánh cao
- Cây vừa hiu quạnh cổng trường sâu
- Tôi về ngó lại thời con gái
- Thành phố già nua những gốc sầu
- Tóc hết thời xanh, tuổi hết dài
- Hồn bưng bình mật đắng tương lai
- Xa chàng thức dậy khi chiều tối
- Những ngón tay mềm vuốt mặt tôi
- (trích Bàn tay chàng)
Trần Dạ Từ
Trần Dạ Từ sinh năm 1940, tên thật là Lê Hạ Vĩnh, sinh ra tại Hải Dương. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954 khi đất nước chia cắt, định cư tại Sài Gòn, nơi ông bắt đầu làm thơ và viết báo, trở thành một thi sĩ được yêu thích trong giới văn nghệ miền Nam. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới.Năm 1963 ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam vì bất đồng chính kiến.
Sau ngày 30/4/1975, Trần Dạ Từ cũng như vợ Nhã Ca, bị chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam bắt giữ vì bị xem là “biệt kích văn hóa”. Ông bị giam cầm từ năm 1976 đến 1988. Thời gian này ông cho ra đời hàng loạt bài thơ, nổi tiếng nhất là "Hòn đá làm ra lửa" dài hơn 4000 câu.
Năm 1989, dưới sự bảo trợ của chính phủ Thụy Ðiển, gia đình ông được sang nước này sinh sống, đến năm 1992 lại di cư sang quận Cam, California, Hoa Kỳ. Tại đây cùng với Nhã Ca, ông xuất bản tờ Việt Báo.[15]
Tác phẩm:
- Thuở làm thơ yêu em (Sài Gòn, 1960)
- Tỏ tình trong đêm (Sài Gòn, 1965)
- Nụ cười trăm năm (Viết tại Mỹ, chưa xuất bản)
Chú thích
- ^ a ă http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c112/n881/Doc-Nha-Ca-hoi-ky-Binh-luan-cua-mot-nguoi-trong-cuoc.html
- ^ a ă â “Giải Khăn Sô Cho Huế”, RFA phỏng vấn Nhã Ca, RFA, 3.2.2008
- ^ Đường sữa trong tù, pro&contra, 5.8.2013
- ^ a ă [1]
- ^ "Nhã Ca và Olga Dror"
- ^ a ă http://cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Su-that-ve-3-nhan-vat-bi-ke-thu-goi-la-do-te-khat-mau-Su-vu-khong-trao-tro-304949/
- ^ a ă Tiền phong, số 18 (từ 28/4-4/5/2008)
- ^ a ă "Nhã Ca và Olga Dror..."
- ^ Phim Đất khổ theo RFA
- ^ Huế, 40 năm sau Tết Mậu Thân, vết thương vẫn chưa lành, RFA, 31.1.2008
- ^ a ă Nói chuyện với Hoàng Phủ Ngọc Tường về biến cố Mậu Thân ở Huế trên đài RFI, 12 tháng 7, 1997
- ^ Đọc “Giải Khăn Sô Cho Huế” sau 45 năm , nguoi-viet, 24.4.2014
- ^ Sách về Mậu Thân ra mắt độc giả Mỹ, BBC, 1.3.2015
- ^ Theo web damau
- ^ Trang thơ Trần Dạ Từ
Liên kết ngoài
- Nha Ca trên Vietnam Literature Project
- Giải khăn sô cho Huế Tủ sách Talawas
Xem thêm
Chương 1: Những giờ đầu tiên
Không biết tiếng súng đầu tiên nổ vào giờ khắc nào? Giữa đêm, tôi đã choàng tỉnh dậy vì tiếng nổ xé toạc cả những giấc mơ vụn.
Vừa kịp lăn xuống khỏi tấm phản
gỗ, tai tôi đã ù đi vì những tiếng nổ ran bốn phía. Chuyện gì vậy? Không
biết làm thế nào mà tôi lăn tròn từ phòng ngoài vào phòng trong. Bàn
tay ai kéo tôi giúi vào giữa phòng. Tôi nằm đè lên da thịt ai non mát.
Một tiếng kêu nhỏ tắc nghẽn vào âm thanh hỗn độn của súng đạn bên ngoài.
Khi tôi kịp định tỉnh lại tâm thần thì đứa cháu nhỏ đã ngồi lên được,
nằm gọn gàng trong lòng tôi. “Còn đứa mô nữa? Vô hết đi. Vô một chỗ.”
Tiếng má tôi thì thào. Que diêm tắt phụt nhưng có ánh nến le lói từ
phòng ngoài hắt vào. Ðứa em trai tôi trườn theo làn ánh sáng mỏng đó, nó
ngồi áp vào bên má tôi. “Làm ơn tắt giùm ngọn nến ngoài bàn thờ đi, tắt
luôn cả lư trầm nữa.” Ông anh lớn của tôi vội vã làm theo lời má tôi,
rồi nhảy đại rất nhanh vào ngồi dồn cùng một đống. Lúc này tôi mới cảm
thấy ngột ngạt đến muốn tắt thở vì hơi người, vì mùi trầm hương và mùi
nến khét.
Căn phòng quá chật, lại bị cái
giường chiếm mất một nửa. Anh tôi phải lăn xuống gầm giường. Người này
nằm gác lên người kia. Cái bô để dưới chân giường, thỉnh thoảng bị va
chạm, vang những âm thanh rổn rảng càng khua động thêm nỗi sợ hãi của
mọi người.
Nằm
im được một lát, hoàn hồn lại, mọi người bắt đầu nghe ngóng. Tôi dán tai
xuống nền gạch. Ðứa cháu gái đã lăn xuống nằm cạnh tôi, hai tay nó ôm
đầu, hai chân nó lọt vào hai chân tôi. Tôi hỏi nhỏ:
“Tina nằm có chật không?”
“Không, cô ơi. Tina sợ quá.”
“Ðừng có khóc.”
Tôi vỗ về đứa cháu. Nhưng cùng
lúc đó những tiếng nổ ình ình lại dội thốc lên. Ðứa cháu bỏ tay, ôm chặt
lấy tôi, người nó run cầm cập. Trời ơi, súng bắn cả sau vườn mình. Tôi
nghe tiếng súng đằng sau vườn thật trong, thật buốt. Thằng em ghé vào
tai tôi:
“AK. Thôi, tụi nó về rồi.”
Tôi kéo nó:
“Mày nằm xuống đi.”
“Không can chi mô chị. Ðể em ngồi.”
Cánh cửa sổ bỗng bị bật ra và cứ
thế, hai cánh cửa cứ dội mở ra, đóng ập vào theo những tiếng nổ lớn.
Tiếng đạn ở sau vườn bắn thật rát. Má tôi thì thầm:
“Ðánh tới đồn vận tải.”
“Không, đồn trường bia.”
“Không, đánh cùng khắp. Con nghe phía vận tải, phía trường bia, phía ruộng, phía sau đường rầy.”
“Suỵt, im đi cho với. Trời ơi. Trời ơi. Trời ơi.”
Tiếng trời ơi đất hỡi bỗng nằm
ngay trên chót lưỡi. Bầu trời xoẹt lửa sáng trưng, đất rung chuyển như
địa chấn. Lên cơn rồi. Tôi cũng không thể nằm yên để nghe tiếng dội tức
cả ngực được. Tôi muốn ngồi nhổm dậy để nghe ngóng, nhưng chỗ nằm chật
không nhúc nhích được. Ðứa em họ lúc này cũng chen được một chỗ, hai
chân nó chuồi dưới giường, đầu nó thò ra khỏi một nửa cửa phòng. Nó lại
bật diêm, lại có tiếng la nhỏ: con khỉ, tắt diêm đi. Ngọn diêm tắt phụt.
Nhưng trong bóng tối, lúc này tôi tưởng tượng ra được rồi. Tôi đồng
điệu run với mạ tôi, anh tôi, em gái tôi. Tôi đồng điệu co quắp, cố đè
nén sự run rẩy, cố ưỡn tung lên để tiếng nổ bớt dội ngực. Ðứa em họ tôi
nghe ngóng một hồi rồi ngồi dậy, nó bò ra gian nhà ngoài, chúng tôi nín
thở chờ đợi. Chỉ một lát sau, nó bò vào nói rỉ tai từng người:
“Nó ở đầy sân vườn nhà mình.”
“Suỵt.”
Lại nhiều tiếng suỵt lọt ra khỏi cửa miệng như một hơi huýt gió nhỏ.
Anh tôi giọng hơi gay gắt:
“Nó bắn như pháo ở bên ngoài, vài tiếng động nhỏ làm sao nghe được.”
Rồi anh tiếp:
“Quái gì, nó về đánh đồn trường bia rồi. Lần trước cũng đánh suốt một đêm, sáng ra là rút hết.”
Tôi mừng thầm. Chúng tôi chịu
đựng có lẽ đến hai tiếng đồng hồ rồi. Tôi cố đưa cổ tay lên để nhìn mặt
chiếc đồng hồ, nhưng rủi cho tôi, tôi mang đồng hồ không có kim dạ
quang. Và ngoài tôi ra chẳng có ai kịp thì giờ mang đồng hồ hết. Dù sao
chúng tôi cũng hy vọng mong cho trời sáng. Ông anh tôi không biết sao
bỗng trở chứng kêu đau bụng bất thình lình. Vậy là chiếc bô lại có dịp
được dùng tới. Chúng tôi đau khổ vì lát lát mấy đứa nhỏ đòi đi tiêu, đi
tiểu. Lát lát anh tôi lại kêu đau bụng, mà cái bô thì quá nhỏ. Mọi người
vừa nằm vừa run, vừa cố giữ cho chân tay khỏi lóng ngóng. Tôi cố nghĩ
đến một cái gì để dằn cơn sợ hãi, nhưng không, tôi không nghĩ gì được
hết. Ðầu óc tôi vang dội tiếng súng. Tay chân tôi cứ lật bật run rẩy bất
chấp cả sự tự chủ vượt bực của tôi. Có nhiều lúc ngay cả chân tay, thân
thể mình cũng không nghe lời mình nữa.
Nhưng rồi nhờ sự chịu đựng quen
dần, tôi bình tĩnh lại được và cơn run rẩy biến mất. Hình như chúng tôi
đã chịu đựng một thời gian khá dài và bình minh sắp đến. Tôi nghe tiếng
rục rịch trong chuồng gà ở đàng sau tấm vách tường lọt vào nhờ hai cánh
cửa sổ đã bật tung cùng với tiếng súng đạn hỗn loạn. Thái, tên đứa em họ
tôi, đã bình tĩnh ngồi dựa vào tường, và phì phà trên môi điếu thuốc lá
lúc nào. Tôi lần tay, nắm chặt tay nó:
“Thái, liệu có yên được không?”
“Em làm răng biết được, cái nớ thì chịu…”
Tôi lại hỏi anh tôi, lúc đó đã nằm trên giường vì không chịu nổi sự chen lấn dưới đất:
“Anh, sáng mai chắc yên há anh?”
“Làm răng biết được, anh cũng chịu.”
Tôi đâm ra thất vọng ngang. Những
ánh lửa xẹt ngang dọc phía ngoài cửa sổ không còn nữa, nhưng hai cánh
cửa vẫn còn bị dội bật ra bật vào vì những tiếng nổ lớn. Súng to, súng
nhỏ đang nổ ran từ mặt quốc lộ, từ miệt chùa, từ phía sau đường rầy. Căn
nhà của chúng tôi nằm đơn lẻ, chịu đựng bốn mặt đang đánh nhau. Quốc lộ
và bờ ruộng ở ngay trước mặt, đường rầy xe lửa ở đàng sau lưng. Hai
phía hai bên, một xéo với đồn trường bia, một xéo với đồn vận tải An
Cựu.
Không thể nằm yên để chờ tới sáng, tôi lại khơi chuyện:
“Sáng ngày yên chắc ra đường dễ sợ lắm!”
Thái phà thuốc trúng ngay vào mặt tôi:
“Buồn quá, lúc này có súng đỡ sợ hơn nhiều. Biết vậy tối qua em lên đơn vị.”
“Không biết tới sáng đã yên được chưa?”
Tôi hỏi hoài một câu như người ngớ ngẩn: Biết đâu. Mà yên chứ. Sáng ra mà súng đạn không ngừng thì chết hết.
“Trời ơi, đừng nói, tụi nó trong vườn.”
Ðứa em gái của tôi cười nhỏ:
“Má sợ chi mà sợ dữ rứa. Chị Vân,
sáng ra chị với em đi thăm trận đánh nghe. Coi chừng về Sài Gòn viết
một phóng sự chiến trường đầu năm đầy gay cấn.”
“Giỡn chi mà giỡn vô hậu tế đợi rứa. Mấy chuyện đó đừng có ham.”
Má tôi cằn nhằn. Nhưng chúng tôi
đã bớt dần cơn sợ hãi, bắt đầu nói chuyện được, mà câu chuyện cũng bớt
ngớ ngẩn. Lúc này tiếng súng ở trong vườn đã dịu dần, nhưng xung quanh
thì vẫn còn nổ ran. Tôi nằm mà mắt không rời khỏi cánh cửa sổ phía trên
đầu đứa em gái. Tôi nằm chờ, cho tới khi bầu trời tối mịt bên ngoài kia
bị hút bớt màu đen đặc.
Lúc này tôi cần sự bình tĩnh, cần
sức mạnh. Tôi mong cho trời sáng thì trời đã gần sáng rồi. Mấy chiếc lá
cây phất phơ bên ngoài cửa sổ đã hiện lờ mờ, rồi rõ dần. Mấy đứa cháu
tôi kêu khát nước. Chúng tôi chờ đợi cho tiếng súng bớt ồ ạt, Thái mới
đi ra ngoài rót một ly nước cho hai đứa nhỏ. Tiếng súng đã có vẻ thưa
hơn, bức màn đêm đã bớt mắc kẹt đạn. Anh tôi hy vọng hơn ai hết:
“Thái, coi yên súng đem xe Honda ra ngoài, anh muốn lên Từ Ðàm. Chắc chị và mấy đứa nhỏ sợ ghê lắm.”
Gia đình tôi lúc này đang chia
làm hai. Chị dâu tôi và mấy đứa nhỏ còn ở nhà trên đầu dốc Bến Ngự. Nên
anh tôi là người lo lắng nhất. Nhưng chắc không sao. Moị người tự an ủi.
Ðến sáng là yên, vậy sáng rồi. Môi má tôi đã bớt tím, tay chân bà cũng
bớt run rẩy. Nhưng nỗi vui mừng của chúng tôi không được lâu. Ðúng lúc
tôi nghe tiếng gà gáy nơi chuồng gà thì tiếng súng đã bắt đầu nổ lại.
Rồi có tiếng đấm cửa rầm rầm, cùng nhiều tiếng chân chạy ở ngoài sân:
“Mở cửa, mở cửa.”
Thôi chết rồi. Chúng nó đã tới.
Chúng nó sắp tràn vào nhà. Má tôi mặt tái xanh, định chạy tới tắt ngọn
đèn vừa mới thắp. Tiếng đại bác dưới Phú Bài bắn lên ầm ầm. Tiếng súng
nhỏ nổ chát chúa. Cánh cửa muốn bật tung vì những tiếng đập. Thái bò ra
giữa nhà.
“Suỵt, để con.”
Rồi hắn chạy ra mở toang cửa. Có
nhiều tiếng quen thuộc la hét bên ngoài. Cánh cửa vừa mở tung ra, thì cả
nhà đầy người. Chú tôi ở phía dưới đường rầy, sát chân núi Tam Thái,
cùng gia đình con dâu với những gia đình hàng xóm khác chạy túa vào. Trẻ
con người lớn chen chúc chật cả một gian nhà giữa rộng rãi. Mấy đứa nhỏ
hoảng sợ quá, ngã vật ra giữa nhà, có đứa vừa run vừa đái ra quần. Chú
tôi vừa khóc vừa kể:
“Sập hết rồi chị ơi. Trên đó bị mọt-chê câu, nhà mụ Nghệ bên cạnh đó mất nửa cái nhà.”
Bé, đứa con trai lớn của chú tôi ôm một lúc hai đứa con nhỏ, vừa thở vừa nói không ra hơi:
“Tụi nó đông lắm. Trên con đầy nhà rồi bác.”
Tôi tò mò:
“Làm sao em chạy xuống được?”
“Dân họ chạy xuống dưới này hết.
Trên đó mọt-chê câu sập hết nhà cửa. Chạy giữa đường em thấy Việt cộng
tụm năm tụm ba, nó ngồi cả trước sân nhà người ta.”
Chú tôi chợt nhìn quanh rồi hốt hoảng:
“Con Hồng đâu rồi, con Hồng bế thằng Ðiện chạy phía nào rồi. Thôi chết con tôi cháu tôi…”
Chú tôi chưa kịp dứt câu thì đã
ngã phịch xuống vì một quả B-40 phạt xuống mái ngói. Tôi đang há hốc mồm
thì gạch vụn đã đầy một miệng.
Cái bô để dưới chân giường không
biết bị ai đá vào tràn ra nhà. Tôi vừa sát người xuống thì đã phát nôn
vì một mùi thúi hoắc xông lên tận đầu, nhưng không còn cách cựa quậy gì
nữa. Nhiều đứa trẻ không chịu đựng nổi ré khóc vang nhà. Nhưng tiếng
khóc bị chận ngay vì những bàn tay đã bịt miệng, hoặc những tràng súng
cắt đứt. Trời ơi, đến sáng rồi sao không yên? Tôi quay quắt hỏi đứa em:
“Lần trước có lâu như vầy không?”
“Không, lần trước bắn ít hơn, không có đại bác câu nhiều như thế này. Sáng ra là nó rút đi hết.”
Bé bò lại phía tôi:
“Trời, chị không tưởng nổi mô. Em thấy tụi nó máu me cùng mình. Tụi nó ngồi bên vườn thím Quyệt, em chạy xuống đây em thấy.”
“Thấy mày chạy họ để yên à?”
“Tụi họ cũng vừa chạy vừa bắn, mình cũng chạy đại. Ở trên đó chắc chết quá chị ơi.”
Nó vừa nói vừa ôm chặt đứa con gái trong lòng. Vợ nó khóc thảm thiết:
“Anh coi đi tìm con Hồng với thằng cu Ðiện, không tui chạy ra cho súng bắn cái đùng cho rồi.”
Má tôi gắt:
“Chết đến nơi không lo, ai mượn tụi bây không chạy với nhau.”
“Làm răng chạy với nhau được, mạnh ai nấy chạy, tưởng còn sống đến chừ mô.”
Hai vợ chồng nó nín im, nhưng chỉ
một giây sau, tôi lại nghe chúng càu nhàu cãi cọ. Một lát sau tiếng
súng lại thưa dần. Bé vội chạy ra sân rồi mò dần ra đường. Chừng hai
mươi phút sau nó trở lại, một tay bế thằng con.
“Chị…”
Bé hạ giọng, tiếp:
“Em đi tìm con Hồng với thằng Cu,
em phải đi bằng ngả sau vườn. Ngang đường rầy em gặp tụi nó, nó hỏi em
đi mô rồi bắt giữ em lại. Chúng nó có ba đứa, một đứa bị thương. Em năn
nỉ nói đi tìm con lạc, ban đầu nhất định nó không cho, nó hỏi em làm
nghề gì. Em nói thợ mộc, em bị lạc con. Về sau nó cho đi. Em tính nếu nó
bắt, em liều chết giựt súng. Một thằng bị thương gần chết, một thằng bị
thương nhẹ không cầm súng được, còn thằng kia ốm yếu hơn em…”
Hà, em gái tôi, nạt:
“Thôi, mi đừng có ba hoa, nói phách tấu…”
“Em nói thiệt, người ta quân đội mà…”
Rồi nó sực nhớ lại đồn trại và đồng đội, nó ngồi buồn hiu. Lát sau thở dài:
“Lính tráng mà ngồi một xó như ri có nhục không?”
Những người xóm trên vào nhà tôi
bây giờ mới hoàn hồn lại. Người vạch vú cho con bú, người bắt đầu kháo
chuyện. Mỗi người kể một chuyện đại để cũng thấy Việt cộng ra sao. Họ kể
họ cũng chạy suýt chết, cũng thấy viên đạn nó to và đỏ rực như đâm vào
mặt mà không biết sao lại không trúng.
Bỗng nhiên vào lúc 8 giờ sáng,
tiếng súng như dồn về miệt Phú Cam. Tiếng đại bác dưới Phú Bài không câu
lên nữa. Lúc đó chúng tôi mới lần ra sân. Vườn cây yên tĩnh không một
bóng người, nhưng trên cỏ, trên đất, còn lấm tấm những vạt máu khô đặc.
Một vài nhánh cây gãy, nơi bờ tre
cuối đường ngả ăn thông ra mặt đường rầy, những cành khô được banh ra,
chừa những lối đi gọn. Mấy chị em chúng tôi hết sức sung sướng hít thở,
ai cũng mừng thầm như thế này là đã yên. Anh tôi chuẩn bị để lên nhà ở
Từ Ðàm. Tôi ra cái bể cạn trước sân múc nước súc miệng, đánh răng. Những
người trú ngụ trong nhà tôi vội vã bồng bế nhau trở về xóm. Chú tôi là
người chạy băng ra khỏi nhà trước tiên. Ông quá lo lắng không biết nhà
cửa còn hay đã mất. Tôi cố nhón gót nhìn lên miệt núi, cũng không thấy
được gì. Thái, em tôi, hỏi:
“Chị nhìn chi rứa?”
Tôi thở ra:
“Chắc đêm qua trên núi mồ mả bị chân đạp lung tung, mộ bác mới chôn.”
Mồ mả mới chôn đây là mộ của ba
tôi. Từ Sài Gòn, những ngày cuối năm vợ chồng con cái tôi đang chuẩn bị
đầu năm về ăn Tết ở Huế thì tin ba tôi hấp hối. Leo lên một chiếc máy
bay quân sự chở thực phẩm cho lính ở tiền đồn, tôi về tới vừa kịp những
giờ cuối cùng của người cha.
Thái cúi đầu. Nó đi tới bể cạn múc nước. Tiếng má tôi kêu:
“Thái, con đem cái này đổ ra sau vườn.”
Anh Lễ tôi đã mặc quần áo xong. Chiếc Honda đã được dựng sẵn. Tôi nói:
“Cho em lên Từ Ðàm với.”
Anh Lễ bảo:
“Ðể coi sao đã. Thấy không yên rồi, ngoài đường vắng tanh vắng ngắt.”
Nhưng lời anh tôi nói chưa dứt
thì có nhiều tiếng động ì ầm của xe chạy vào thành phố ngả quốc lộ.
Chúng tôi đứng ở sân nhìn ra. Một đoàn xe cam nhông chở lính Mỹ và những
khẩu đại bác đang từ từ đỗ lại ngoài đường nối hàng dài. Lính Mỹ nhảy
xuống, Thái bật la to:
“Bác ơi, yên rồi, quân Mỹ đã lên. Mình ra đường, mình coi được rồi.”
Má tôi kêu:
“Vào nhà hết, vào nhà không nó bắn.”
Anh tôi cản:
“Ðứa nào ở đâu cứ ở đó. Ðứng yên đừng có chạy mà nó tưởng Việt cộng chết hết cả giờ.”
Ðoàn lính Mỹ đã xuống xe, tiến
vào các khu vườn, nằm bò xuống vệ đường, lủi xuống phía ruộng. Chỉ một
phút sau vườn nhà tôi đã đầy lính Mỹ.
Một vài người lính Mỹ nhìn chúng
tôi dò chừng rồi lủi ra phía vườn gườm súng chĩa vào các bụi cây trước
khi băng qua vườn khác. Không có gì xảy ra hết. Tình hình hoàn toàn yên
tĩnh. Chúng tôi đi vào nhà ngồi yên ở tấm ngựa gỗ. Ra đường lúc này nguy
hiểm. Ai cũng nghĩ thế. Có lẽ lính Mỹ đang đi lùng Việt cộng đây. Chúng
tôi im lặng ngồi nhìn nhau, hồi hộp chờ đợi. Hai người lính Mỹ đi ngang
qua sân, hờm súng vào trong nhà. Chúng tôi cố giữ vẻ mặt thật thản
nhiên. Má tôi còn có vẻ cố gắng làm ra vui mừng nữa. Hai người lính Mỹ
dừng lại, rồi đưa mắt cho nhau, đi vào bậc thềm, hất hàm ra hiệu cho
chúng tôi ra đứng ở cửa hết. Một người lính Mỹ nói hai tiếng gì đó không
phải tiếng Mỹ.
Chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, người lính Mỹ lộ vẻ tức giận, nạt lớn:
“Kên cượt.”
Anh tôi hỏi một câu tiếng Anh, nhưng người Mỹ vẫn la:
“Kên cượt.”
Má tôi là người hiểu ra đầu tiên, bà nói lớn:
“Ông Mỹ hỏi thẻ căn cước.”
Người lính Mỹ gật đầu. Người đi
cùng chỉ súng thẳng vào người chúng tôi. Chúng tôi trình thẻ căn cước.
Khi tôi đưa tấm thẻ của cơ quan VOF (Voice of Freedom) thì người lính Mỹ
gật đầu và khuyên chúng tôi trong lúc này nên ở yên trong nhà. Trả thẻ
lại, một người trọ trẹ nói tiếng Việt cám ơn, rồi đi ra phía vườn. Chúng
tôi chưa kịp ngồi xuống tấm ngựa gỗ đã nghe mấy tiếng nổ lớn. Thái quen
với súng đạn, kêu lên:
“Thôi, B-40 của Việt cộng rồi.”
Tiếng B-40 từ phía núi, từ phía
đường rầy bắn ra như mưa. Phía ngoài đường, những xe thiết giáp mang
súng cối 40 ly bắn trả lại kịch liệt. Từng mảnh ngói bị sức ép, hoặc
trúng sướt lằn đạn rơi tứ tung lên đầu lên cổ. Cả nhà lại chui vào phòng
trong. Cùng lúc đó những tiếng la khác nổi lên như ri ở miệt ngoài
đường. Cái gì vậy? Thái muốn chạy ra trước tiên. Má tôi nắm áo giữ riệt
nó lại, nhưng Thái cứ van nài mãi. Cuối cùng hắn ló ra cửa, thụt lui
thụt tới vì những tiếng súng bắn đi trả lại cứ vèo vèo ngang qua mái
nhà. Ầm. Ầm. Vài thân cây lớn ở ngoài vườn đổ xuống. Chúng tôi ai nấy
nằm sát xuống đất, buông trôi cho sự may rủi. Lần này chắc chết quá. Cầu
nguyện đi. Tiếng la khóc ở vườn bên, ở trước mặt càng lúc càng thảm
thiết. Rồi tiếng kêu chết kêu cháy vang lên.
Mấy người lính Mỹ đang núp ở vườn
sau vội chạy ra đường phía có tiếng kêu khóc. Lúc này đạn bắn đi cứ như
mưa, tiếng B-40 yếu dần rồi tắt luôn. Tiếng kêu khóc đã nghe rõ mồn
một. Chúng tôi không ai bảo ai cùng một lượt chạy ra sân. Căn vườn mé
mặt trước, đang có căn nhà bốc cháy và lính Mỹ đang cố dập tắt lửa. Lúc
này tôi mới hoàn hồn lại chút ít. Má tôi lo sợ không biết lửa có lan
sang căn nhà thờ của chúng tôi không. Bà hét gọi mấy đứa cháu lo gói đồ
lại, có gì còn mang ra được chút của cải. Trong tiếng lửa nổ lốp đốp,
trong âm thanh ồn ào của những tràng tiểu liên bắn ran khắp các miệt
vườn, tiếng khóc nổi lên thảm thiết: Dì ơi, dượng ơi, má tui chết rồi.
Ai cứu cho với. Tiếng kêu, tiếng khóc, tiếng chân hàng xóm chạy thình
thịch bất chấp cả súng đạn. Má tôi lùa chúng tôi vào nhà. Thái được cử
sang chữa lửa. Mấy người lính Mỹ đi vòng lại, qua sân nhà, nhìn vào.
Người Mỹ soát giấy chúng tôi lúc nãy đưa mấy ngón tay và nói một câu
tiếng Việt bập bẹ đại ý báo cho biết ngoài đó có mấy người chết.
Xong rồi họ ra xe, đoàn xe rồ máy
chạy vào thành phố, nhưng chỉ mấy phút sau, có lẽ xe chưa kịp qua
khoảng cầu An Cựu, thì chúng tôi nghe miệt cầu đủ thứ súng nổ dữ dội.
Một lát, đoàn xe Mỹ ầm ầm rút lui, không còn kiêng nể gì nữa, cứ bắn như
mưa dọc hai bên đường. Nhưng lần này, xe trở về rất ít, hình như chỉ có
đoàn xe đi sau. Có lẽ những chiếc xe này về chở thêm súng đạn, và đoàn
xe đi trước đã lọt ổ phục kích.
Tiếng súng ở mạn cầu đã thưa thớt dần.
Chừng mười lăm phút sau, khi nhìn
ra đường, chúng tôi thấy có một đoàn người mặc quần áo màu vàng, vai
vác súng đi đầu trần. Tôi lật đật ra sân: Thôi đúng rồi, họ rút đi, và
lính mình về. Tôi mừng rỡ như điên định đưa tay vẫy thì chợt nhận ra nơi
hông họ đeo cái bị rết. Lính quốc gia thì mang ba lô chứ. Tôi sững lại.
Ðoàn người cũng không đông lắm, chỉ chừng vài chục người.
Thái lúc này mới thấy sợ hãi:
“Thôi chết em rồi. Họ vào biết em là cán bộ xây dựng nông thôn thì không cách gì sống nổi.”
Tôi bảo nó đưa giấy tờ cho tôi
giữ. Tôi cẩn thận bỏ giấy tờ của nó trong cái túi áo rồi xếp gọn đặt
giữa mớ quần áo đang gói ngổn ngang trong một tấm drap lớn. Anh tôi cố
tin tưởng:
“Anh nhà giáo chắc không can chi. Nếu họ hỏi em, em nói em là học sinh nghe.”
Thái dạ nhưng nghe chừng yếu xìu.
Gia đình Bé lại lật đật dọn xuống. Mấy bao bố đựng gạo, áo quần, mấy
cái soong. Chú tôi không đi, má tôi kêu trời kêu đất, nhưng tụi em tôi
bảo chú ở lại giữ nhà. Trên đó đã có cái hầm cũ làm sau vụ pháo kích lần
trước. Má tôi không tin tưởng vào cái hầm đó lắm. Bà bắt Bé đi gọi ông
xuống nhà, nhưng Bé vừa đi một lát, đã hớt ha hớt hải quay lại:
“Bác ui, họ về đông như kiến. Họ
đang họp ngoài nghẹo, họ treo cờ, họ hô hào. Họ lấy hết Huế rồi. Người
ta bảo bên Phú Văn Lâu treo cái cờ gì to thục lúc. Con vừa tới thấy họ
đang bắc loa gọi, con lủi nhanh vào vườn Bác Ái lủi về, may mà họ không
thấy.”
Tôi hỏi có ai bị thương không, Bé
nói là thấy họ đông lắm, sáng thấy có người bị thương, chừ đem đâu hết
rồi. Má tôi nói liệu có di tản lên Từ Ðàm được không thì Bé cho biết là
đường sá họ gác hết rồi, góc nào cũng có người đứng gác. Tôi hỏi đi hỏi
lại là mày có thấy tận mắt không, nó bực mình: “Thì thấy mới chạy thục
mạng về đây. Ðồn vận tải thấy vắng teo như không có người ở, tường thành
gì cũng đổ nát hết…”
Lúc đó khoảng mười một giờ. Chúng
tôi hết đứng lại ngồi, lóng ngóng nhìn ra đường. Lát lát má tôi sai một
đứa cháu ra nhìn xem có ai đi lại không. Nhưng đường xá vắng ngắt. Mấy
lần nó định đi lần về phía nghẹo đường xay, nhưng không đủ can đảm lê
bước tới đó. Lúc này nó đã nhìn thấy ở đó treo một lá cờ VC. Nó trở vào
mặt mày rầu rỉ:
“Trời lính mà ai cũng như tui thì Huế mất là phải. Biết vậy đừng có về cho xong. Ðã nghe lịnh cấm trại rồi mà còn về.”
Bé buồn cũng phải. Ðáng nhẽ ra dù
Huế còn hay mất nó cũng phải có mặt với anh em. Nhưng ba tôi chết cuối
năm, Bé được giấy phép mấy ngày đầu năm để lo việc nhà. Lúc này, đèn
đuốc trên bàn thờ ba tôi lại sáng trưng, mỗi đứa chúng tôi đều thắp
hương và cầu nguyện. Ðây là căn nhà thờ duy nhất của dòng họ tôi mà phải
suốt cả một đời lăn lộn cực khổ làm ăn lương thiện, ba tôi mới gầy dựng
nổi. Căn nhà chưa tu bổ thì ba tôi đã có một chỗ ngồi trong căn nhà thờ
này. Súng đạn đêm qua và sáng nay đã nhân đức với căn nhà thờ của dòng
họ chúng tôi ngoài mức tưởng tượng.
Rồi chúng tôi cũng còn lo ăn nữa.
Bữa cơm trưa được nấu vội vàng nhưng không có đồ ăn. Ngày cuối năm thì
xong việc đám ma. Ðến ngày mồng một gia đình tôi nguyện ăn chay để cầu
nguyện cho người chết. Ðáng nhẽ phải ăn Tết ở ngôi nhà anh Lễ tôi ở Từ
Ðàm, chúng tôi, kể cả anh Lễ, má tôi, cô em gái, mấy đứa cháu nhỏ, cùng
mấy đứa em con chú đã tình nguyện ở lại để cầu kinh. Căn nhà thờ chứ
không phải là nơi để ở nên thiếu thốn đủ thứ. Chúng tôi phải nạy cửa nhà
ngang, xuống căn nhà phụ cho ông giáo Trường An Cựu thuê, vợ chồng họ
về quê ăn Tết, để lấy chén bát và tìm đồ gia vị như nước mắm, muối ớt.
Khổ là vì không định ở đây, chúng tôi không tích trữ gạo. Lúc này đã
không còn nghe tiếng súng, hoặc có thì cũng chỉ là tiếng súng nhỏ vọng
xa xa, ở một miệt nào đó. Như thế là nghĩa lý gì? Không có một chiếc máy
bay, không có một chiếc xe chạy.
Ðoàn xe Mỹ đã vào tới thành phố
tan biến đi ngả nào. Những Việt cộng vừa tụ họp tại nghẹo Hàng Xay bỗng
tản đi đâu hết. Tại sao chú tôi ở xóm trên chỉ cách một con đường rầy,
mấy cái vườn, cũng không xuống được. Lâu lâu lại thấy một đoàn người đi
đâu ngoài đường phía dưới quốc lộ, vào thành phố. Căn nhà thờ của chúng
tôi nằm ở An Cựu, sát ngoại ô, lại ngay đường quốc lộ nối Phú Bài với
Huế.
Trong thành phố Huế lúc này ra
sao, chúng tôi không tài nào đoán nổi. Cả nhà hợp nhau lại sửa căn hầm
cũ dưới nhà bếp. Tiếng súng càng về chiều càng dữ dội. Ngoài đường bỗng
vắng tanh. Ở nhà bếp, nhà trên, dân trong xóm đến tỵ nạn nằm la liệt mấy
căn buồng nhỏ được che hai ba mặt tường. Má tôi sai đứa cháu dâu nhóm
bếp nấu một nồi cháo, chắc chẳng ai còn lòng dạ nào ngồi ăn cơm chiều.
Nhưng nồi cháo nấu vừa chín tới thì Thái đã nhìn thấy có người đi lại ở
ngoài đường. Mặc kệ tiếng súng đang nổ ran mọi phía, mặc kệ bom đạn có
thể nổ ngay trên đầu mình, cả nhà chúng tôi tràn ra sân, rồi ra đường
cái. Một hai người đạp xe từ phía cầu An Cựu đi lui đi tới, Thái vẫy lại
hỏi: “Ngoài nớ có ai đi không?” “Người ta tản cư qua bên sông hết.” Má
tôi la lớn:
“Lên Bến Ngự Từ Ðàm được không?”
“Chắc được.”
Nghe tiếng “chắc được” thôi mà cả
gia đình tôi cũng tràn trề hy vọng. Mấy đứa cháu giục phải di tản qua
bên kia sông hoặc lên Từ Ðàm chứ ở đây chắc chết hết. Việt cộng đã về
đóng kín hết mọi nhà, mọi đường phố. Nhà chúng tôi lại nằm ngay giữa hai
cái đồn và ngọn đồi Thánh Giá nằm ngay phía đàng sau lưng. Nếu xáp lá
cà ở đây một trận chắc cả làng An Cựu ra tro hết. Má tôi vơ vội một ít
quần áo của ba tôi những thứ còn bỏ lại, không đem liệm cho người chết.
Bà gói lại cẩn thận. Gia đình mấy đứa em họ tôi thì lo gánh gạo, quần
áo, nồi chảo và những dụng cụ cần thiết. Tôi xách cái ví tay, cái xách
nhỏ. Anh tôi dắt chiếc Honda chở em gái tôi với hai đứa cháu đi trước.
Tới gần cầu An Cựu, má tôi nói anh cứ đi trước đi, chở con và em lên rồi
trở lại đón từng người bằng xe cho mau. Thái lấy chiếc xe đạp tìm đường
sang phố. Chúng tôi chia tay ở trước đồn vận tải. Từng đoàn người cắm
cúi lật đật, bồng bế, xách gói chạy qua phía cầu. Chúng tôi theo họ
nhưng tới cầu cả bọn không được đi về phía Tân Lăng, Phú Cam mà cứ bị
xua lại cầu. Lúc chúng tôi chạy tới, một trong hai người đàn ông gác cầu
đưa tay chận lại:
“Ði đâu, bà con ai ở yên trong nhà, không được chạy.”
Tôi đứng sững đàng sau lưng má
tôi. Hai người đàn ông mặc quần áo ka ki vàng, nhưng chân đi dép. Không
phải là lính quốc gia rồi; chắc họ là quân giải phóng. Tôi nhìn sững họ
không nói được một câu, miệng tôi cứng lại. Má tôi nói như muốn khóc:
“Nhà cửa sập rồi mấy ông ơi, còn chi mà ở. Tui sang nhà bà con bên kia sông.”
Lúc đó tôi không còn thấy bóng em
tôi chở em gái và cháu tôi đâu nữa. Tôi nghĩ là anh đã đi thoát rồi.
Hai người lính vẫy cho chúng tôi qua cầu. Mấy vũng máu đọng giữa cầu
chưa khô, ruồi nhặng bu đen xì. Chỉ một đoạn đường ngắn mà tôi nhìn thấy
biết bao nhiêu dép, giày vớ, quần áo rách, bị rết, ba lô văng bừa bãi,
dính lẫn với máu và những mảnh thịt.
Má tôi bảo qua cầu rồi cứ đi dọc
bờ sông tìm đường lên căn nhà ở Từ Ðàm. Nhưng đi được một đoạn, chúng
tôi thấy những người đi trước lúp xúp chạy trở lại, vừa chạy vừa khóc.
Chúng tôi hỏi họ không nói ra được, cứ làm dấu vẫy lui. Tôi chận một cô
nhỏ:
“Sao trở lui vậy em?”
“Trên nớ, nơi cầu Phủ Cam họ đứng đầy, họ gác, họ đuổi lui.”
“Cứ đi tràn không được à?”
“Họ bắn hai ba người.”
Má tôi níu chúng tôi lại. Mấy đứa em tôi cũng hốt hoảng bảo vợ con tất tưởi đi lui. Chúng là lính gặp họ chắc không ổn rồi.
Không hiểu nhờ phép lạ nào mà khi
qua cầu họ không hỏi tỉ mỉ. Khi má tôi xin qua cầu được, cả đoàn cứ nối
đuôi nhau mà chạy. Cũng có lẽ họ còn bận với những đoàn người đi sau.
Qua được cầu rồi, lúc này tôi mới
dám nhìn hai bên đường phố. Chợ An Cựu như một bãi chiến trường, máu
còn chưa khô, máu in đỏ trên những bức tường loang lổ vết đạn. Một chiếc
xe tăng lủi vào lề đường đâm vào một căn phố, tấm bảng hiệu còn treo
lủng lẳng. Hai ba căn phố không còn hình dáng gì. Không một căn nhà
trước đường nào còn nguyên. Giữa đường đầy rẫy chướng ngại vật, máu me,
quần áo, rác, sắt vụn, gỗ ván. Chúng tôi len lỏi mà đi. Không một đôi
mắt nhìn ra cửa, những căn nhà như đã hoang vắng hết. Không còn biết đâu
yên mà chạy tới nữa. Thôi cứ liều, má tôi nói liều mà tìm đường lên Từ
Ðàm, gia đình họp lại sống chết có nhau. Chúng tôi đi hết con đường
ngắn, dọc xuống Lê Lợi. Con đường đàng trước mặt dẫn sang nhà bưu điện
và cầu Tràng Tiền sao vắng ngắt. Tiếng súng ở mặt nhà dây thép nổ như
bắp rang. Ðoàn người này đi tới, đoàn người kia chạy lui, không kịp nghe
nhau trả lời, cứ thế, chạy loanh quanh trong những khu vực chưa bị kiểm
soát. Cuối cùng chúng tôi dồn vào khu nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế.
Không còn chạy đi đâu được nữa,
phía trước mặt người ta đã chạy lui lại hết. Phía đàng sau cũng không
còn đường trở lui. Má tôi kêu trời kêu đất. Anh tôi đã mất tăm dạng.
Ngoài đường thưa người dần và nhiều tiếng súng gần tới nơi. Mọi người
chạy ào vào bên trong nhà thờ hết. Tất cả được dồn vào khu nhà giảng.
Tiếng súng như đã bao quanh khu nhà thờ.
Má tôi kêu chúng tôi xuống căn
hầm xây dưới giảng đường nhưng chỗ đó không còn chen chân nổi. Chúng tôi
lại kéo nhau vào một chỗ trong góc. Bé trải chiếc chiếu cũ, cả nhà hơn
mười người, gồm người lớn và con nít chen nhau một chỗ ngồi nhỏ. Khi tìm
ra được một chỗ ngồi rồi, tôi mới nghe thấy tiếng vo ve từ dưới hầm đưa
lên, tiếng trẻ con la khóc, tiếng cãi nhau, tranh giành nhau một góc
nhà. Bên ngoài tiếng súng vẫn nổ ròn rã. Ðược một lát khi tiếng súng
dứt, một số người khác chạy đến nhà thờ. Tôi chạy ra sân gặp Thái đi
vào. Nó chụp lấy vai tôi: “Vô đi chị. Súng còn nhiều lắm.”
Tôi hỏi:
“Sao em trở lại, có gặp anh Lễ không?”
“Không chị ơi, em lên cầu Kho
Rèn, định đi qua cầu, gặp họ họ kêu lại, bắt giữ em. Em năn nỉ mãi mới
cho đi. Em tưởng em bị bắt rồi.”
Tôi hỏi Thái thấy gì không. Thái
nói thấy gần mũi cầu xác chết còn la liệt. Một số người bị bắt ngồi bên
kia cầu. Có hai ba người Mỹ bị trói dẫn đi.
Một số người khác lại tràn vào
nhà thờ, tôi tới hỏi thăm có ai miệt cầu Bến Ngự về có thấy một người
đàn ông chở hai đứa nhỏ và một cô gái không. Một cậu nhỏ kể: có thấy một
người đàn ông, chở hai đứa nhỏ với một cô gái cứ phóng đại xe qua cầu.
Họ bắn mấy phát, xe suýt đâm xuống sông. Họ giữ lại, rồi thấy tha cho đi
lên phía cầu Bến Ngự. Thái nghe nói quả quyết anh Lễ đã thoát. Tôi dẫn
Thái tới chỗ má tôi ngồi. Mấy đứa cháu nhỏ đang ngồi ăn bánh chưng. Má
tôi đưa mắt nhìn tôi dò hỏi. Tôi kể lại chuyện vừa nghe được cho má tôi
nghe. Thái kêu khát nước, vặn cái vòi nhưng không có một giọt nước nào.
Mấy đứa nhỏ đái cả ra chiếu.
Người này cứ hỏi người kia mãi về
những điều đã trông thấy, đã kể. Tôi hỏi thăm Thái về đường đi lên Từ
Ðàm, Thái nói qua cầu Tràng Tiền được, không đi lên Nam Giao được. Nó đã
cố hết sức, nhưng thấy không có cách nào nên đành quay về nhà thờ,
không ngờ gặp gia đình cũng ở đó. Tôi và Thái cứ nghe êm êm tiếng súng
là ra sân đứng ngóng, cho tới chiều tối không thấy anh tôi trở lại.
Chúng tôi dắt nhau đi vào. Thái lấy cái áo măng tô của ba tôi để lại,
khoác vào người tôi:
“Chị mặc đi kẻo lạnh.”
Trời mưa lất phất, cả một ngày
tôi không còn đủ sức để ý đến bầu trời, đến cây cỏ. Tôi nhìn lên bầu
trời màu chì, nặng nhọc, những hạt mưa bám vào tóc, vào mặt không làm
tôi lạnh hơn. Sự lạnh lẽo, tê cóng, lo sợ, run rẩy suốt một ngày đã bóp
cứng da thịt, và thể xác tôi đã như bị ướp trong tủ lạnh. Khi trở vào
tôi bước qua chân mấy người bị thương nằm la liệt ở một phòng nhỏ gần
cửa ra vào. Mấy người đàn ông đang băng bó, họ làm việc cũng lăng xăng
lắm. Mấy ngọn đèn cầy đã được thắp ở mấy cái bục, ở các hàng ghế, khi
tôi vừa xuống khỏi mấy bực cấp nơi khoảng giữa giảng đường xây cao, đặt
tượng Ðức Mẹ, tôi bỗng ngồi thụp xuống. Hình như Thái cũng kéo tay tôi
nữa. Một tiếng vỡ khô khan. Tiếng một người rú lên. Khi định tỉnh nhìn
lại, một trong hai chậu cây kê ở hai cái bệ đá đã đổ xuống. Chị đàn bà
nằm sấp xuống nền gạch, bên cạnh những mảnh sành vỡ. Chị đã dựa đầu vào
cái chậu, và quên đi. Cái chậu rơi, đẩy chị ngã bổ nhào. Nhiều tiếng
chửi rủa vang lên ở nhiều góc tối. Tôi ngồi bó gối bên cạnh má tôi và
Thái. Má tôi chưa ăn gì, tôi cũng vậy. Thái hỏi tôi có đói không rồi
chạy đi, một lát, nó trở vào với đòn bánh tét trên tay. Cầm miếng bánh
đưa lên miệng, tôi nuốt không trôi. Tôi cũng không thấy đói, thấy khát
mà chỉ thấy trong lòng cồn cào trăm thứ.
Một ngày rồi, tôi không nhớ chồng
con. Căn nhà nhỏ của gia đình tôi ở Sài Gòn lúc này ra sao? Có yên ổn
không? Chồng con tôi đang làm gì? Tôi tưởng tượng từng khuôn mặt các
con, hình dáng đi ra đi vào của chồng, rồi cả bữa cơm tẻ nhạt nữa. Bữa
cơm không có bàn tay người đàn bà, thiếu chỗ ngồi đó, bữa cơm tẻ nhạt
tội nghiệp lắm. Má tôi cầm chặt tay tôi:
“Con ơi, dựa vào vai mạ mà ngủ.”
Thái đứng lên, nó nói phải đi
kiếm một chỗ nào tốt hơn. Tôi gục đầu vào vai má tôi. Mấy đứa cháu nhỏ
đang khóc, đòi nước, đòi cơm, đòi sữa. Tôi nghe tiếng cánh cửa sắt phía
cửa chính kêu lẻng kẻng. Không có một ai ở ngoài đường, ngoài sân. Ngôi
nhà giảng rộng lớn có mái cong và nhiều chỗ đặt kính, tường thật dày,
cách khoảng những lá cửa bằng gỗ lim đóng chặt.
Nhiều tiếng đạn lớn bay ngang qua
khu nhà thờ, rồi tiếng nổ ầm ầm sau đó. Má tôi kéo tôi tựa người vào
bà. Tôi ngồi như thế và nhìn mãi ngọn đèn cầy đặt nơi chân ghế, trước
mặt. Ngọn lửa không nhắc nhủ tôi gì hết, cũng không đem tới chút hy vọng
nào.
Tôi nghe những tiếng khóc nhỏ, nhiều vô số kể. Có tiếng khóc thét lên ở góc phòng đằng kia. Chắc một người nào đó vừa mới chết.
Có tiếng dép lẹp xẹp từ một ngách
nhỏ nối liền nhà ngang. Rồi một cái bóng to lớn nổi lên ở khoảng tường
đằng trước mặt. Rồi lố nhố những cái bóng nhỏ khác, đầu với nửa người
cũng hiện lên theo. Tôi quay lại, trên cái bục cao, dưới tượng Ðức Mẹ,
một người đàn ông mặc áo chùng đen đang đứng giơ cao ngọn đuốc. Một ông
thầy, một linh mục. Tất cả mọi tiếng khóc rấm rứt, những tiếng thì thầm
vụt biến mất. Tôi nghe phía đó cất lên một giọng nói:
“Tắt hết đèn cầy đi, tôi sẽ đặt ngọn đuốc này ở đây. Mọi người bình tĩnh và tìm chỗ ngủ đi. Chúa sẽ che chở cho chúng ta.”
Ngọn đuốc chiếu những đầu người ngồi lổm chổm lên tường, nhưng chiếc bóng của ông linh mục ngắn dần, rồi biến mất.
Chương 2: NHÀ THỜ DÒNG CHÚA CỨU THẾ
Những tiếng khóc tấm tức đã rời
rạc, nhạt nhẽo dần. Tất cả các ngọn đèn cầy cháy đã lụi tàn, nhưng bên
trong nhà thờ không còn đủ không khí để thở. Thái đã cố gắng dồn được
cho má tôi một chỗ nằm khá thoải mái. Dĩ nhiên được một chỗ nằm như thế
là đương đầu với sự nguy hiểm nhiều hơn. Tôi và em Thái cũng chọn một
chỗ nằm trên hàng ghế nguyện. Mọi người khác chiếm những chỗ kín đáo,
như chui giữa các dãy ghế trống, hoặc dưới chân bàn, chân ghế. Họ hy
vọng những vật chặn mảnh mai đó sẽ chống đỡ phần nào bom đạn cho họ.
Chúng tôi chọn hai chiếc ghế dài gần nhau, nhờ vậy hai chị em có thể thì
thầm trò chuyện. Bầu trời bên ngoài gần như yên tĩnh, lâu lâu, điểm vài
tiếng nổ xé nát. Gạch đá, kính vỡ lại loảng xoảng rơi. Tôi lo lắng:
“Hay mình xuống đất nằm đi.”
Thái cản:
“Cứ nằm đây. Trái bom nếu nó
trúng thì đất cũng tung lên, mấy cái bàn, cái ghế nhằm nhò chi. Nằm ở
đây dù gì cũng còn dễ thở, chị. Không can chi mô!”
Bây giờ thì thấy chưa can chi.
Nhưng khi can chi thì… Nhưng trong lúc hoảng sợ, còn nghe tiếng người
trấn an, cũng đỡ nhiều lắm. Mà xuống sàn, chắc tôi cũng không chịu đựng
với hơi người, tiếng rên rỉ kêu la của người bị thương chưa được băng
bó. Cứ nghe tiếng nổ là má tôi chồm dậy:
“Xuống đất. Xuống đất hết đi bây.”
Thấy kêu hoài mà không nghe con
cháu trả lời, má tôi càu nhàu rồi cũng chịu phép. Tôi nằm thẳng, mắt mở
lớn nhìn lên trần nhà mà mái đã bị vạt nhiều góc, thỉnh thoảng thấy
những ánh sáng xanh lè xẹt qua rồi tiếp theo tiếng nổ long trời lở đất.
Qua khung kính đủ màu trên vòm nhà thờ, có những ánh sáng lù mù mà tôi
đoán là của hỏa châu, vì đó là thứ ánh sáng chỉ chập chờn, chập chờn rồi
tắt ngúm, điểm vào những tia lửa xẹt và những tiếng nổ lớn gầm thét.
Tôi cố nằm thật im, cố ôn lại
những phút kinh hoàng đầu tiên của thành phố Huế và cũng để quen dần với
biến cố khủng khiếp đang kéo dài. Mới chưa qua một ngày mà thời gian
dài như cả tháng, cả năm. Ðã có lúc, hy vọng có bừng lên. Ðó là lúc ngồi
ở bệ đá, tôi nghe lời bàn tán của các người chạy loạn:
“Chắc một hai bữa rồi về. Mấy người lính giải phóng nói họ chỉ ở chơi ăn Tết với đồng bào bảy ngày rồi họ đi.”
Mới ngày thứ nhất đã bao nhiêu người chết, máu đổ. Chúng tôi chỉ mới chịu được có một ngày. Còn những ngày tới…
Tôi đang nghĩ mông lung để dằn
nén cơn sợ hãi thì bỗng bàn chân tôi bị ai nắm lấy, kéo một cái. Tôi rụt
chân lại, không dám la, chỉ ú ớ rồi ngồi rột dậy. Thái nghe tiếng động,
bên ghế kia cũng bật ngồi dậy theo.
“Chi rứa chị. Chi rứa?”
Giọng Thái nhỏ nhưng đầy sự lo
âu. Tôi há miệng mà không nói ra lời, quai hàm tôi cứng ngắc. Trước mặt
tôi, Trúc cũng đã ngồi dậy tự bao giờ, rên khẽ:
“Chị ngó coi. Ai nơi a tề?”
Nó nhào qua, bấu chặt lấy vai
tôi. Hai mắt tôi mở trừng trừng. Chỉ một màn đen. Bàn tay của ai đó đã
buông chân tôi ra. Nếu không có ánh hỏa châu bên ngoài vừa xẹt sáng thì
tôi không nhận ra cái bóng đen đang chồm tới phía chúng tôi.
“Em…em…”
Giọng Thái:
“Chị đừng sợ.”
Cái bóng vấp vào chân ghế, rồi một giọng nói yếu ớt:
“Cho em ngủ chung với, em sợ quá chị ơi.”
Nhận ra giọng nói của Thu, cô em họ, tôi vẫn chưa hoàn hồn. Nhưng tôi đã mở miệng được:
“Nói nho nhỏ. Sợ chi vậy?”
Thu thì thầm:
“Em nằm bên cạnh cái bà mà khi chiều mình thấy đó. Bà đó ôm cái bọc nhỏ trước ngực. Nằm mà cũng ôm khư khư không rời…”
“Thì kệ bà nớ. Có chi mà sợ chớ.”
“Em ngửi thấy mùi hôi, hôi lắm.”
Tôi nạt nhỏ:
“Nhiều chuyện. Chạy cả ngày, có người sợ đái trong quần. Hôi chớ răng không hôi. Mai mốt em cũng hôi như cú.”
“Không phải. Em nằm sát bên cạnh,
thấy ghê ghê. Bà cứ khóc rỉ rả như con dế kêu, rồi cứ nói lầm bầm trong
miệng như điên, mà cái mùi… nó kỳ lỳ… Em sợ lắm.”
Thái phải co chân lại, nằm sát một đầu ghế để nhường chỗ cho Thu ghé vào.
Ðêm đầu tiên xa nhà, ngủ ở một
nơi hoàn toàn xa lạ với sự sợ hãi giày vò, không biết thân mạng mình sẽ
ra sao, gần hai giờ sáng mà tôi vẫn không chợp mắt được mặc dù quá mệt
mỏi. Bỗng nhiên tôi nghe một tiếng kêu rú thất thanh và tiếng rú không
ngừng, vẫn tiếp tục. Tôi hoảng sợ đứng bật dậy, và trong khi đứng dậy,
tôi đạp nhầm một người nào đó đang nằm giữa lòng ghế. Tức thì bắp đùi
tôi bị véo một cái đau điếng buốt lên tận đầu, nhưng cũng nhờ đó mà tôi
tỉnh táo được. Nhiều tiếng kêu, tiếng lào xào bàn tán, rồi đột ngột rơi
vào sự im lặng, như mọi người đã biến mất hết trong bóng tối. Rồi mọi
người lại hiện ra, toàn những đầu là đầu khi một que diêm lóe lên và một
ngọn đuốc trên bục được thắp sáng. Cha Sở đang bước lên cái bục gỗ nhỏ,
giọng lo lắng hỏi:
“Có chuyện chi rứa, bà con? Có ai bị thương?”
Có tiếng khóc từ một góc xa, tiếng một người già rụt rè lẫn trong tiếng rên rỉ của ai đó.
“Dạ thưa cha, có người… có người đau bụng… đẻ.”
Nhiều tiếng thở ra. Nhiều tiếng
bầu bầu khó chịu. Trong hoàn cảnh này không ai còn đủ sức lo cho ai,
thương cho ai ngoài thân mình. Nhiều cái đầu ngã xuống, nhiều người nằm
ngủ trở lại. Cha Sở càng lộ vẻ lo lắng:
“Có ai biết đỡ đẻ không? Có ai là y tá không?”
Im lặng.
Cha Sở lớn tiếng hơn, nhắc lại:
“Ai biết đỡ đẻ, xin giúp… Tôi yêu cầu quí vị…”
Không có ai trả lời hết. Tiếng xì
xào cũng ngưng bặt và giọng cha Sở hoàn toàn rơi vào im vắng. Ánh đuốc
lung linh chiếu lờ mờ khuôn mặt đầy tuyệt vọng của cha. Cha Sở đốt một
ngọn đèn cầy rồi cố mở đường đi xuống giữa hai hàng ghế.
“Có ai không? Có ai không?”
Tiếng cha Sở càng lúc càng lạc lõng, vô vọng.
Cha Sở vẫn cố gắng len lỏi đi
xuống thêm những dãy ghế cuối. Buổi chiều người ta đã giành nhau quay
ghế thành từng khu riêng cho từng gia đình. Những người đến sau, chịu
thiệt thòi, nằm tràn ra sàn nhà, chỗ nào lọt được để nằm hoặc ngồi là họ
tranh giành nhau.
“Có ai làm ơn. Xin Chúa chúc phúc cho người hiền lương, xin bà con rủ lòng thương xót…”
Sự tận tụy của cha Sở rồi cũng
được một vài người đáp ứng khi cha xuống đến cuối phòng. Vài bóng người
đi theo cha, tôi không nhìn rõ họ nhưng tôi biết trong đám đó có Thái.
Người ta khiêng người đàn bà
chuyển bụng đẻ lên căn gác lửng nơi dành cho ban nhạc trong các buổi lễ
hoặc buổi giảng. Căn gác này hoàn toàn trống, nó gần mái nhà và được coi
là nơi nguy hiểm nhất, không ai can đảm lên đó để núp bom đạn.
“Lên đó dễ sợ lắm, dễ ăn bom…”
Một giọng nói xì xầm, không chút
xót thương người mà gần như còn mừng cho mình kiếm được chỗ tốt hơn. Tôi
âm thầm cầu nguyện, năn nỉ bom đạn ngoài kia, xin ngừng lại một lúc cho
người đàn bà qua cơn hoạn nạn.
Trên căn gác lửng, tiếng rên la
của người đàn bà bắt đầu thảm thiết hơn, rền rĩ hơn. Con Thu bạo dạn
nghểnh đầu nghe ngóng, nó phê một câu:
“Chị ơi, cái bà ni không biết dị chi hết. Ðẻ mà la quá trời…”
Con Thu chưa làm mẹ, nó làm sao
hiểu được cảnh người đàn bà qua biển mồ côi một mình. Tôi đã sinh đẻ,
tôi biết cơn đau đẻ hành hạ người đàn bà như thế nào, nhưng lúc này tôi
cũng không thể chia sẻ gì được cho bà ta. Tôi đã mệt quá, cơn đau đẻ của
bà làm cho tôi càng mệt thêm. Không khí như từ đâu tràn vào, xông tới
và tôi thở phào, nhẹ nhõm khi nghe tiếng con nít khóc oa oa chào đời.
Tiếng khóc mạnh mẽ, bất chấp, không biết có đem sự tin tưởng, hy vọng,
sức lực tiếp cho ai không, nhưng với tôi thì có. Cám ơn tiếng khóc chào
đời trong cảnh khốn cùng tuyệt vọng.
“Khỏe re. Hết mệt cái lỗ tai. Bà nớ đẻ rồi.”
Giọng Thu có chút vui vẻ mà dửng
dưng. Tiếng khóc của đứa trẻ lại nổi lên, mạnh dạn, như thi đua với
tiếng bom, tiếng đạn bên ngoài đang hứng dậïy. Tôi nhớ một câu trong
Thánh Kinh: Mừng rằng mình đã sanh một người cho thế gian… Ðêm nay, đâu
chỉ ở trong cái góc tả tơi, trong sự sống sự chết này có một con người
mới tới, mà trong thành phố Huế, trong ly loạn, vẫn còn có những tiếng
khóc khác nữa, đang lăn xả vào đời. Tiếng khóc sơ sinh trong căn nhà
đang bắt lửa cháy, trong lúc viên đạn đã đi đến nửa chừng. Tiếng khóc ra
đời để kết thúc những đau đớn vết thương trên thân thể người mẹ đang
giờ hấp hối… Tiếng con nít khóc càng làm tôi nhớ tới các con tôi lúc này
đang ở Sài Gòn. Có chuyện gì xẩy ra nơi đó không? Có không? Nếu có
chuyện gì thì ruột mẹ sẽ đau, sẽ đứt, nếu có chuyện gì xẩy ra cho mẹ,
ruột của các con cũng đau, cũng đứt…
Ngọn đuốc trên bệ đá đã được thổi
tắt, nhưng trên căn gác vẫn còn chút ánh sáng rọi xuống. Nguời mẹ đã
hết rên đau. Ðứa bé đã hết khóc. Tôi hình dung chị đàn bà đang ngủ. Hài
nhi cũng ngủ. Hai giấc ngủ hòa hợp bình yên mặc kệ giông bão, bom đạn
của cuộc đời đang ào ạt tới.
Nhưng đêm cũng bắt con người
ngừng bớt sự giết chóc. Tiếng bom thưa thớt hơn và những tràng súng lâu
lâu mới điểm để không có sự trống trải của đêm dài. Tôi chợp mắt được.
Gần sáng, tôi bỗng thức tỉnh.
Quên là đang ngủ trên cái ghế dài, hẹp, tôi ngồi bật dậy như khi còn ở
nhà mình. Tôi chao đảo muốn té. Vừa lúc đó tôi cũng chợt nhận ra hoàn
cảnh của mình lúc này. Trước hết tôi đảo mắt tìm má tôi. Bà vẫn nằm co
quắp, đầu gối lên cái giỏ đựng quần áo. Thu và Thái nằm ngược chiều, đầu
châu vào nhau, cũng co quắp người mới đủ chỗ. Còn sớm lắm, bầu trời
chưa sáng hẳn nhưng bên ngoài vẫn chiếu vào những luồng sáng của hỏa
châu. Không còn tiếng bom, không còn tiếng súng. Bên ngoài im vắng đến
ngột ngạt và không hiểu chuyện gì đã xẩy ra? Tôi định qua đánh thức má
tôi dậy. Nhưng vừa bỏ chân xuống chưa tới mặt sàn, người tôi như bị điện
giựt. Rõ ràng tôi đạp lên một thân người, nhưng cái thân cứng như cây
củi, mà lạnh ngắt. Hỏa châu lại chiếu vào, lại cho tôi nhìn thấy một xác
chết nằm giữa hai hàng ghế, mắt vẫn còn mở trừng trừng như hướng lên
những lỗ hổng trên mái nhà để thấy ánh sáng. Không biết tôi đã dùng bao
nhiêu sức lực, hay cái thân tôi biến thành cái lò xo nhảy bắn tới chỗ
Thái nằm, chồm lên đầu Thái và Thu. Hai đứa em bừng tỉnh, cuống quíu ôm
chặt tôi:
“Chi rứa chị? Chi rứa?”
Tôi ú ớ. Hai đứa em ngơ ngác nhìn
quanh. Mọi người vẫn còn ngủ say. Lúc này ánh sáng ngoài trời khá tỏ,
đã chui vào từ những lỗ hổng trên mái nên có thể thấy toàn cảnh tuy
không được rõ ràng. Thái vẫn chưa thấy xác chết nằm dưới đất nên hỏi:
“Chuyện chi rứa chị. Có chi mà chị sợ?”
Không dám lên tiếng, chỉ đưa tay chỉ. Con Thu rụt đầu, bưng tai:
“Trời đất. Coi tề. Dễ sợ quá, sợ quá…”
Thái ra dấu cho chúng tôi im
lặng. Thái đã từng là một cán bộ xây dựng nông thôn nên thấy người chết
cũng đã nhiều, nó không sợ hãi.
“Chị và Thu ngồi yên ở đây. Ngồi bỏ chân lên ghế. Ðể em…”
Thái bỏ đi, nói là tìm cha Sở.
Mấy chị em tôi ngồi co rút người, ôm chặt lấy nhau. Phía bên kia, má tôi
quá mệt mỏi, còn ngủ nhừ. Một lát sau xác chết được khiêng ra ngoài.
Nơi chỗ nằm của xác chết vừa được mang đi, còn để lại một vũng nước vàng
bầy nhầy máu mủ chảy ra từ vết thương. Thái lấy khăn mùi soa cột ngang
miệng mũi rồi đi dọn dẹp. Xong xuôi, Thái đổi chỗ cho tôi:
“Chị nằm đó nghỉ đi. Em qua bên ghế kia.”
Thái nhướng mắt, lắng tai nghe ngóng:
“Bên ngoài im rơ. Khi hồi em
khiêng xác chết ra ngoài cũng thấy lặng như tờ. Chắc yên rồi. Chờ sáng
coi ra răng rồi mình về nhà.”
Tôi vẫn không tin tưởng:
“Biết ra răng mà dám về. Ðợi coi người ta răng thì mình theo….”
“Rứa chị nằm ngủ đi. Coi con mắt chị đỏ kè tề…”
Nhưng chưa kịp nằm xuống, Thu đã kéo giật tôi:
“Chị ơi, chị…”
“Chi nữa?”
“Coi cái bà đó tề. Bà đó khi túi nằm gần em, răng chừ mò tới gần đây rồi nì. I, chi coi…”
Từ dưới nền đất, cách chừng hai
dãy ghế, một người đàn bà lồm cồm bò dậy. Chị đứng thẳng, tay vẫn ôm cái
bọc khư khư. Lúc này trời sáng, tôi nhận ra được cái bọc bằng vải, bên
trong là gì? Một đứa bé? Sao không thấy cựa quậy nhúc nhích ? Ðứa bé
bịnh nặng? Thiếu ăn? Hết hơi sức? Ðôi mắt của chị đàn bà không còn chút
thần sắc. Chị liếc nhìn chúng tôi bằng ánh mắt khờ khạo rồi cúi xuống
đung đưa cái bọc vải, giọng rền rĩ:
“À… ơi! Con ngủ đi con… À ơi… Ru
hời ru hỡi là ru… Bên cạn thì chống, bên su (sâu) thì chèo… Ngủ đi con…
Con ngoan… con ơi là con!”
Giọng chị rít lên:
“Con ơi là con. Con ơi!”
Chị đàn bà bật khóc. Tôi không
hiểu tại sao chị ru con mà khóc? Chắc hôm qua nhà chị bị cháy, chồng chị
chết rồi, chị bồng đứa con chạy thoát? Thái nằm day mặt về phía chị đàn
bà, hỏi:
“Con chị đó há?”
Chị đàn bà gật đầu. Gật tới mấy cái liên tiếp.
“Nó mần răng mà chị khóc? Nó đau ốm chi không?”
Chị đàn bà ôm chặt cái bọc vải hơn, hơi quay người như sợ người ta giành mất:
“Không răng. Không răng hết.”
“Gia đình chị mô hết rồi?”
“Chết. Chết hết. Chết. Chết hết, còn mô nữa…”
Chị ngưng lại. Nước mắt đã nhòe nhoẹt trên gương mặt xanh xao. Tôi không dám nhìn khuôn mặt méo mó khổ đau đó. Con Thu nói nhỏ:
“Chắc mụ nớ điên. Ngó cặp mắt lờ đờ… dễ sợ…”
Lắc đầu, nghiêm mặt. Cũng không
thể la đứa em. Nhiều người đã trở dậy. Nhiều người bạo gan đi ra ngoài
tìm nước súc miệng, rửa mặt. Cha Sở trở lại, yêu cầu thân nhân phải
khiêng những kẻ bị thương ra khu nhà ngang. Ở đó có một số thanh niên
tình nguyện giúp đỡ, săn sóc, băng bó cho người bị thương. Nhưng không
ai nghe lời, họ nghĩ dù người bị thương, được ở bên trong nhà thờ, gần
gụi thân nhân vẫn an toàn hơn. Cha Sở phải cùng số thanh niên đi len lỏi
vào các dãy ghế. Nhiều người được khiêng ra ngoài. Thái cũng hăng hái
cùng đám thanh niên giúp cha Sở. Má tôi cũng đã dậy từ lúc nào, và Thái
đã tìm được nước, dấp ướt khăn đem tới cho má tôi lau mặt. Tôi lần tới
bên má, ngồi giữa má tôi và một bà cụ già khác.
“Má”.
Tôi nắm chặt tay bà. Hơi ấm. Thân thuộc. Êm ái. Tôi hơi tựa người vào mẹ:
“Má. Má có ngủ được không?”
“Gần sáng thì mệt quá, má ngủ mất hồi mô không hay. Họ có bắn nhau nhiều không?”
“ Ít thôi, má.”
“Ừa. Hèn chi ngủ yên, không bị giật mình.”
Tôi không kể cho má tôi nghe vài chuyện đã chứng kiến hồi nửa đêm về sáng. Má tôi lại hỏi:
“Liệu có yên không con. Mần răng
mà về coi nhà cửa. Còn gia đình anh con trên Từ Ðàm nữa, bặt vô âm tín
như ri làm má lo trong bụng quá. Chị nờ, tui còn thằng con trai, vợ nó,
con nó đang kẹt trên Từ Ðàm…”
Má tôi lại bật khóc. Bà cụ ngồi bên cạnh an ủi:
“Ai cũng chịu chớ riêng chi mình
chị. Khóc cũng không làm chi được. Tui, thằng con trai bị họ bắt từ bữa
đầu, mấy đứa cháu chạy lạc mô không thấy, chết sống ra răng cũng không
biết… Tui cũng bấy trong bụng chị nờ…”
Khuyên nhủ người đồng cảnh ngộ
lại làm động mối thương tâm, bà cụ cũng ứa nước mắt. Bà đưa tay chỉ ông
cụ đang ngồi phía đầu ghế đối diện, tay ôm bọc quần áo, nói:
“Ông nhà tui đó tề. Chừ chỉ còn hai cái mạng già với nhau còn con cháu trẻ không thấy mô… Ai cũng khổ hết.”
Chút tĩnh lặng trong nhà thờ bị
quấy động. Mọi người đã trở dậy. Tiếng ồn ào như ong vỡ. Mấy cánh cửa gỗ
lim chắc chắn được hé mở, ánh sáng lùa vào. Thái bỏ đi ra ngoài. Một
lát sau Thái trở vào cho biết bên ngoài yên lắm. Nhiều người cũng đi ra
nghe ngóng, có người còn ra tận đường phố đứng nhìn lui nhìn tới rồi trở
vào thông tin cho mọi người. Lát sau, ngay trong sân nhà thờ, đã có
nhiều nhóm tụm năm tụm ba nhìn ra con đường vắng ngắt như đã hoang phế
từ bao lâu rồi.
“Lợi dụng đang yên, mình ra ngoài kiếm nước, chị.”
Mấy chị em dè dặt đi theo sau
lưng Thái ra ngoài, tới giếng nước. Mọi người đã tới đây đông nghẹt và
đang giành giựt nhau với chỉ một cái gàu múc nước. Giếng nước nằm cạnh
một dãy nhà bếp nối liền với dãy nhà ngang nằm mé một khu vườn rộng
trồng đủ loại cây trái. Qua một ngày một đêm tù túng bên trong nhà thờ,
lúc này tôi mới hít thở được khí trời, nhìn thấy gốc cây ngọn cỏ và mặt
đất còn bình yên.
Bầu trời nặng trĩu màu xám và bắt
đầu rơi xuống những hạt mưa nhỏ như bụi. Tôi kéo vạt áo măng tô lại và
cài nút kín cổ vì không khí bên ngoài giá lạnh. Cả đêm qua bên trong nhà
thờ, đầy hơi người, đầy lo âu, tôi đã không thấy lạnh mà còn nóng bức.
Lúc này đứng bên giếng nước, nhìn cỏ cây, mưa bụi, không khí trong lành,
tôi thở hít không ngừng, thở hít ham hố như sợ ngày mai, ngày mốt sẽ
không còn được thở trong bầu không khí như vậy nữa.
Một lúc sau tôi cũng phải rời
giếng nước và vườn cây xanh um. Thu bỏ vào bên trong nhà thờ trước. Nó
đã lấy được một lon bơ đầy nước. Thái rủ tôi ra đường coi có gì lạ
không. Con đường như dài, rộng hơn ngày thường, trống vắng và đầy bí
hiểm hơn ngày thường. Chúng tôi vòng lại phía sau, chỗ có một con đường
tráng nhựa chạy thẳng, dẫn tới một bờ sông. Cũng có một vài người ra đến
đó. Chúng tôi hỏi nhau, cũng không ai biết gì hơn chúng tôi cả.
Sau cùng, hai chị em tôi đi vào
một xóm nhỏ. Mọi nhà đều cửa đóng then gài giữa những khu vườn nhỏ tắm
mưa. Cũng còn vài nhà có người. Thấy chúng tôi, họ thò đầu ra ở những
cánh cửa hé và hỏi thăm:
“Mấy người ở mô. Thấy ra răng rồi? Họ còn đó hay đã đi chưa?”
Chúng tôi còn biết gì hơn họ?
Chúng tôi lắc đầu. Con đường phía trước không biết chuyện gì đang chờ
đợi? Lúc đó, có một toán người từ bờ sông chạy ngược lên, họ ra dấu cho
chúng tôi trở lại. Và rồi đám đông cùng theo chân chúng tôi, tụ trong
sân nhà thờ. Họ cho biết họ ở phía bên kia cầu, họ đã chạy loạn và muốn
trở về. Nhưng ở bên kia cầu lính Việt cộng đang canh giữ.
“Thấy chúng tôi, họ đuổi trở lại
nhà. Chúng tôi chạy đại bất kể, họ đưa súng lên nhắm bắn. Rứa là tụi tôi
chạy bán sống bán chết. Họ còn bắn đuổi theo dọa làm chúng tôi chạy té
xấp té ngửa…”
Ðám người này vẫn chưa chịu vào
bên trong nhà thờ để cha Sở xếp đặt chỗ ở. Họ cứ lớ ngớ nhìn ra đường,
mỏi mắt ngóng chờ một người nào đó chạy tới để hỏi thăm tin tức nhà cửa
của mình. Nhiều người còn có người nhà ở lại.
Và lạ lùng thay, không biết ở đâu
chui ra, trong sân nhà thờ xuất hiện nhiều bộ mặt lạ. Họ như đã ở sẵn
đây từ đêm rồi. Họ tản mát đâu phía sau khu vườn rộng, hay chính cả bên
trong nhà thờ, lẫn trong dân chúng. Thái kéo tay tôi:
“Mình đừng đứng đây. Mấy người này sao thấy nghi quá.”
Hai chị em đi vào trong. Má tôi và bà cụ bên cạnh đều ngước mặt lên chờ đợi và nôn nóng hỏi:
“Có thấy chi không? Có nghe chi không?”
Tôi lắc đầu:
“Không thấy chi hết má. Bên ngoài yên lặng như thành phố ma vậy đó.”
Má tôi cắn môi, nuốt nước miếng, nhăn nhó:
“Biết rứa cứ ở nhà. Thà chết ở nhà còn hơn chết bờ chết bụi.”
Tôi còn biết lời gì để an ủi má tôi. Thu tới ngồi bên cạnh, thì thầm:
“Chị. Em biết có con đường tắt đi về nhà mình.”
“Họ gác ở hai đầu cầu. Không qua về được.”
“Ðường ni không phải qua cầu. Mình đi tới bờ sông, may ra có đò. Chỗ ni vắng lắm chị.”
“Không được. Ðừng có đi ẩu. Ðể coi người ta làm răng thì mình làm rứa.”
Ðến chín giờ sáng vẫn không nghe một tiếng súng nổ. Bên ngoài im lặng như tờ. Thình lình, có vài người chạy vào báo tin:
“Ðường đi được rồi. Bên kia sông, người ta đang tràn qua, nhiều lắm.”
Mọi người ùa ra. Tôi và Thái cũng
chen chúc trong đám người cố ra khỏi cửa nhà thờ. Giữa sân, tụ tập tới
mấy nhóm chạy loạn tới. Ðàn ông, đàn bà, bà già, con nít. Người đang hoa
tay chỉ chỏ, kể chuyện, người khóc thút thít. Trẻ con nắm chặt áo người
lớn với mặt mũi còn kinh hoảng thất sắc. Tôi chen mãi mới vào được bên
trong, đứng gần một chị đàn bà:
“Chị ở mô chạy tới đây?”
“Tui ở dưới sân vận động. Nhà tui cháy rụi rồi.”
“Mới cháy?”
“Không. Cháy từ bữa qua lận. Không còn chi hết. Tui chừ tứ cố vô thân. Trời ơi là trời…”
Chị đàn bà khóc. Tôi hỏi tiếp:
“Ði đường thấy chi lạ không? Răng lại chạy tới đây?”
Chị đàn bà hỉ mũi, đưa tay quẹt nước mắt:
“Bữa qua dưới tui nhà ni cháy thì
chạy qua nhà nọ. Họ tới đông lắm, không cho ai đi ra khỏi xóm. Sáng ni
thấy có người chạy ngoài đường, mới chạy đại theo…”
“Họ để cho đi?”
“Họ chỉ bắt thanh niên thiếu nữ
tập họp rồi đi khiêng người bị thương. Nghe nói có nhiều xác chết, phải
đem chôn. Có rút đi mô hết, đang như kiến rồi biến như ma rứa đó. Giữa
đường, thấy xác chết bất loạn.”
Ðang nói, thấy một người quen trong nhóm bên cạnh, chị nhào tới ôm chầm lấy, khóc bù lu bù loa:
“O ơi là o. Tan nát hết rồi o ơi…”
Người đàn bà lớn tuổi mắt rưng rưng, nhưng cố gắng an ủi hàng xóm:
“Khóc chi tào lao rứa. Có người ta có mình chớ. Mấy đứa nhỏ mô mà không thấy?”
Chị đàn bà lúc này mới nhìn
quanh. Mấy đứa nhỏ con chị đang ngơ ngơ ngác ngác nhìn mấy người lớn
khóc lóc, bàn tán. Chị túm mấy đứa con lại:
“Biểu đứng một chỗ không thì lại
lạc. Nói không nghe… O ơi, tụi nó đây nì o. Từ bữa qua tới giờ chưa đứa
nào có cái chi nhét vô miệng… Mà nhà cửa, bàn thờ ông bà ông vải cháy
rụi rồi o ơi…”
“Còn thằng? Mô không thấy?”
“Tụi nó bắt rồi. Ði theo mấy người kia, không biết ra răng…”
“Con cháu tui cũng bị bắt đi.
Nghe nói chỉ đi khiêng tải người bị thương rồi về. Hết việc thì về chớ
giữ lại mần chi. Mình cứ cầu trời khấn Phật đi o nờ…”
Chị đàn bà vẫn khóc. Mấy đứa nhỏ
níu chặt áo mẹ. Mưa phùn cùng nước mắt ướt đẫm mặt tôi. Tôi cần một chút
không khí để thở. Lách ra ngoài, tôi gặp Thái đang nói chuyện với một
người đàn ông cùng với gia đình của ông ta. Nhiều bọc lớn nhỏ, một đôi
thúng gính đựng đầy đồ đạc lỉnh kỉnh. Người đàn bà chắc mới sinh, đứa bé
còn nhỏ lắm, bọc trong một cái chăn cũ. Bà ta thở mệt nhọc, đứa con gái
chừng mười một tuổi ôm đứa em trên tay, hết nhìn cha đến nhìn mẹ.
“Bác ở mô chạy về đây?” Thái hỏi.
“Tui ở trên Phú Cam. Trên đó tụi nó còn đông lắm.”
“Rứa răng bác chạy được?”
“Liều. Liều cậu ơi. Nhờ Chúa che mắt nên mới thoát được tới đây. Tụi nó đông lắm, chỗ mô cũng thấy tụi nó…”
“Bác có nghe tin tức chi không?”
“Cũng có nghe sơ sơ. Họ nói tụi
giải phóng chiếm hết thành phố Huế rồi. Vài ba bữa nữa ông Hồ vô thăm ăn
mừng chiến thắng. Họ nói ông Hồ mà vô đây, bà con được Bác phát gạo ăn
không hết…”
“Ở đó mà có gạo. Cứt khô cũng
không có. Từ bữa qua tới chừ gia đình tui mười một mạng chưa có hột cơm
hột cháo mô trong bụng nì… Phách tấu…”
Người đàn ông vừa chen câu nói
đeo kính cận. Xung quanh ông ta có năm sáu đứa nhỏ, đứa nắm áo, đứa nắm
quần, kêu cha cha, con đói, mặt mũi méo xẹo, tèm nhem. Thái lại hỏi:
“Rứa chớ bác ở mô chạy tới đây rứa?”
“Bên tê sông.”
“Bên đó ra răng, bác?”
“Mấy ông vô tới nơi là khổ rồi.
Bét mắt đã thấy họ đầy nhà, đầy vườn. Cha nào cũng ốm cà tong cà teo,
đói đeo vàng hai con mắt mà toàn nói phách tấu không rứa. Người sống bấn
loạn, người chết, người bị thương cũng bấn loạn, khiêng vất trong sân
nhà người ta rồi vô nhà thấy chi cũng vơ cũng vét. Con trai con gái mới
lớn bắt đi tải thương, chôn xác. Vô nhà kêu gọi nấu cơm cho quân giải
phóng, mượn gạo, mượn mắm muối. Nói là mượn chớ cướp của dân thôi mấy
ông mấy bà ơi… Nhà tui con đông, khi mô cũng trữ gạo, đồ khô, cá mắm.
Rứa mà họ chở đi hết không chừa cho tui một nạm, còn nói phách, bữa mô
Bác vô, gạo phát không cho dân… Ở nhà cũng chết đói, thôi liều mạng chạy
qua đây xin cha gạo cứu mấy đứa con nít trước đã…”
“Dân bên đó chết nhiều không bác?”
“Thì bữa đầu đạn ở mô bắn như
mưa. Chết chớ răng không chết. Sơ sơ tới sáng mùng hai, có mấy nhà chung
quanh tui cũng mất sáu mạng…”
Thình lình một người đàn ông mặc
áo măng tô đen đi tới. Cái áo măng tô thì dài mà người hắn thì ngắn nên
cứ kéo phệt đất. Chắc chắn cái áo này cũng là của mượn thôi. Hắn hỏi:
“Bác từ đâu tới đây?”
Giọng ông ta lơ lớ không phải
miền Bắc, cũng không phải miền Trung, khi thì như Quảng Bình hay Hà
Tĩnh. Ông ta nhìn người đàn ông đeo kính gằm gằm. Người đàn ông đeo kính
tránh luồng mắt của ông ta, cúi đầu. Mấy đứa nhỏ bíu chặt lấy người
cha, sợ sệt. Thái bấm tay tôi. Chúng tôi lảng xa ra. Thái thì thầm:
“Thằng cha đó thấy khả nghi quá. Thôi đừng hỏi thăm nữa.”
Bây giờ trong các nhóm khác chạy vô sân nhà thờ, có những người bị thương được khiêng theo. Thái đẩy vai tôi:
“Chị đi vô trong đi. Ðứng đây cũng không làm chi được. Ðể em ở lại coi một lúc rồi vô sau.”
Tôi thấy nhiều người từ phía
trong đang đi ra. Tôi tìm băng ghế của mình và ngồi xuống. Má tôi vẫn
ngồi bó gối. Bà cụ già bên cạnh đang têm trầu. Những lá trầu đã héo, vôi
đã khô. Ðứa em dâu đưa con cho tôi bế để ra ngoài tìm cách nấu cơm. Mấy
đứa em tôi khi chạy loạn, bỏ lại hết, mỗi đứa đem theo một túi gạo.
Nhưng tới trưa, đứa em tôi vẫn chưa thổi cơm được vì không có nước.
Người ta bu quanh miệng giếng không còn chỗ chen chân, và vì nhiều người
dùng quá nên các mạch nước rỉ ra không đủ cho những chiếc gàu chờ chực
múc. Thái nhanh nhẹn ra xóm kiếm được mấy ổ bánh mì nguội đâu từ nhiều
ngày và thịt hộp. Chưa bao giờ chúng tôi thấy những hộp thịt gà, hộp bơ,
đồ viện trợ Mỹ quí giá tới như vậy. Ngày thường tôi không nuốt nổi mấy
thứ này.
Trời đánh còn tránh bữa ăn. Tôi
nhớ một câu các cụ thường nói. Vậy mà đang ăn nửa chừng thì tiếng súng
lại nổ, nổ rất ròn rã ở phía bờ sông. Khu nhà thờ quay mặt ra đường lớn,
phía trước mặt nhà thờ, bên kia đường là ruộng. Khu ruộng khá lớn, chạy
dài tới tận con đường dẫn ra nhà dây thép. Phía sau lưng nhà thờ, cách
một xóm nhỏ là bờ sông. Một nhánh của sông Hương, chảy từ Cầu Lòn, về
tới Ga Huế, qua Bến Ngự, Phủ Cam, tới An Cựu và còn chảy dài xuôi về đâu
nữa, tôi không biết. Càng về chiều tiếng súng thưa dần và vợ Bé nấu
được nồi cơm. Chúng tôi không đem theo chén bát nên mỗi người phải lấy
tay mình nắm cơm chia cho nhau. Nhưng khi nồi cơm vừa bày ra, thì cả
chục bàn tay, cả chục miếng miểng, chén sứt mẻ chìa ra. Một lũ trẻ con
đói ùa tới. Nồi cơm nhỏ phải chia năm xẻ mười… Phần còn lại chẳng được
bao nhiêu, chúng tôi lại cứ nhường qua nhường lại. Rồi mỗi người cũng
chia nhau ăn một ít. Hèn chi má tôi thường mắng chúng tôi mỗi khi hoang
phí: hạt cơm là hạt ngọc của trời. Vợ Bé cạo nồi đưa thêm cho tôi một
miếng cơm cháy nhỏ. Nhưng miếng cháy bị giựt và một đứa nhỏ chạy biến,
lẫn vào đám đông nằm ngồi nghiêng ngửa.
Nhìn theo thằng bé, tôi chợt bắt
gặp chị đàn bà ôm bọc vải. Chị ngồi dựa vào chân ghế, đôi mắt ngơ ngác
thất thần thỉnh thoảng nhìn người này người kia rồi cúi xuống ôm chặt
cái bọc vải. Chị ru con, ru hời ru hỡi.
Hai ông bà cụ già đem theo nhiều
bánh tét và mức. Họ cũng gìn giữ kín đáo, và đang ăn với nhau. Ông cụ
lén đưa cho tôi một khoanh bánh tét. Tôi định từ chối thì Thái đã vội
cầm lấy, cám ơn. Một miếng ăn lúc này còn hơn cả vàng bạc, châu báu. Nào
vàng bạc châu báu có bỏ vào miệng nhai được cho đỡ cơn đói đâu! Vừa cắn
một miếng bánh, tôi bỗng dựng người lại. Hình như có người nào trong
đám đông đem theo được cái radio chạy pin. Họ vặn âm thanh nhỏ lắm nhưng
tôi cũng ráng nghe lõm bõm. Ðài Phát thanh Huế lọt vào tay họ. Tin loan
báo Sài Gòn đã thuộc quân giải phóng…
“Miền Nam đã thua. Giải phóng toàn quốc.”
Giọng một thanh niên trẻ. Tiếng nói phát ra từ chiếc radio biến mất. Một giọng khác:
“Cất đi. Trời ơi là trời. Khổ lắm, đừng nghe, đừng nghe…”
Tôi chợt nhớ là lúc soạn đồ đem
đi, tiện tay tôi có bỏ vào túi vải một cái radio nhỏ xíu. Nhưng hiện nó
nằm trong túi vải nào thì tôi không nhớ. Ðã đánh thắng toàn quốc. Miếng
cơm trong miệng tôi nghẹn cứng lại.
Ðêm thứ hai ở nhà thờ không khí
và quang cảnh đã gần quen thuộc hơn. Một vài ngọn đèn dầu tim lửa thật
nhỏ và đuốc chỉ được đốt một ngọn, mà tới 9 giờ tối phải tắt. Cả đèn dầu
nhỏ cũng phải tắt hết.
Ðêm nay, mọi người xì xào nói
chuyện nhiều hơn. Thái kể cho tôi nghe về những điều đã thấy được trong
ngày. Ngay dưới sàn nhà thờ, phía dưới có một phần hầm thấp. Ở dưới đó
người ta chen chúc nhau để giành chút an toàn, nhưng bẩn thỉu và hôi hám
lắm. Ngay ở phía trên, nhà nguyện và nhà giảng, trần cao, thoáng mà
chúng tôi còn không chịu nổi hơi người ta. Trẻ con ỉa đái tùm lum, cũng
đã nặng mùi lắm rồi. Trong đêm, có thêm mấy người đàn bà chuyển bụng đẻ,
chúng tôi nghe thêm được vài tiếng khóc vào đời. Tiếng khóc con trẻ làm
tôi nhớ tới mấy đứa con tôi. Lúc này chúng đang ở Sài Gòn. Theo tin tức
phát thanh của họ thì Sài Gòn cũng đã mất. Chồng con tôi ra sao? Có
chạy loạn? Có ly tán? Trái tim tôi có lúc như bị bóp nghẹn, không thở
nổi.
Cũng có lúc quá mệt mỏi, tôi ngủ
thiếp đi. Nhưng cơn ngủ quá ngắn. Tôi bị đánh thức dậy bằng một tiếng la
hoảng hốt, thất thanh:
“Chết tôi. Chết tôi rồi. Bà con ơi!”
Nhiều tiếng đồ vật rơi loảng xoảng. Vài tiếng kêu rú theo. Giọng kêu lúc đầu lại lớn hơn, khủng khiếp hơn:
“Việt cộng tới. Việt cộng tới. Ám sát. Giết người. Chúng nó tới.”
“Ðâu? Ðâu? Trời đất ơi, Việt cộng.”
Người ta chồm dậy, nhảy xuống đất, bám chặt nhau. Hốt hoảng, lá ó, kêu gào….
“Cha ơi, cứu chúng con. Chúa ơi!”
Ngọn đuốc trên bệ cao được đốt lên, chiếu lung linh hình bóng cha Sở.
“Bà con yên lặng. Chuyện chi? Chuyện chi xẩy ra?”
“Dạ thưa cha…”
“Dạ nghe la… Dạ có người la… Việt cộng tới.”
“Ai la. Ở đâu?”
“Dạ thưa cha. Ở đây. Dạ ông ni nì. Ông la quá.”
Vài ngọn đèn nhỏ được đốt thêm.
Mọi người nhìn về hướng có tiếng nói. Chẳng thấy gì ngoài những chiếc
đầu cao thấp lố nhố. Cha Sở kêu:
“Ai vừa la đó. Ðứng dậy coi.”
Một người đàn ông bị đẩy đứng lên trên ghế. Ánh đuốc chiếu tới, một khuôn mặt còn thất thần, giọng lập cập:
“Dạ con, cha ơi. Con nằm mơ, dễ sợ quá.”
“Thằng cha mắc dịch.”
Nhiều tiếng nguyền rủa. Người đàn ông nói tiếp:
“Nằm mơ thấy Việt cộng…”
“Trời đất. Thấy Việt cộng mà làm như thấy ma quỷ.”
“Còn hơn nữa tề.”
Ai đó nói. Một giọng cáu kỉnh:
“Mả cha cái thằng vô duyên. Mả cha thằng nào đạp vào bụng ông muốn phòi mỡ.”
“Tui cũng bị đạp trúng mắt.”
“Tui nì. Tui bị chân đá vô mặt. Tổ cha thằng mô con mô, tao biết tao bẻ cẳng.”
Một giọng đàn bà:
“Cha ơi! Nó còn la nữa. Cha đuổi nó ra ngoài.”
“Cho nó ra ngoài để nó thấy Việt cộng, cha. Làm người ta hết hồn.”
Nhiều giọng phụ họa. Nhưng cha Sở
chỉ bảo mọi người im lặng và nên nằm xuống ngủ tiếp để lấy sức vì chưa
biết chuyện gì còn xẩy ra nữa. Mọi người nghe lời. Nhưng cha Sở vừa đi
thì thằng cha ngủ mớ làm người ta sợ đái ra quần không biết thấm thía
chuyện gì mà bỗng ré lên cười. Tiếng chửi rủa lại nổi lên. Người đàn ông
im bặt. Bên ngoài lạnh lắm, làm quá dám cái đám đông kia khiêng hắn vứt
ra ngoài mưa đêm.
Nhưng không ai ngủ yên được. Trời
chưa tảng sáng dã nghe tiếng quát tháo giận dữ của cha Sở. Lại ngồi
dậy, lại lắng nghe. Từ bệ đá, cha Sở và đám thanh niên trật tự đang lôi
ra một cô một cậu. Một thanh niên chỉ vào mặt hai cô cậu, có lẽ họ đang
run.
“Chưa biết sống chết ra răng, còn làm chuyện tồi bại.”
Mọi người chen nhau đứng cả trên ghế để nhìn cho rõ mặt cặp thanh niên nam nữ. Một giọng nói phát ra từ đám đông:
“Ðánh chết chúng nó đi.”
“Ðuổi ra ngoài.”
“Ðừng trả áo cho nó.”
Cha Sở lại phải dàn xếp, làm đám
đông dịu lại và đưa cặp nam nữ xuống nhà ngang. Cha sợ để ở lại đây cặp
nam nữ kia sẽ không yên với đám đông đang căng thẳng. Mà xuống nhà ngang
cũng là một hình phạt quá nặng rồi, ở đó, họ phải ngồi chung với những
xác chết, may ra thì còn được ở chung với những người bị thương.
Cả một xã hội bát nháo đang thu
nhỏ lại trong khu vực Dòng Chúa Cứu thế. Có kẻ sinh, người chết, có ganh
ghét, phẫn nộ, hằn học mà cũng có thương yêu. Trẻ sơ sinh được cho nằm
trên căn gác nhỏ. Người nào bị thương, bệnh, chết được khiêng xuống phía
sân sau, trong dãy nhà thấp. Sự chung đụng gây ra nhiều vụ cãi vã, kiện
tụng, kể cả đánh lộn. Nhiều người chạy loạn đã cạn lương thực. Cha Sở
phải lấy gạo dự trữ của nhà thờ phân phát. Dù đã có một số thanh niên
tình nguyện xung vào đội trật tự, cũng không sao ngăn cản nổi người ta
giành giựt, đánh nhau lỗ đầu chảy máu để tranh bát gạo, miếng thức ăn.
Giọng cha Sở không còn thanh, lớn như trước mà khản đặc lại. Cha đã hò
hét, can thiệp, lo lắng quá nhiều cho đám đông chạy vào nhà Dòng. Gạo
chắc cũng không còn bao nhiêu để phát tiếp…
Có một người không hề để ý tới
gạo, tới thức ăn. Không xếp hàng, chìa tay lĩnh gì hết. Ðó là chị đàn bà
ôm cái bọc vải, ngồi yên lặng ở một góc, chăm chỉ ru đứa con ngủ. Cả mẹ
không ăn, cả con không bú. Cha Sở đem tới cho chị một vắt cơm, chị ăn
cầm chừng, hình như rứt rứt từng hột cơm bỏ vô miệng nhai sẽ đỡ bớt cho
chị một chút ray rứt chứ không phải để mưu cầu sự sống? Riết rồi người
ta cũng mặc kệ chị, không ai thèm chú ý.
Ngoài đường cũng không còn người
chạy loạn. Cả thành phố như chìm ngủ trong mưa phùn và giá lạnh. Cha Sở
đã đóng cửa nhà thờ, chừng này người đã thiếu không khí để thở.
(tiếp chương 2)
Qua ngày thứ ba, mọi người đang
có chút hy vọng là mọi chuyện sẽ khá hơn thì ngay lúc gần sáng, mọi
người đang ngủ bị dựng cổ dậy vì tiếng súng. Nhiều người đang nằm trên
băng ghế lăn đại xuống đất, bất kể đè lên trên người khác. Tiếng súng
nhỏ, rồi súng lớn. Ðoàng. Ðùng. Ðùng. Nhà thờ rung lên.
Ánh chớp của bom đạn, của lửa. Và
choang, ầm, choang. Vài tấm kiếng trêm vòm nhà thờ vỡ. Lúc này thì
không đủ gan lì để nằm ráng trên băng ghế được nữa. Tôi cũng lăn hay té
xuống giữa những hàng ghế. Người nằm phải lồm cồm ngồi dậy để khỏi phải
chồng lên nhau. Thái đã kéo má tôi lọt vào giữa. Bom đạn bên ngoài càng
ngày càng bắn rát, dữ dội. Chúng tôi cứ ngồi khít lên nhau, ôm chầm lấy
nhau, cận kề cái chết cho tới sáng thì biết còn sống vì tiếng đạn thưa
thớt dần rồi dứt.
Nghe ngóng, chờ đợi một lúc, tôi
và Thái cùng vài người nữa bạo gan đi ra ngoài. Con đường dẫn ra bờ sông
hôm nay đầy rác rưởi, dơ bẩn như một cánh tay của một tử thi đã rữa nát
dưới mưa gió, còn muốn chuồi tới bến sông để rửa ráy. Nhiều ngôi nhà
sập, nhiều nhà cửa, cây cối cháy rụi.
Ði vào một xóm nhỏ. Nhà cháy, nhà
bay nóc, mất cửa. Vài xác chó xác mèo nằm trơ trong sân. Không có bóng
người. Tôi lặng lẽ kéo Thái trở về nhà thờ. Có lẽ chỗ này là còn yên ổn,
ít nhứt trong thời điểm này.
Khi chúng tôi trở về thì có một
số người còn đi nữa. Họ tìm tòi trong những nhà bỏ trống ít gạo, ít bánh
chưng bánh tét trên những bàn thờ còn nguyên. Họ cũng đem về xác vài
con gà con vịt đã chết. Ba bốn người khiêng được xác một con heo. Họ đưa
ra giếng, mượn đồ nhà bếp của nhà thờ, cạo lông, làm thịt. Bé cũng phụ
làm heo, được chia phần. Thịt được cắt nhỏ, kho với muối. Nhà thờ chẳng
còn gì ngoài muối.
Tiếng súng chỉ ngưng được một lúc
rồi lại bắt đầu. Nhưng không dồn dập mà từng chặp, từng chặp, cho tới
trưa. Cô em dâu của tôi cũng ra giếng lấy nước nấu một nồi cơm nhỏ.
Nhưng khi đem vào, chúng tôi không dám bày ra mà dấu dưới gầm ghế, lâu
lâu thò tay vắt một vắt nhỏ chia nhau ăn. Ðám trẻ con đói nhiều quá. Tôi
đổi mấy vắt cơm lấy nửa đòn bánh tét của bà cụ “hàng xóm”. Không cầm
lòng đặng, Thái cắt mỏng từng lát bánh tét chia cho lũ trẻ con, nhưng
cũng không thấm đủ gì.
Buổi trưa tiếng súng bỗng nhiên
im bặt. Trong mắt mọi người có hy vọng. Nhưng chút hy vọng đó tan biến
như mây khói khi từng loạt đạn dấy lên. Ðạn bắn đâu gần lắm, như từ phía
ruộng trước mặt, từ hai bên hông nhà thờ, từ phía sau. Nhà thờ rung lên
và vòm kính trên nóc tiếp tục vỡ. Mỗi lần một tiếng nổ lớn, một tiếng
kêu choang là kính rơi xuống như mưa đá. Má tôi lấy cái mền bung ra,
trùm kín đầu con cháu, sợ miểng kính rơi trúng tét đầu. Nhưng Thái bị
tới mấy mảnh kính cứa cổ tay, cứa vai, máu chảy thấm áo đỏ lòm. Thuốc
thang không có, má tôi lấy mớ thuốc rê đem theo để ăn trầu rịt vào vết
thương cho Thái. Cũng may em Thái khỏe mạnh, quen dãi dầu mưa nắng nên
vết thương cũng chỉ làm đau rát chút đỉnh mà thôi.
Chừng hai tiếng đồng hồ sau,
tiếng súng dồn dữ dội về phía sau nhà thờ, ở bên kia sông. Thái thì thầm
cho tôi biết đó là loại súng A-ka của Liên Xô mà Việt Cộng thường dùng.
Tiếng đạn A-ka sắc, ngọt, giết người cũng lẹ làng. Hai chị em tôi co
quắp bíu chặt nhau. Tấm mền má tôi trùm đầu làm nghẹt thở quá. Nếu lúc
đó tiếng súng không ngớt bớt, tôi không thò đầu ra khỏi, chắc cũng chết
ngộp.
“Có vẻ yên hơn, chị. Ðể em ra ngoài.”
Thu cản:
“Ê Thái. Ðừng. Ðừng vội. Nghe hình như…Nghe đã tề…”
Phía bên ngoài cánh cửa nhà thờ, có nhiều tiếng ồn ào. Tiếng đập cửa, tiếng kêu cứu:
“Cha ơi. Cứu chúng con. Cứu chúng con…”
“Cứu người. Cứu người…”
“Ðừng mở. Chật quá rồi cha ơi.”
Cha Sở đang bế một đứa nhỏ bị
thương vì miểng kính, nghe kêu, cha đưa đứa nhỏ cho một thanh niên trật
tự đứng bên, mở cửa, chạy băng ra ngoài.
Người ta ở bên ngoài tràn vào như
giòng nước lũ. Ðâu mà nhiều thế. Hết chỗ. Họ đứng sát vào nhau. Nhiều
người bị thương vô tới là ngã lăn ra đất. Ðám đông cũ bị bắt buộc dồn
cục lại, nén chặt lui phía sau. Cha sở lại phải hô hào, dàn xếp. Rồi đâu
cũng vào đó. Cả cái bệ để cây đuốc, nay cũng có người leo lên nằm ngồi.
Sát bệ đặt tượng Chúa và Thánh giá, con nít bò lổn ngổn.
“Khóa cửa lại. Hết chỗ chứa rồi.”
Ðám người cũ, đám người mới hỏi
han nhau. Chỉ biết được là Việt cộng tới đông lắm. Bên kia sông bắn nhau
dữ lắm. Nghe nói quân lính mình đã tới… Nghe nói đánh nhau ác liệt
nhưng có lính mình và lính Mỹ, ai cũng mừng, đã có tiếng hoan hô reo
vui.
Cha Sở lại đẩy cửa bước vào. Theo sau lưng cha có hai người lạ. Một nam một nữ, họ là người da trắng. Ðám đông lại xôn xao:
“Mỹ tề. Mỹ phải không?”
“Mỹ chi mà lùn tịt. Thằng Tây ni lùn tịt. Tây đó.”
Người đàn ông đứng tuổi quần áo
sốc sếch, râu ria xồm xoàm như con đười ươi trong rừng chạy lạc về phố.
Tay họ cầm cờ trắng có viết chữ “báo chí”. Cha Sở nói chuyện với họ bằng
tiếng Pháp. Thì ra, đây là hai phóng viên của một tờ báo ngoại quốc.
Người đàn ông còn có chút bình tĩnh, nhưng người nữ phóng viên thì trên
mặt còn đầy nét sợ hãi. Mọi người bu tới coi. Con nít chui dưới chân
người lớn, kêu réo với nhau:
“Bây ơi! Tới coi ông tây bà đầm.”
Bọn trẻ nít này đâu khác gì tôi
hồi còn thơ ấu. Những người da trắng tới xứ sở Việt Nam, coi như là
người rớt từ trên mặt trăng xuống. Tôi cũng có mặt trong đám con nít đi
coi ông tây bà đầm. Nhưng ông tây bà đầm hồi đó oai hơn nhiều, đâu có
nhếch nhác như hai người chạy loạn này. Cha Sở nói chuyện nhiều lắm. Một
lúc sau người nữ phóng viên đã bớt sợ, cô ta đưa máy ảnh lên bấm lia
lịa:
“Ê, coi nó chụp hình. Chụp hình.”
Con nít thích chí chui tới đứng dàn ngang. Nhiều người lớn che mặt.
“Báo chí đó. Nó đăng báo có cái mặt mình…”
Chụp đám đông. Chụp người bị
thương. Chụp con nít. Người đàn bà có đôi mắt chưa hết thất thần chăm
chăm vào ống ảnh. Những đứa con nít nhay nhay vú mẹ mãi mà không có sữa,
ngó cái ống ảnh, nhả vú mẹ ra rồi khóc ré lên… Ống máy ảnh đưa về phía
tôi. Thái đứng dậy dùng cả cái lưng che khuất, lớn giọng:
“Còn chụp với chiếc gì…”
Nó đưa tay ra dấu muốn đập bể cái
máy ảnh. Cô nữ phóng viên cười muốn làm thân. Họ đi lên gác chụp tiếp
mấy sản phụ và hài nhi rồi xuống nhà giảng, đưa máy ảnh bấm liên tiếp.
Cũng liên tiếp lúc đó có tiếng
súng nổ. Mọi người lúc đó mới nhận ra nguy hiểm của sự có mặt hai người
này. Việt cộng sắp tới đây rồi. Chúng thấy hai người da trắng sẽ nghĩ là
Mỹ và sẽ ra tay tàn sát. Vậy là họ nhao nhao đòi cha Sở phải đuổi hai
người này ra khỏi nhà thờ.
“Cha ơi. Ðuổi chúng đi.”
“Lấy máy ảnh của nó.”
“ Không cho chụp nữa. Ði đi.”
Cha Sở biết được sức mạnh của đám
đông, nên đưa hai người ra khỏi khu nhà nguyện, kiếm một chỗ khác cho
họ. Nhiều tiếng thở phào nhẹ nhõm.
“Nó đi rồi.”
“Chết tới nơi không lo, còn đưa máy hình bám lia bấm lịa…”
Tiếng nói chưa dứt thì một tiếng
rú nổi lên. Chị đàn bà ôm cái bọc ngồi trong góc. Một đứa nhỏ đã nghịch
kéo cái bọc vải của chị ta. Chắc nó nghĩ có đồ ăn trong đó. Chị giằng
lại được cái bọc.
“Con ơi là con ơi!”
Chị rờ rẫm cái bọc:
“Con ơi, con có đau lắm không?
Con đừng… Con đừng bỏ mạ… con ơi! Ngủ đi, ngủ đi mạ ru nì… Ầu ơ… Người
ta đi có đôi có bạn, mạ đi một mình chạng vạng tới nửa đêm…”
Chị ta nói ra miệng câu gì cũng
là thơ hết. Cái bọc gì trong tay chị ta vậy? Sao không rời khỏi tay? Nó
là bọc quần áo, là con búp bê, là…?
Nhưng rõ ràng chị ta là người không còn tỉnh trí nữa.
Buổi chiều cha Sở trở lại. Cha bảo mọi người im lặng, giọng nghiêm trọng:
“Bà con đừng có chộn rộn. Tình hình không khá như mình tưởng mô. Có tin quân Mỹ kéo lên ở quốc lộ 1. Nhiều nơi đang đánh lớn.”
“Cha ơi, chừ chạy đi mô, cha?”
“Không chạy đi mô hết. Nhưng phải
lo phòng bị, lúc nào cũng sẵn sàng. Bắt đầu từ bây giờ phải dọn chỗ lại
sạch sẽ, thứ tự. Mình sẽ chia ra nhiều ô để ở, để săn sóc giúp đỡ nhau…
Nghe tôi nói đây. Bà con lúc này phải thương xót nhau, đùm bọc nhau để
cùng thoát hoạn nạn..”
Cha Sở nói là làm liền. Những
hàng ghế được quây lại làm hàng rào từng khu. Mỗi khu gồm mười gia đình.
Cha sở sẽ lấy kho gạo sau cùng phát vào ngày mai. Cha cũng kêu gọi
thanh niên nam nữ, những người còn sức lực tổ chức đội trật tự, đội cứu
thương. Chị đàn bà ôm cái bọc được đưa tới trong khu cùng gia đình tôi.
Ai cũng còn gia đình, nhưng chị thì lẻ loi. Chị ngồi sát bên Thu. Mấy
đêm rồi chị đâu có ngủ nghê gì nhưng sao chị không ngã gục? Chị ta đã
điên? Cũng không sao, chị ta điên và hiền lành.
Nhờ tài tổ chức của cha Sở mà
chúng tôi có chỗ riêng, thoáng hơn. Có thể đi lui đi tới chứ không bị bó
chân bó cẳng như trước. Mỗi ngày chỗ ăn ở được phát chổi để quét dọn,
trẻ con được đưa vào kỷ luật cũng bớt phá phách nghịch ngợm. Tuy mùi
nước tiểu trẻ con không thể tẩy được nhưng mọi người cũng đã quen, không
khó chịu tới muốn ói mửa.
Có lúc tôi rủ Thái đi xuống nhà
ngang. Nhưng gặp nhiều xác chết mới đặt ở đây vì chỗ chứa xác đã kín
đầy. Trong mấy khu chia nhau ở bên trong nhà thờ, cũng có vài người bỏ
mạng vì vết thương, vì bệnh mà không có thuốc.
Buổi tối lại có người bệnh nặng
ngay sát khu bên cạnh. Một người đàn ông nằm quằn quại dưới đất. Tôi
chồm qua dãy ghế nhìn. Mới hồi chiều tôi thấy ông ta còn tỉnh táo, còn
ngồi ăn mấy miếng bánh mì khô mà. Bây giờ ông ta trợn mắt, chỉ thấy
tròng trắng, lăn lộn, sùi bọt mép, nhưng khuôn mặt biến đổi bất chừng,
khi như kéo một nụ cười, khi như kéo một cái mếu.
“Chị ơi, ông nớ mầm răng rứa?”. Thái hỏi.
“Khi không ba hắn nổi điên. Ai mà biết.”
“Ðiên khi mô. Hồi chiều em thấy ông ngồi ăn bánh mì khô mà.”
“Thì vậy. Hắn chạy tới đây với thằng con trai bị thương. Hồi chiều thằng con chết rồi, xác còn để ngoài nớ tề…”
Một người kể:
“Hắn nói nhà hắn giàu, có nhà lầu
xe hơi. Vợ hắn chết ngay bữa đầu. Hắn ôm thằng con chạy. Mấy bữa ni hắn
tiếc của cứ than hoài. Chừ con hắn chết luôn nên hắn nổi điên.”
“Tội nghiệp quá hỉ?”
“Mạng người không tiếc, còn tiếc của cải. Ðiên chi mà ngu rứa trời.”
Người đàn ông đang lăn lộn, bỗng kêu lên:
“Lạy mấy ông đồng chí….Dạ…không
phải, dạ giải phóng. Xin đừng đốt nhà, đừng đốt xe…Lửa. Lửa dễ sợ quá…
Lạy các đồng chí… tha cho cái nhà, cái nhà…”
“Thằng cha kỳ khôi chưa. Răng không xin cho vợ, cho con mà cứ cái xe, cái nhà…Thiệt là quả báo chi đây…”
“Lấy khăn bịt miệng thằng cha lại. Tụi nó vô mà nghe được là chết hết đó…”
Thái kéo tôi về chỗ:
“Chị ngủ sớm đi. Em kiếm được chiếc chiếu, dấu dưới ni nì…”
Thái lôi chiếc chiếu dưới gầm ghế
ra trải. Má tôi yên lòng ngả lưng. Mấy đêm rồi, bà cứ dựa lưng vào
tường, vào ghế mà ngủ gà ngủ gật. Mắt má tôi sâu hoắm và có quầng thâm
thật đậm.
Người đàn ông đã hết chịu đựng,
điên luôn rồi. Ðêm, ông ta cứ la như cháy nhà. Nhưng mọi người quá mệt
mỏi, cũng đã quen dần không thấy còn chi lạ để coi. May mà ai cũng chợp
mắt được một lúc, vì gần sáng, tiếng súng lại nổ inh tai. Tôi muốn nhỏm
dậy, má đè đầu tôi xuống:
“Súng đó tề. Ðừng trồi đầu lên nó trúng.”
Tôi nghe rõ rồi. Tiếng đại bác ở
đâu câu tới rất gần. Lâu lâu điểm một vài tràng súng nhỏ. Rồi có tiếng
xe chạy ngoài đường. Thái nằm sát tai xuống sàn nhà, nghe ngóng:
“Tiếng xe thiết giáp đó chị. A… có xe tăng. Xe tăng nữa…”
Mặt đất rung chuyển mỗi khi có
đoàn xe chạy qua. Mỗi lần có tiếng xe là có tiếng súng nổ liên hồi.
Chúng tôi ôm chặt lấy nhau. Má tôi không ngớt cầu nguyện….
Buổi tối hôm trước tôi chỉ ăn có
một lát cơm vắt nhỏ nên sáng hôm sau, bụng đã đói cồn cào. Bé và Thái đi
lĩnh gạo. Vợ Bé và Thu lo đi nấu cơm. Phải nấu cho sớm, chớ ai biết lúc
nào bom đạn tới. Thái còn đùa được:
“Mấy bà nấu cơm, nếu có đánh nhau chạy cũng mang theo nồi cơm mà chạy nghe.”
Cố mà đùa để kiếm vui, nhưng ai
mà cười nổi. Nấu được một nồi cơm cũng không phải dễ. Có gạo nhưng kiếm
củi ở đâu. Có mấy ngày mà củi trong nhà thờ hết sạch. Người ta bẻ cả
cành khô, vơ cả lá rụng, bẻ cả thân cây còn tươi, nhưng với chừng đó
người, mọi thứ trong nhà thờ không cung cấp nổi. Thái tính đi ra ngoài
xóm kiếm củi thì tiếng súng bên kia sông bắt đầu nổ lớn. Mọi người vội
bỏ của chạy lấy người vào trốn bên trong nhà thờ. Chờ ngớt bớt tiếng
súng, Thái liều lĩnh đi ra xóm kiếm được mớ củi. Vợ Bé và Thu lại dè dặt
ra ngoài nấu cơm. Ðạn lúc này đã bắn vào phía nhà thờ. Má tôi lo lắng:
“Ra kêu mấy đứa vô. Còn nấu nướng chi nữa.”
Rồi nồi cơm cũng chín. Vợ Bé như đã phải chạy một mạch với nồi cơm vào bên trong, thở hổn hển:
“Dễ sợ quá. Từ bếp chạy vô đây mà đạn nó rượt sau lưng nè.”
Nó nhỏ giọng:
“Bác. Con nghe nói bên An Cựu nhà
con, nhà Bác họ tràn vô chiếm ở hết rồi. Mà bác ơi, nghe nói Việt cộng
cũng ở đầy xung quanh chỗ ni rồi.”
“Trời ơi là trời!”
Tôi biết má tôi đang lo lắng về
nhà cửa. Bàn thờ ba tôi vừa bày xong những ngày cuối năm còn mới toanh,
nằm lạnh lẽo không nhang không khói. Lòng người vợ hay chồng già dù cách
biệt âm dương vẫn nặng nghĩa tình với hương khói phụng thờ. Thấy má tôi
sụt sùi, Thái ôm vai:
“Bác. Thôi ăn miếng cơm cho chắc
bụng đã bác ơi. Con cũng sốt ruột quá nì bác. Mạ con, em con đang ở dưới
Bao Vinh không biết ra răng.”
Rồi nó tiếp:
“Ðể con coi yên yên con về dưới nớ.”
Má tôi mếu máo:
“Chưa yên mô con ơi. Súng đạn mô có con mắt con nờ. Ðừng bỏ bác nghe con.”
Thái ứa nước mắt:
“Con mô biết chuyện tọa họa như
ri. Con mà có súng con nhứt định chạy ra ngoài đường, tìm lính mình để
cùng đánh nhau với tụi nó.”
Bé kêu nhỏ:
“Thái. Mi đừng nói ẩu. Ở đây… không phải là không có… Bụi tre có lỗ tai nghe, lỡ miệng là khổ…”
“Thôi ăn đi.”
Cũng không ăn được. Ðúng lúc đó
lại ầm ầm tiếng súng. Kính lại rơi vỡ loảng xoảng. Mọi người nằm sát
xuống đất. Thái dúi tôi vào dưới hàng ghế rồi đưa cả cái lưng đỡ cho má
tôi. Nhưng may mắn, chỉ một lần kính vỡ, chưa kịp làm ai bị thương thì
tiếng súng đã hướng về phía khác. Tôi ngạc nhiên khi nhận ra có cả tiếng
súng như từ trong sân, sau dãy hàng rào nhà thờ bắn ra nữa. Vậy là họ
đã tới nơi!
Chúng tôi chịu đựng sự kinh hoàng
như vậy chừng nửa tiếng đồng hồ. Chỉ nửa tiếng thôi sao? Nó dài như cả
thế kỷ, nó làm tất cả mạch máu căng kéo ra, bao lần muốn đứt. Rồi cũng
còn sống!
Chúng tôi đã mở mắt, đã nhìn thấy
nhau. Người đàn ông điên cơn sợ đã làm bớt điên, ngồi co ro. Bà cụ già
dựa vào người chồng già hồng hộc thở. Coi chị đàn bà ôm cái bọc vải kìa.
Chị nép sát vào tôi từ lúc nào vậy? Một mùi hôi thối xông lên làm tôi
muốn nôn ọe. Cái mùi hôi này sao bây giờ tôi mới nhận ra. Cái mùi hôi
thối kinh hoàng quá. Nó là mùi thịt rữa, mùi chuột chết, mùi mồ hôi… mùi
mắm thúi? Không phải, hình như tất cả các thứ mùi đó hỗn hợp lại! Không
phải chỉ riêng tôi, mà má tôi, mà Thái, mà mọi người cũng vừa nhận ra
cái mùi nồng nặc đó rồi. Thái chồm người muốn kéo cái bọc. Người đàn bà
né tránh đưa cái bọc sang bên. Có lẽ vì mạnh tay quá, cái bọc tung ra,
trong cái bọc thò ra một bàn chân trẻ con nhỏ xíu, nứt nẻ, bầy nhầy. Một
dây nước vàng sền sệt rơi xuống sàn thành một vũng nhỏ. Mùi thối xông
lên nồng nặc hơn, khủng khiếp hơn. Tôi hoa cả mắt, choáng váng muốn xỉu.
Bỗng nhiên tôi la lớn một tiếng. Tôi cũng không hiểu vì sao tôi la.
Người đàn bà cũng la lên một
tiếng lớn hơn, ngay sau tiếng la của tôi. Tiếng la của bà ta giống tiếng
kêu của một con thú bị giết. Tiếng gầm rú của con thú tuyệt vọng cùng
với tiếng súng nổi lên bên ngoài làm tôi tỉnh người. Mặc tiếng súng. Mọi
người đổ dồn về người đàn bà, về mùi hôi thối, về cái xác chết trẻ con
đã quá lâu. Một người đàn ông tiến tới trước mặt bà ta:
“Ðưa đây.”
Con thú đã hết sức hết hơi, đã thôi không vật vã mà yếu xìu:
“Ðừng. Ðừng mấy ông ơi. Con tui. Nó còn sống, còn thở. Con tui mà… Con ơi… ngủ đi con, ngủ đi con…”
Người đàn bà cố đưa đưa cái bọc, nhưng nhấc tay không lên. Tiếng hát cũng đứt quãng vì tiếng thở gấp gáp. Bà ra đã đói quá.
“Ðưa đây.”
Một người đàn ông đưa tay, chưa
kịp đụng tới thì cái bọc tụt mép vải. Một vật rơi lăn theo tấm vải bung,
mép vải vẫn còn giữ chặt trong tay chị. Xác một hài nhi rơi xuống nền
nhà. Ðứa bé đã chết từ lâu, không còn hình hài nguyên vẹn mà chỉ là một
đống thịt đang rữa nát, rịn nước mủ.
Những người xung quanh kêu rú
lên. Thu lùi lại ôm lấy mặt. Má tôi quay đi. Nhưng chị đàn bà thì khác,
như vừa sắp ngã vật xuống vì đói, vì hết hơi sức, chị bỗng nhào tới xác
đứa bé. Chị dùng cả tấm thân chị chồm lên thân hình đứa trẻ. Ðôi mắt lạc
thần bỗng như rực ánh, chị như chồm hổm như sẵn sàng vồ, cắn xé nếu ai
đụng đến đứa con đã chết của chị.
“Lấy đứa nhỏ đi. Thúi quá.”
Người ta kéo chị ra. Chị vùng vằng, nhe răng. Nhưng chị có bao sức nữa. Miệng thì thào:
“Ðừng mà. Con tui. Con của tui mà.”
Người đàn bà bị kéo ra một góc và
nằm bẹp dí. Nhưng bà ta đưa cặp mắt nhìn mọi người như van xin, lạy
lục, rồi bà lết tới, lết tới. Bàn tay của bà đã đụng được bàn chân của
xác đứa con. Rồi chị ôm chặt cái chân nhỏ bé nhầy nhụa, hôi hám, chị rên
lên:
“Con đây rồi. Con mô có bỏ mạ.”
Cái miệng chị méo xẹo. Khóc hay
cười? Chị nhìn lên nóc nhà thờ, đôi mắt lại đờ đẫn, thất thần, lạc điệu,
như không nhìn thấy gì nữa hết, mà đã lọt ra ngoài vòm trời bên ngoài.
“Kéo mụ ta ra đi. Trời ơi, coi tề…”
“Con ơi. Mạ ôm con nì. Răng mà con dơ quá rứa. Ðể mẹ chùi cho con…”
Cái miệng của bà đưa tới ngón
chân nhỏ xíu, lở lói. Cái lưỡi chị đàn bà đưa ra, liếm láp ngón chân,
bàn chân. Tôi muốn xỉu. Thái đỡ tôi:
“Chị đừng nhìn nữa. Chị đi ra chỗ khác đi.”
Tôi không cất bước được. Sự thống khổ quá mức của người đàn bà cũng làm tê liệt thần kinh tôi.
“Ði kêu cha. Báo cho cha biết.”
“Kéo con mụ ra. Mấy chuyện ni không cần cha phải lo. Mấy anh em trật tự mô hết rồi?”
Hai người giữ chặt chị đàn bà.
Mấy thanh niên lấy một cái áo cũ bọc kín xác đứa bé. Giọng chị đàn bà
òng ọc như con heo bị cắt tiết.
“Con ơi, con không bỏ mạ mà. Con
ơi, con khóc đi, khóc lớn đi cho mạ dỗ… Khóc đi, khóc đi con ơi! Trả lại
cho tui, trả lại con tui cho tui… trả lại… trả lại…”
Ðứa nhỏ đã được đem đi. Người ta không giữ chị nữa. Vừa được thả ra là chị bò, chị lết, chị khóc, chị kêu. Cha Sở lại tới:
“Ðóng chặt cửa. Không ai được ra ngoài. Ðang đánh nhau dữ lắm.”
Lúc đó cái điệp khúc “trả con tui
lại cho tui, trả lại cho tui, trả lại con tui” mới lùi xa trong đầu
tôi, và tôi như choàng tỉnh vì tiếng súng bao quanh bốn bề. Người đàn bà
lết theo dưới chân cha Sở mà không ai để ý. Khi cha ra ngoài, đóng cửa
lại thì chị cũng lết ra ngoài luôn rồi.
Ra đến ngoài như có không khí,
thở được nhiều, cơn đói bị đẩy lui bớt hay sao mà giọng chị gào thét lại
thi đua được với bom đạn. Chị chạy đi đâu? Chị ra sao rồi? Chỉ thoáng
một cái, tiếng của chị hoàn toàn im bặt trong tiếng súng càng lúc càng
hỗn loạn.
Tôi vẫn còn bị chôn chân ở chỗ
đứng đó. Ðứa bé không còn. Người mẹ khốn khổ cũng không còn? Nước mắt
tôi chảy ràn rụa trên mặt tự lúc nào. Tôi lại nghe vang trong đầu điệp
khúc đòi con của người mẹ. Bom đạn nuốt bà mất rồi sao? Nuốt giùm bà đi,
vì bà đã gửi sự sống theo đứa con rồi. Chúc mẹ con sớm gặp nhau.
Người ta quên chị đàn bà ngay sau
đó. Bây giờ không chỉ súng nhỏ nổ rền mà cả súng lớn cũng tới tấp nữa.
Ðại bác. Bom chơm. B 40. Aka. Mọi tiếng súng dữ dằn nhất dùng để hủy
diệt con người đang dồn tới thành phố Huế nhỏ bé, hiền lành, đang đổ xô
vào khu nhà thờ mọi người dùng cầu nguyện. Choang. Choang. Mấy miếng
kính màu trên vòm nóc nhà thờ còn sót lại, vỡ tan, rơi xuống làm một
trận mưa kính bên trong.
“Ở đây nguy quá rồi, bà con ơi!”
Ai đó la thất thanh. Cảnh hỗn
loạn tìm nơi trốn núp. Tiếng xô đẩy, tiếng chửi rủa nhau. Có nhiều người
chui xuống dưới lớp người khác đang nằm đè nhau để núp trốn. Có người
kéo một người khác dưới ghế nguyện để lấy chỗ cho mình. Nhưng đâu cũng
không yên nữa. Cả khu nhà thờ rung rinh, trêm vòm rực lửa, cả gạch,
ngói, bụi khói như một tấm lưới dày chụp xuống.
“Chạy. Chạy bà con ơi.”
“Mạ ơi, con bị rồi…”
“Anh ơi, con nó…”
“Trời ơi, chồng tui… Bà con ơi, cứu, cứu…”
Tiếng kêu khóc nổi lên bốn phía.
Người ta xô đẩy nhau, níu kéo nhau. Dồn góc này, chui nhủi góc kia. Ầm.
Ầm. Kêu la. Nhắm mắt. Chết thật. Chết giả. Sợ tới chết. Cây thánh giá gỗ
từ trên tường bay xuống. Cây thánh giá đã có máu của chúa, không thấm
thêm máu của ai. Nhưng kính, gạch, đá, bắn tứ tung, gây nhiều thương
tích. Một người đàn ông dựa đầu vào cây thánh giá đã nằm yên dưới nền
nhà, cái đầu bể nát vì gạch đá nghẹo sang một bên. Anh ta mở đôi mắt an
nhiên nhìn mọi người.
Tôi có bị thương ở đâu trên người
không? Má tôi, Thái, các em tôi có đứa nào bị thương không? Trên quần
áo mọi người đầy máu, máu của mình, máu của người. Một tia máu bắn cả
vào mặt tôi, vào mắt tôi làm tôi phải nhắm mắt lại. Tôi bị rơi vào bóng
tối và như thấy tử thần đang giang tay ra, đòi dắt đi.
“Chị bị rồi, Thái ơi!”
“Không phải chị mô. Máu của người ta.”
Thái xé vạt áo sơ mi để lau mặt cho tôi.
“Con ơi. Con mô rồi?”
“Má, má mô? Mô rồi?”
Tôi quờ quạng. Tay tôi đụng cổ má
tôi. Da bà còn mềm, còn ấm. Thái vẫn cố quệt lau tiếp trên mặt tôi. Dù
hai mí mắt rít chịt, tôi cũng cố mở, và bám áo Thái để bước theo.
Không biết hai cánh cửa gỗ dày
chắc chắn có khóa chặt hay không, mà chỉ cần đoàn người vừa ùa tới là đã
bị đẩy tung, rệu rạo. Hình như không cần phải bước, thoáng cái chúng
tôi đã bị đẩy ra tới sân. Nhưng ra tới sân, chúng tôi lại lạc vào giữa
cơn bom đạn. Bầu trời đầy những lằn sáng như sấm sét, bốn phía tiếng rít
của đạn, trên đầu tiếng dội của bom. Nhiều người ngã xuống. Tiếng kêu
khóc như ri.
“Trở lại. Trở lại.”
Xô đẩy, chen chúc, đạp lên nhau
để trở vào bên trong còn vất vả, khó nhọc hơn lúc đẩy cánh cửa gỗ mà ra
ngoài. Chúng tôi cứ bị xô dạt lui xô dạt tới, và nhà thờ ba phía cửa mở
toang hoác, bên trong trống hốc in cả một khoảng trời.
Chúng tôi tìm được một khoảng
tường. Nhưng chưa định hồn, đám người đã ùn tới, lại xô, lại đẩy, uýnh
lộn, giằng kéo. Chúng tôi lại phải chạy, nhắm mắt nhắm mũi mà chạy. Khi
mở mắt ra, chúng tôi lại trở vào được bên trong nhà thờ. Bây giờ cũng
chỉ còn mấy mảnh tường sụp đổ, một nửa mái nhà thờ đã mất tiêu. Thấy
không an toàn, nhiều người lại kéo nhau chạy ra, họ tràn xuống nhà
ngang, nhà bếp, phía sau vườn, bên giếng nước. Ở đâu chỉ cần có một vật
chắn là có người ẩn núp. Không còn ai có thể cứu ai, lo cho ai lúc này
nữa.
“Ở đây là chết. Bác, mình phải chạy.”
“Còn chạy đi mô chừ con ơi!”
Má tôi rên lên rồi òa khóc. Một
tiếng rú. Một người ngã. Một tiếng kêu cha kêu mẹ. Một người nữa bị
thương. Cứ vậy, bên này bên kia, góc này góc nọ. Ầm. Một tiếng nổ ngay
trên đầu chúng tôi. Không biết chúng tôi đã chạy hay bị ném ra ngoài.
Chỉ biết cắm đầu chạy giữa các lằn đạn xé trời, đổ rạp cây cối, xớt ngọt
con người.
Cũng có lúc súng đạn biết mệt,
biết nghỉ ngơi. Tôi ngồi phệt xuống. Ụt ụt ụt. Tôi ngồi lên một con heo
bị thương và con heo đau đớn chửi lại tôi, hất tôi xuống đất. Lúc đó tôi
mới có chút thời gian coi lại mình. Quần áo tôi ướt đẫm máu đỏ. Má tôi,
Thái và mấy đứa em áo quần cũng nhuộm máu đỏ nhiều hơn đất cát. Nhưng
may mắn chưa ai bị vết thương nào đáng kể. Thái bị thêm vài mảnh kiếng
cắt ở cổ, ở cánh tay. Còn tôi, một ngón chân bị bị sướt, dập. Nhưng chút
đau rát đâu có thấm thía gì với cảnh chết chóc đau đớn xung quanh. Tôi
đã mất luôn đôi dép lúc nào không biết. Chẳng ai còn một đôi dép trong
chân, kể cả má tôi. Nhưng Thái vẫn ôm ghì bọc gạo và bình nước. Má tôi
vẫn còn cái bọc quần áo.
“Còn bọc quần áo của chị và của em đâu? Há? Ðâu?”
Tôi đã thả rơi ở đâu. Lúc nào. Nhớ gì nổi. Thây kệ. Không được. Thái chạy trở lại và tìm ra.
Súng đạn nghỉ lấy hơi xong rồi
lại bắt đầu lẻ tẻ lên tiếng. Mọi người bàn nhau, cứ chạy ra phía bờ
sông. Còn nguồn tin Mỹ và lính Cộng hòa đã ở bên kia cầu. Bên kia cầu
mới là hy vọng. Thì cứ đi tới.
Quả là phía bên kia sông có yên
tĩnh hơn. Súng nổ ran nhiều ở phía ruộng. Có nhiều đoàn người di tản đi
ngược đi xuôi, loạn xạ vì họ chẳng biết nơi nào yên ổn, nơi nào không
yên! Biết hỏi han cũng không được tin tức gì, mà người ta cũng không có
thì giờ kể cả cái gật đầu hay lắc đầu nữa.
“Thôi kệ con ơi, phó cái mạng cho trời đất.”
“Dạ. Rứa thì mình cứ theo người ta mà chạy.”
Gia đình chú tôi có nhiều con
cháu. Mấy đứa con nít thật quá tội nghiệp. Chúng nó vừa đói, vừa mệt,
lại còn bị kéo lê đi, mặc kệ chân đụng đá, cây cành giữa đường. Chạy qua
mấy cái lăng cổ, cung An Ðịnh đã thấp thoáng hiện ra giữa một vườn rộng
cây cối rậm rịt. Cung An Ðịnh hiện nay là nơi ở của Bà Từ Cung. Trong
sân cũng đã lố nhố người. Chúng tôi theo vào và cũng vội vàng tìm chỗ
tránh đạn. Bên trong đã khá đông, chúng tôi bị dồn vào phía sau, sát bể
nước lớn. Ở đây, tiếng súng xa hơn. Có vẻ vững tâm, Thái sắp đặt đồ đạc
và chỗ nghỉ ngơi. Vợ Bé lấy mấy miếng cơm vắt đưa cho má tôi và bầy con
nít trước. Lúc này tôi mới để ý không thấy hai ông bà cụ già ngồi sát
cạnh trong nhà thờ đâu. Lúc chạy, họ bám theo áo chúng tôi mà. Thấy tôi
cứ thắc mắc lo cho hai ông bà cụ, má tôi nói:
“Ai có số phần đó con ơi. Phần
mình còn chưa biết tới đây ra răng nữa là… Ăn đi một miếng. Thái, con
cũng ăn luôn. Mấy đứa nữa, ăn luôn. Chớ lỡ ra lại chạy….”
“Con thấy ở đây yên. Lại gần sông, bên kia nghe nói Mỹ lính mình đã tới…”
“Thôi, ăn đi. Hơi đâu mà đoán.”
Má tôi nói vậy mà đúng. Chỉ mươi
phút sau thôi, tiếng súng tiến lại gần và bao vây quanh khu cung An
Ðịnh. Thái đẩy mọi người nằm xuống. Chúng tôi nằm sát vào nhau, như thân
này có thể chắn đạn cho thân kia. Không ai dám ngóc đầu lên, vì một
người mới nhỏm dậy kéo đứa con, ông ta bị ngay một viên đạn xẹt vào, bứt
luôn một lỗ tai. Cũng may nó tránh xuyên qua cái đầu. Chết hụt.
Chúng tôi lại rơi ngay vào trung
tâm của trận đánh rồi. Lần này, cái chết như đã đến nhặt từng người.
Súng lớn, súng nhỏ, từ bốn phía lấy cung An Ðịnh làm điểm nhắm. Ầm. Ầm.
Hai tiếng nổ làm chúng tôi bay dội tứ tung. Cái bể chứa nước vỡ. Nước
tràn ướt cả phòng. Phía trước đã trống rỗng.
“Chạy”.
Nhiều tiếng hô. Nhưng nhiều người
không chạy được, nằm đó. Họ đã chết. Chúng tôi theo Thái từ phòng dưới
chạy lên phòng trên. Nhưng cánh cửa ngăn phòng đã đóng lại. Day. Ðấm.
Ðạp. Cánh cửa cũng tung ra. Tiếng đạn bên ngoài càng dồn dập hơn, làm
cho con người ta thu nhỏ lại và chừng đó người thêm vào cũng đủ chỗ để
trốn nấp.
Không còn đâu an toàn nữa. Lại
ầm, ầm. Căn nhà rung lên, giựt loạn. Ầm. Ầm. Một nửa mái nhà đổ xuống.
Rào rào. Ðá gạch. Tiếng kêu. Tiếng khóc. Thái cố đẩy chúng tôi vào tuốt
phía dưới một bộ trường kỷ. Cát bụi làm chúng tôi không mở mắt ra được.
Nhưng tôi biết má tôi vẫn nắm chặt tay tôi. Giọng má tôi bên tai: “Con
ơi. Con. Con còn đó không con.”
Bầu trời âm u bên ngoài sáng rực.
Từng lằn chớp lóe lên. Mỗi lằn chớp chiếu cho tôi một hình ảnh. Mấy đứa
con tôi. Tôi chắc không trở về để thấy chúng nó nữa. Chồng con tôi đã
mua vé sẵn, ngày mùng hai Tết sẽ về Huế. Ngày mùng Hai qua rồi, bây giờ
là mùng mấy? Tôi còn lòng dạ nào mà tính toán tháng với ngày. Ở Sài gòn
có như ở đây không? Chồng tôi. Các con tôi. Trời đất ơi! Tôi không gặp
được nữa!
Nhưng lúc này là phút tận cùng
rồi. Phút giữa sống và chết là một lằn chỉ nhỏ. Sự sợ hãi cũng đông cứng
rồi. Tôi bình tĩnh lạ lùng. Tôi bịt tai mà vẫn nghe tiếng đạn rít. Lúc
dồn dập phía này. Lúc thưa thớt phía kia. Lúc sao dồn hết vào mặt tiền.
Lúc chạy vòng phía sau. Nhưng tòa nhà đã như cái răng sắp rụng, đong
đưa, lung lay và chờ giờ bứt ra…
“Không xong rồi. Cõng ngài. Cõng ngài mau lên…”
“Chạy… theo”.
Thu la lên. Nhưng Thái dìm đầu Thu xuống.
“Muốn bay luôn cái đầu há.”
“Phò ngài chạy mau. Phía này. Không, phía này…”
“Trời ơi. Ðạp lên đầu tui.”
“Cha mạ ơi, trúng chỗ bị thương của tui. Ui chao, ui chao…”
Tôi hé mắt. Bóng người chạy thấp
thoáng trong bụi mù. Một bà già mặc áo gấm đeo trên lưng một người mà
tôi không nhận ra đàn ông hay đàn bà. Nhưng cái người cõng ngài mạnh
lắm, xô, đẩy, đạp, gạt… và biến mất rất nhanh. Cùng lúc đó, Thái cũng
băng người nhảy vọt ra phía cửa sổ. Em Thái cũng bỏ chúng tôi?
“Cầm cái cơi trầu của ngài…”
“Cái mền… cái mền…”
Vài người lật đật chạy theo. Rồi hết. Một giọng càu nhàu:
“Bà Từ Cung đó. Sướng quá hí. Giờ ni mà còn ngài với nghiếc.”
Không ai hưởng ứng vì tiếng súng
lại vang rền. Không phải một phía mà trở lại bốn phía. Sẽ không còn một
dịp may nào nữa! Các con ơi! Thôi mẹ từ giã, mẹ vĩnh biệt các con!
Tôi không thắc mắc gì về việc em
Thái nhảy ra ngoài cửa sổ nữa. Tôi cũng đã hết hy vọng chạy thoát như
vừa rồi chạy ra khỏi nhà thờ. Sẽ chết ở đây. Trong lúc gần như mê đi,
tôi bỗng có cảm tưởng trên má của mình ấm áp. Nước ấm? Làm gì có. Máu đó
thôi. Một đám lông xù xì áp vào người tôi, chắn phía trước ngực tôi.
Một cái lưỡi chó liếm vào mặt tôi và máu, ở người tôi hay người nó, mà
có mùi ngai ngái, tanh ấm, dễ chịu. Máu từ ngoài áo thấm vô hay từ bên
trong chảy ra. Con chó cứ dụi vào tôi, đẩy sát tôi vào người má tôi. Má
tôi ra sao rồi? Má có ngất đi không?
Chương 3: NHỮNG MẢNH VỤN GÓP NHẶT
Sau một đêm hò hét, phẫn nộ, rực lửa, bóng tối cũng tan dần. Trời vừa hé sáng thì những tiếng súng cũng im bặt.
Mặt trời như đã nổ tan tành từ
bao giờ. Ánh sáng của ngày hắt hiu, buồn thảm. Buổi sáng nay thức dậy
không nghe tiếng gà gáy, không có tiếng chim kêu, không có tiếng chuông
chùa và tiếng chuông nhà thờ, cả tiếng gà vịt cũng không nữa.
Bầu trời như muốn ứa nước. Những
khu vườn bỗng tiêu điều u ám lạ, cỏ đẫm sương mai bị dẫm nát tan tành,
vung vãi những giẻ rách, mảnh đạn và vết máu. Vết máu kéo lê mặt đường,
nối dài từ khu vườn này sang khu vườn khác. Một vài vũng máu còn đọng
trước sân, bên bể cạn, cạnh gốc mai vàng ngập ngừng e ngại vì màu sắc
quá tươi tắn.
Cùng với ánh sáng nhạt nhẽo vừa
ló dạng, trên các nẻo đường, bỗng xuất hiện vô số người, đàn ông có đàn
bà có. Đàn ông mặc quần áo ka ki, quần dài quần ngắn có, đàn bà mặc bà
ba đen, tóc bím nhưng không thả lỏng mà cột lên cao, gọn ghẽ. Họ cầm
súng, mặt mày nặng chình chịch nhìn nhau. Những tốp khác gác ở các đầu
đường, trước nhiều nhà, hoặc nằm ngồi la liệt ở các khu vườn. Có rất
nhiều xác chết và người bị thương ở đầu dốc, hai ba xác nằm sõng soài, ở
giữa đường vài xác nằm sấp. Bên cạnh một tốp gác ở đầu cầu có vài xác
cụt đầu và những tay, những khúc chân vương vãi. Bên vệ đường, một số
người bị thương đang nằm rên la, một số đàn ông đàn bà đang khiêng từng
người vào một khu vườn gần đó. Khu vườn bao bọc một ngôi nhà lớn, nhưng
như không có dấu vết gì của người sống trong đó nữa.
Một thiếu nữ có đôi mắt sắc, đeo súng A.K. đi ra giữa đường, cô ta đưa tay lên miệng nói lớn:
“Các đồng chí, hãy tải thương bớt vào vườn này, còn bao nhiêu xác chết dồn lại một nơi.”
Cô ta lập đi lập lại hai ba lần.
Tiếng cô là tiếng động đầu tiên trong buổi sáng. Giọng nói lớn của cô
như rung vỡ nhiều cánh cửa và tràn vào bên trong những căn nhà đang đóng
kín. Tiếng của cô gái cũng làm những tiếng rên la cất to hơn.
Lớp người bị thương được khiêng
đi rất lâu. Một toán người khác từ dưới dốc đi lên, một toán khác từ
trên dốc núi đi xuống, người thiếu nữ lúc nãy hỏi, giọng vẫn rổn rảng:
“Sao, báo cáo tình hình các nơi, các đồng chí!”
“Hoàn toàn xong hết. Địch câm họng từ lúc bốn giờ sáng.”
“Tôi sẽ phụ trách về những người bị thương. Số đồng chí hy sinh giao cho đồng chí X10.”
“Trên đó khoảng gần 100 đồng chí bị thương.”
“Đem lên phía chùa trên dốc.”
“Phía dưới cầu có khoảng trên năm chục người bị thương, số hy sinh nhiều hơn.”
“Đem vào vườn, sẽ tìm địa điểm di tản sau.”
“Có tin nữa.”
“G?”
“B3 truyền lệnh các đồng chí chia
nhau vào các nhà, đừng để đồng bào bỏ chạy gây phiền phức. Ngay sáng
hôm nay phải vãn hồi trật tự.”
Nhiều tiếng nói: Tuân lệnh. Những
tốp người chia nhau đi. Phút chốc đoàn người thưa hẳn, chỉ còn vài tốp
gác ở ngả đường. Một anh lính trẻ vác khẩu A.K. đưa tay quệt trán, mặc
dù lúc đó trán anh ta không có giọt mồ hôi nào. Đợi cho các đồng chí bạn
đi khuất, anh rẽ vào căn nhà đằng trước mặt. Con ngõ dẫn vào nhà khá
xa. Khu vườn âm u bao kín ngôi nhà ngói cổ kính. Anh lính trẻ ngập ngừng
rồi đưa tay gõ cửa. Nhưng gõ một hồi không thấy gì, anh bỏ đi ra. Quái,
rõ ràng nhà này có người ở mà. Anh lẩm bẩm. Anh đi qua khoảng sân rộng,
đứng lại bên chiếc bể cạn cạnh gốc mai vàng. Nhà nào cũng có cái bể
cạn, hòn non bộ và cây mai vàng y hệt nhau. Anh nhìn kỹ trên mặt đất. Có
nhiều vết máu nối nhau chạy dài ra một góc vườn nơi phía bụi tre. Anh
giơ một cánh tay lên rung nhẹ một cành mai. Anh nhìn vào ngôi nhà một
lúc, rồi anh thở nhẹ bỏ đi ra, lại dựa lưng vào cột trụ đầu cổng hờm
súng đứng gác.
Một lát sau, trong nhà có tiếng
chân nhẹ đi ra cửa. Bên trong căn nhà còn tối mờ. Bóng một người đàn ông
thận trọng dò từng bước một. Anh ta tiến đến nơi cái sập gỗ. Một xác
người đang nằm đắp chiếu ở đó. Anh giở chiếu lên gọi nhỏ:
“Ông nội, ông nội.”
Một người đàn bà nữa đi ra đứng
sau lưng người đàn ông. Người đàn ông đưa tay vuốt mắt ông già đang mở
trừng trừng, rồi nói với người đàn bà:
“Ông đi rồi.”
Người đàn bà bước lùi một bước
rồi òa khóc. Nhưng rồi chợt nhớ ra, bà đưa tay tự bịt kín miệng mình
lại, hai mắt bà ta cũng mở trừng trừng nhìn người đàn ông, vẻ hốt hoảng
mê sảng. Người đàn ông đưa tay lên quệt nước mắt rồi cũng bịt chặt miệng
mình lại. Cả hai đi vào căn phòng nhỏ phía trong. Có tiếng thì thầm
trong bóng tối nhạt mờ, nhiều đầu người nằm ngồi lổm chổm:
“Răng con, ngoài yên chưa?”
“Suỵt. Hỏi dỏ hỏ, không nghe nó vừa gõ cửa đó răng!”
“Con, ôn con ra răng rồi?”
Người đàn ông kéo người đàn bà ngồi xuống:
“Mình ngồi xuống đi, đừng có đứng nữa.”
Người đàn ông cũng ngồi xuống cạnh vợ. Giọng anh ta nghẹn ngào:
“Mạ, ông đi rồi.”
Nhiều tiếng khóc muốn bật ra rồi gượng lại kịp. Tiếng thút thít của người lớn rồi trẻ con tấm tức. Người đàn ông lại đứng dậy:
“Thôi đừng khóc. Họ nghe họ vô chừ. Mạ, mạ đừng có khóc.”
Nhưng nói xong người đàn ông cũng
nấc lên một tiếng nhỏ. Anh ta đi ra ngoài nhà, anh dòm qua khe cửa. Một
tốp đàn ông đàn bà đang đi vào trong sân. Anh ta nhè nhẹ trở đi vô. Căn
nhà hoàn toàn im lặng.
Tiếng gõ cửa nổi lên ban đầu còn thưa, rồi trở nên cấp bách. Có giọng đàn ông người miệt ngoài cất lên:
“Mở cửa, mở cửa, quân giải phóng đến.”
Bên trong căn phòng nhỏ, người
đàn bà cầm chặt lấy tay người đàn ông. Bàn tay của người mẹ bịt chặt
miệng đứa cháu, sợ nó la khóc. Tiếng đập cửa bên ngoài mạnh hơn:
“Mở cửa. Mở cửa không chúng tôi bắn.”
Có tiếng người đàn ông trẻ tuổi:
“Hồi nãy tôi gõ mãi mà không có ai. Chắc họ chạy hết rồi.”
“Vô lý, đêm mà chạy đi đâu. Chưa ai chạy khỏi nhà hết.”
Rồi một giọng khác dõng dạc:
“Tôi đếm từ một tới ba mà không mở cửa là tôi bắn. Có ai trong nhà không? Một…”
Người đàn bà xô người đàn ông ra
cửa, chị lẩy bẩy thế nào mà gây một tiếng động nhỏ. Bên ngoài có tiếng
cười gằn rồi tiếng hô tiếp:
“Hai.”
Người đàn ông đã ra tới cửa, anh giơ hai tay lên khỏi đầu:
“Dạ lạy các ông, lạy các ông tui mở, dạ để tui mở…”
“À, biết ngay mà. Mở cửa.”
Người đàn ông lẩy bẩy một lúc mới
mở được cánh cửa. Toán người ùa vào nhà. Họ có khoảng chừng mười người,
kẻ vác súng trường người xách bị rết. Người đàn ông lớn tuổi nhất, có
đôi mắt thật to nhưng vẻ mặt xanh xao, nhìn một lượt khắp nhà:
“Các đồng chí canh gác cửa ngõ.”
Vài người đi vào các phía cửa sổ. Người đàn ông chủ nhà mặt tái xanh tay chân run cầm cập nói không ra tiếng:
“Lạy các ông chúng tôi là người lương thiện.”
“Hừ, tại sao gọi cửa hoài không mở hả. Mở đường cho ngụy chạy phải không?”
“Lạy các ông, con sợ quá.”
“Không có các ông nào ở đây hết. Chúng tôi là quân giải phóng.”
“Dạ.”
“Có bao nhiêu người trong nhà gọi ra hết đi. Mau.”
Rồi ông quay đi:
“Các đồng chí. Mở cửa sổ ra.”
Ánh sáng lùa vào căn phòng, soi
rõ khuôn mặt của ông già nằm trên sập gụ. Chiếc chiếu đã được mở ra từ
trước, tấm chăn đắp trên người ông loang đầy máu, đã sệt khô. Người đàn
ông lớn tuổi bước tới một bước nhìn vào mặt người chết, rồi la ồ lên một
tiếng:
“Ông chết rồi hả!”
“Dạ.”
“Bị tự bao giờ?”
“Dạ thưa ông… ông giải phóng, dạ bị tự lúc một giờ sáng, máu ra nhiều quá.”
“Các đồng chí cho đem xác ra ngoài vườn giùm đi.”
Mấy người đàn ông định xúm tới. Người đàn bà run lập cập:
“Lạy các ông, dạ lạy các ông giải phóng, dạ để chúng con xin được chôn cất.”
“Để đó.”
Mấy người đang đi đến tấm sập gụ dừng lại. Người đàn ông lừ mắt vào phòng trong:
“Gọi hết cả nhà ra đây. Đi ra hết. Ai còn ở trong chúng tôi bắn.”
Mấy đứa trẻ con ra trước rồi một
người đàn bà đứng tuổi, mấy cô con gái, một chị đàn bà bế đứa con nhỏ.
Mặt người nào người đó tái xanh. Người đàn ông lớn tuổi nạt:
“Đứng cả vào một góc nhà.”
Cả nhà líu ríu đứng về phía sập
gụ, bên cạnh xác chết của ông già. Có tiếng động nhỏ phía trong. Người
đàn ông lớn tuổi lắng tai nghe. Một nữ cán bộ dợm tới một bước, chĩa
súng vào căn phòng nhỏ:
“Ai trong đó xin mời ra.”
Bên trong vẫn im như tờ. Nhưng người đàn ông lớn tuổi đã lừ mắt ra hiệu.
Hai ba người khác bước tới. Cánh
cửa phía bên buồng trong bỗng bật mở sáng. Một bóng người lao ra ngoài.
Một tiếng chóc khô, lạnh, vang lên. Có tiếng kêu ở bên ngoài cửa sổ và
tiếng rú của mấy người đàn bà. Người đàn ông đứng tuổi lại cười gằn:
“Coi lục soát kỹ nhà này.”
“Tuân lệnh.”
Mọi người chia nhau đi lục soát,
người đàn bà già và thiếu phụ bồng con ôm mặt khóc nức nở. Mấy cô gái
mặt tái xanh, cắt không còn hột máu. Người đàn ông ôm chặt một đứa nhỏ
đang đu lên người ông. Đám người lục soát một hồi trở ra, một người
nói:
“Không có gì nữa cả.”
Người đàn ông đứng tuổi hất hàm:
“Ra coi tên đó chết chưa!”
“Dạ, đã xem, chết rồi.”
Nhiều tiếng khóc cùng bật lên một lúc. Mấy cô nữ cán bộ xúm lại, vẻ hung hăng lúc đầu biến mất. Một cô làm thân với thiếu phụ:
“Chị đừng buồn, đừng sợ. Chúng tôi chỉ xử những người có tội, còn những người dân thì chúng tôi có bổn phận phải bảo vệ.”
Thiếu phụ chùi nước mắt:
“Nó là em tui mà. Nó có tội tình chi mô.”
“Tại anh ấy bỏ chạy. Trong hoàn cảnh chúng tôi, chúng tôi phải tự vệ.”
Người đàn ông đứng tuổi nhìn một lượt những khuôn mặt đang run rẩy, tái xanh. Giọng hắn chầm chậm, đều đều:
“Mẹ và chị đừng sợ. Chúng tôi đến đây là để giải phóng cho đồng bào…”
Người thiếu phụ đang khóc bỗng
nín bặt, ngơ ngác. Mấy đứa con gái nép sát vào nhau. Có tiếng chân người
chạy từ ngoài cổng vào. Hai giải phóng quân khác đi vào. Họ có quàng
khăn xanh ở cổ, người đàn ông đứng tuổi hỏi:
“Có chuyện gì vậy?”
Một người nói nho nhỏ vào tai người đàn ông lớn tuổi. Hắn gật gật đầu, quay lại nói với các nữ cán bộ và mấy người giải phóng:
“Các đồng chí ở lại đây. Còn tôi với đồng chí Thu đi lên xóm Chùa.”
Tiếng chân đi ra cổng. Một nữ cán bộ giơ tay:
“Các đồng chí, chúng ta ở lại đây, sửa soạn cơm nước rồi phụ bạn tải thương, tiếp vận.”
“Đồng chí Xuân nói phải. Lát nữa chắc có tiếp vận tới.”
Người nữ cán bộ mang tên Xuân mỉm cười, vỗ vai thiếu phụ thân mật nói:
“Bây giờ để tôi nhờ các đồng chí phụ với ông nhà lo chôn hai xác chết. Thưa chị, đây là…”
Xuân chỉ vào xác chết ông già. Người mẹ vội vã trả lời thay con dâu:
“Dạ thưa cô, đây là ông nội của tụi nó.”
Người nữ cán bộ xua tay:
“Chết, mẹ giải phóng, con xin mẹ đừng gọi con là cô. Con xin được làm con mẹ như các chị các anh ở đây.”
Cô nói xong quay lại đồng bạn:
“Bây giờ nhờ đồng chí Tiến, đồng chí Bình lo chôn giùm hai xác người, cụ và anh đang ở ngoài vườn.”
Rồi đổi khuôn mặt buồn rầu, người nữ cán bộ tên Xuân quay lại phía gia chủ:
“Thật đáng tiếc, trường hợp ngoài ý muốn, xin chia buồn với mẹ và các anh các chị.”
Người đàn ông quay mặt đi giấu
hai giọt lệ đang lăn xuống. Xác chết của ông già và người thanh niên
được bó trong hai chiếc chiếu rồi đem vùi nông ở góc vườn. Một lát sau,
mấy cô nữ cán bộ làm thân với mấy cô gái, các người lính giải phóng thì
chia nhau gác góc vườn và lo đi liên lạc, Xuân nói với người đàn bà
già:
“Thưa mẹ, nhà ta còn gạo không?”
Bà già thật thà:
“Gạo còn hai bao. Tết mà cô. Còn cả bánh tét và mứt nữa cô.”
“Ấy, xin mẹ đừng gọi con bằng cô nữa. Mẹ gọi con là con như gọi các anh các chị đây.”
Cô lại cười, nói tiếp:
“Có lẽ vài ba bữa nữa bộ đội mới
tiếp lương thực tới. Mẹ cho chúng con vay hai tạ gạo. Vài ba hôm lấy
xong thành phố Huế, Bác Hồ vào thăm, con sẽ thưa trường hợp của mẹ. Bây
giờ xin mẹ ký vào cuốn sổ vàng của Bác Hồ.”
Cô quay lại gọi:
“Đồng chí Nữ đâu, đem sổ ra đây.”
Người nữ cán bộ tên Nữ là một cô
gái mập mạp, nhưng nước da vẫn tái xanh, cô ta nhanh nhẩu rút trong áo
ra một cuốn tập, chìa tới bên bà già:
“Thưa mẹ đây, xin mẹ ký.”
Người đàn bà già run run:
“Dạ tui có biết chữ chi mô mà ký.”
Cô gái lại cười, hỏi mấy cô gái Huế đang đứng dồn với nhau một góc.
“Thôi các chị biên tên rồi ký giùm. À mà để tôi biên tên cho cũng được…”
“Dạ thưa mẹ, mẹ tên chi. Dạ xong rồi. Xin chị ký.”
Cô gái nhỏ run run viết một chữ
ký nguệch ngoạc lên trang giấy. Nữ đưa cuốn sổ cho Xuân. Người đàn bà
lặng lẽ chùi nước mắt. Mấy cô gái vẫn đứng dồn một góc, nắm chặt tay
nhau, trong lúc cô nữ cán bộ tên Xuân cười:
“Trưa nay chúng ta ăn mừng chiến thắng.”
Những mảnh mặt trời vỡ vụn đang dần dần tụ lại, vẫn dật dờ lẩn khuất bên trên bầu trời đầy mây mù và gió lạnh.
Những đốm máu cùng sương vương
trên cỏ đã khô để lại những vết tím bầm. Trong những khu vườn nhiều dấu
đất mới. Tất cả những người bị thương đều được khiêng lên một ngôi chùa
và các nữ cứu thương đang trổ tài băng bó. Vẻ vui tươi buổi sáng biến
mất trên khuôn mặt họ; những đồng chí giải phóng đi đi lại lại gác các
đầu đường hoặc chia nhau tràn vào các nhà dân.
Nơi ngã ba, trong một quán nhỏ bỏ
trống, mấy người đàn ông bị thương nhẹ đang ngồi rờ rịt vết thương. Anh
lính trẻ tên Thu đang bồng súng đứng gác ở góc đường. Cạnh đám cỏ anh
ngồi, một vũng máu của ai đã khô, mấy con ruồi xanh bay vật vờ, thỉnh
thoảng vài con chờn vờn trước mũi anh, muốn bám vào mặt anh, anh đưa tay
xua với dáng điệu hết sức lơ đãng.
Một vài nhà, cửa mở toang, người
ta thấy các anh giải phóng, các cô cán bộ đi vào. Thỉnh thoảng có một
vài đứa nhỏ chạy ra sân, tức thì có một người lớn chạy ra bế bổng đứa bé
lên hốt hoảng chạy vào nhà, mất hút. Không khí hoàn toàn yên tĩnh. Vừa
mới đêm qua, tiếng súng xé màn trời, rung đổ nhà cửa, bây giờ tất cả sự
ồn ào đó đã lẩn mất cùng bóng đêm, để lại một mặt trời vỡ với những kinh
hoàng còn bám chặt trên mặt đất đầy máu, trên những cành cây gãy đổ,
trên những ngọn lá xanh rụng đầy vườn.
Tất cả mọi nhà, mọi người đều
ngồi chụm vào một đám. Họ e dè nhìn những anh lính miền Bắc mà họ được
phép gọi là quân giải phóng, đi lui đi tới, nét mặt đôi khi phấn khởi
đôi khi nghiêm nghị bí ẩn. Họ không dám trả lời một câu hỏi nào của đám
người lạ mặt.
Dân trong xóm cũng ngạc nhiên
không ít khi thấy vài người láng giềng mới hôm qua còn chúc tết nhau,
sáng nay đã thấy họ cầm súng trong tay, cũng quấn khăn xanh khăn đỏ nơi
cổ và nhìn họ bằng ánh mắt đe dọa, kiêu ngạo. Những người này công khai
đi thăm hàng xóm. Một ông thợ lò rèn mới tối qua say rượu lè nhè chửi
nhau với mấy cô gánh nước ngoài giếng, nay cũng xách súng đi thăm từng
nhà. Gặp ai anh cũng nở nụ cười thật tươi, huênh hoang nói:
“Đồng bào yên chí đi, bà con yên chí đi. Vài ba hôm nữa cụ Hồ vô, tha hồ mà liên hoan.”
“Bác không biết đó chớ. Tui theo quân giải phóng lâu rồi. Tui nằm vùng mà.”
Mọi người nhìn anh ta với khuôn
mặt xanh lè. Ai cũng sợ, thường ngày anh chỉ là thợ rèn hiền lành, chiều
chiều say rượu hay nói bậy, gây gổ với trẻ con, với các cô ở đi gánh
nước. Nhưng biết đâu anh không chuốc oán mua hờn với nhiều người trong
xóm. Mấy đứa con trai con của một bà bán thịt heo ở chợ cũng nô nức xách
súng theo giải phóng.
Một ông già ăn mày thường ngày
ngồi trước mấy quán nước, hôm nay mặt mày cũng rạng rỡ hẳn, ông ta đi
khắp các nhà tuyên truyền ầm ĩ:
“Quân giải phóng tới rồi nghe, rồi đây mình sướng lắm. Tui nói thiệt chớ ai làm cái chi ở đây mà tui không biết.”
Câu nói như một lời đe dọa, người ta đưa mắt nhìn nhau, vẻ lo lắng buồn rầu không thể nào che dấu được nữa.
Đến khoảng trưa thì quân giải
phóng đến thúc mọi người ra hết ở ngoài sân. Họ kêu gọi những thanh niên
đi tải đạn, những thanh nữ đi tải thương. Mười lăm tuổi trở lên là phải
đi hết, chỉ các bà mẹ mà họ gọi là mẹ giải phóng, các sản phụ, các bà
mang thai mà họ gọi là chị giải phóng, thì ở nhà giúp đỡ các anh giải
phóng cơm nước. Một số người bị thương chịu không nổi đau đớn đã trút
hơi thở. Nhưng quân giải phóng không đem chôn trong vườn nữa, họ chở đi
theo với đoàn bị thương lên miệt trên. Đó là những con đường dẫn lên Tây
Thiên, lên dòng Thiên An, lên các lăng tẩm. Giữa trưa, những ngôi nhà
buồn tẻ im lặng cũng có hơi khói, dấu hiệu của buổi cơm.
Nhiều tiếng khóc bật lên thảm
thiết. Trong nhiều ngôi nhà cũng có nhiều người dân chết vì vết thương
không đủ thuốc thang băng bó. Người lính trẻ tuổi đang gác ở ngã ba lắng
tai nghe rồi châm một điếu thuốc hút. Mấy người trong quán hỏi vọng
ra:
“Ai khóc ở đâu vậy?”
“Trong mấy nhà kia kìa.”
“Chắc có người chết!”
“Dân mà, quân mình chở đi hết rồi.”
Anh ta lại nhìn vào một ngôi nhà nằm khuất trong một vườn cây, hỏi:
“Biết đây là gì không?”
“Nhà thờ cụ Phan đó.”
“Một vị anh hùng, một người cách mạng hả?”
“Ừ.”
Người trong quán hỏi tiếp:
“Lấy xong mấy đồn chưa?”
“Chưa có tin gì hết.”
Người lính trẻ lại im lặng. Tiếng
khóc trong nhiều căn nhà nổi lên, anh ta châm một điếu thuốc nữa rồi
cau mày. Anh ngập ngừng rồi mạnh dạn đi vào một nhà gần nhất.
Đó là một ngôi nhà tranh nằm ngay
mặt đường gần ngã ba nơi anh lính đứng gác. Anh ghé cửa nhìn vào, bên
trong ngôi nhà, giữa bộ ván gỗ, một xác chết nằm ngửa, cả một gia đình
bu quanh kêu khóc. Một bà già, một người đàn bà bế đứa con và hai đứa
trẻ đang xúm quanh xác chết: Con ơi là con ơi, anh ơi là anh ơi. Ba ơi
là ba, ba ơi. Tiếng người mẹ, người vợ, tiếng những đứa con thơ làm não
ruột người nghe. Anh lính Bắc Việt tần ngần đưa tay đập nhẹ cửa.
Cánh cửa không đóng, anh chỉ mới
đưa tay gõ đã tự động đẩy ra. Luôn đà anh đi thẳng vào nhà. Hai người
đàn bà hốt hoảng nhìn ra, mấy đứa trẻ con nín khóc. Anh đi tới gần nhìn
xác chết, không phải một mà là hai xác chết. Phía trong xác của người
đàn ông còn xác một đứa trẻ khoảng lên ba, mặt mày tím bầm và còn dính
đầy máu. Người đàn bà già chen tới trước mặt anh như che chở cho mấy xác
chết, đôi mắt bà nhìn người lính giải phóng với vẻ van nài cầu khẩn:
“Ông ơi, chết hết rồi, không còn ai nữa mà bắt đi.”
Bà chỉ vào người đàn bà đang bế đứa nhỏ:
“Con nó một nách ba đứa con dại, ông tha cho mẹ con tui…”
Người đàn bà già nói xong bật
khóc, cô con dâu và mấy đứa nhỏ lại khóc theo. Người lính nhìn quanh
gian nhà, đồ đạc thật nghèo nàn, ở giữa nhà kê bộ ngựa gõ, bên chái trên
là bộ bàn ghế, đằng sau bộ bàn ghế là một bàn thờ nhỏ, phía bên trái kê
chiếc giường tre. Trên bàn thờ còn nguyên mấy đòn bánh tét, mấy đĩa mứt
bánh. Trên chiếc bàn gỗ phủ mảnh vải ny lông hoa hòe còn chiếc bình
bông cắm một cành mai vàng. Mấy cái tách, mấy cái ly úp trên một cái
khay bằng nhôm. Anh dịu giọng hỏi bà già:
“Nhà này của mẹ?”
“Dạ, còn đây là con cháu tui.”
Bà chỉ cả người chết lẫn người
sống. Người lính Bắc Việt mở cái khăn quàng cổ của mình đắp lên mặt
người đàn ông, rồi rút khăn mùi xoa lau bớt máu dính đặc trên mặt đứa
bé. Anh kéo cái chăn đắp kín mặt mày thằng nhỏ. Vừa lúc đó có tiếng động
dưới bếp, tiếng đập cửa rồi một khuôn mặt đàn bà đầu rối bù ló lên:
“Bà Bổng ơi, có chút dầu mô cho tui một chút. Có chút thuốc đỏ cho tui một chút. Nó sắp chết rồi bà Bổng ơi.”
Người đàn bà lật đật đi lên nhà, thấy hai xác chết nằm sõng sượt trên ván gỗ, bà ta lùi lại:
“Ối trời ơi, mần răng ri nì. Mần răng ri nì trời.”
Bà đưa mắt nhìn khắp mặt mọi
người, đến khi chạm phải anh lính giải phóng. Bà đưa tay lên miệng,
khuôn mặt đã tái xanh bây giờ xám ngoét.
Bà già xô vai chị đàn bà:
“Chị Trùm đi về đi. Đừng có chạy qua chạy lại nữa.”
Người đàn bà tên Trùm run lẩy bẩy:
“Bà Bổng làm ơn làm phước cho tui xin chút thuốc rịt vết thương cho con Bê, máu ra nhiều quá, nó xỉu rồi.”
“Con Bê há? Nó bị thương?”
“Nó bị thương hồi gần sáng. Trời
đất quỷ thần ôi, khổ cho gia đình tui, hồi trước tới chừ ăn ở có răng mô
mà trời bắt tan tành như ri rứa trời.”
Rồi nhìn hai xác chết, bà gượng lại:
“Trời đất hỡi, còn thằng Tanh với thằng cu em răng mà ra thân thể ri nì trời!”
Nghe tiếng than của người hàng xóm, người vợ bật khóc nấc lên, bà già bế lấy đứa cháu trên tay con dâu, cũng mếu máo:
“Thôi con ơi, đi ra mà nấu chén cơm, đặt bát nhang lên cho tụi nó, răng mà khổ ri trời, nhang tàn khói lạnh…”
“Ai bắn ai giết nó đó?”
“Biết mô mà lần, chị Trùm ơi, chỉ biết là con mình, cháu mình chết.”
Chị Trùm nhìn người lính giải
phóng và chợt nhớ là mình vừa nói một câu hớ có thể nguy hiểm, chị nín
thinh. Nhưng người lính vẫn lơ đãng nhìn về phía bàn thờ. Những chân
nhang đã tàn, hai ngọn nến cháy gần lụi được thổi tắt từ lúc nào. Một
lát, thấy người đàn bà lật đật đi xuống bếp, anh nói theo:
“Có ai bị thương đem qua bên chùa, quân cứu thương băng bó cho.”
“Có, tui đã đem qua rồi, họ nói thuốc chưa đủ cho quân giải phóng.”
Chị đàn bà đã khuất sau bếp.
Tiếng chân đi vòng ra phía hẻm… Người lính giải phóng nhìn xác chết một
lần nữa rồi nói với bà già:
“Thôi mẹ, mẹ đừng khóc nữa, phải có người hy sinh cho chúng ta chiến thắng.”
Người đàn bà già không hiểu. Người vợ đưa tay quệt nước mắt:
“Trời ơi là trời, mạ con tui biết sống với ai ri nì trời.”
Có tiếng súng nổ, chỉ một tiếng
một rồi nín hẳn. Anh lính giải phóng chạy ra ngã ba nhìn ngơ ngác. Một
anh lính giải phóng đang gác trước một cửa nhà cách chừng mười thước giơ
tay chỉ vào một bụi cây bên đường. Người lính trẻ nhìn theo một thanh
niên đang cố bò ra mặt đường, anh ta đã trúng đạn, máu lết từng vệt dài
trên mặt đất. Người lính trẻ chạy lại. Bàn tay người thanh niên đưa ra
muốn được nâng đỡ nhưng anh cũng không còn đủ sức nữa, cánh tay rơi bịch
xuống đất, miệng anh mấp máy một hai câu gì đó rồi anh nằm lật ngửa,
bất động. Người lính giải phóng đứng sững lại. Tiếng người bạn đằng xa
hỏi:
“Chết rồi hả?”
Người lính trẻ gật đầu. Anh ta
đưa tay lên cổ như muốn sờ vào chiếc khăn, anh ta đụng vào cổ áo và cầm
chặt lại. Phía đằng sau lưng có hai chị nữ cán bộ đi tới, thấy anh đang
đứng như trời trồng, họ cười phá ra:
“Đồng chí Thu làm gì đứng đó. Chỗ
anh đứng gác đằng ngã ba kia mà. Thôi ráng gác đi, có lẽ tối nay bộ đội
mình rút lên phía núi.”
Một cô nhìn xác chết:
“Sao vậy? Ai bắn đó? Đồng chí hả?”
“Không.”
Người bạn đứng đằng kia la lớn:
“Nó muốn chạy trốn, thấy nó lui cui sau bụi cây, tôi nổ súng đó.”
Một cô nhìn xác chết, cười khinh bỉ:
“Thứ này béo tốt dữ, ăn bơ sữa của Mỹ đây mà.”
Người lính trẻ đưa hai bàn tay của anh ra nhìn, anh đi trở lại chỗ gác của mình. Trong một căn nhà khác lại có tiếng kêu khóc:
“Cứu tôi với, bớ làng nước ơi, con tui, con tui…”
Chắc lại có một người nữa vừa mới chết. Mấy cái đầu thò ra:
“Đằng nhà đó có chuyện gì vậy?”
“Người chết.”
“Mấy người?’
Anh đưa hai ngón tay làm dấu, rồi chợt nhớ ra, anh lật đật đưa thêm một ngón nữa. Trong quán có tiếng nói lớn:
“Vào đây ăn bánh chưng. Bánh chưng Huế đây. Đồng chí nào ra thay dùm đồng chí Thu.”
Anh lính trẻ lắc đầu nói:
“Thôi khỏi.”
Có tiếng chân chạy, phía xác chết đang nằm tênh hênh bên đường có hai ba người chạy tới, toàn đàn bà và con nít:
“Con ôi là con ôi, đi ra mần chi cho họ bắn chết con ôi.” Giọng người mẹ kêu la thảm thiết. Anh lính giải phóng đi tới hỏi:
“Con bà?”
“Dạ, con tui.”
“Tại sao không ở nhà mà đi ra đường làm gì giờ này?”
“Con em gái nó bị thương, nó đi kiếm đọt lá chuối về rịt.”
“Thế à!”
Người lính đi về chỗ. Mấy người
đàn bà, mấy đứa con nít xúm lại ôm xác người thanh niên đi khuất vào một
ngõ nhỏ. Người bạn đứng gác đằng kia bước lại gần phía anh lính tên
Thu:
“Đồng chí cần phải đề cao cảnh giác. Cấp trên ra lệnh không được lân la nói chuyện bừa bãi, tụi nó đều là tay sai Mỹ ngụy hết.”
Cả hai người đều trở lại vị trí
cũ. Phía dưới cầu, một đoàn người đi lên, họ đang tải thương. Mấy cô gái
Huế còn nhỏ mặt mũi xanh lè đằng sau là mấy anh giải phóng và mấy cô nữ
cán bộ. Họ đi thật nhanh, mặt lầm lỳ. Các cô gái Huế hiện rõ vẻ sợ hãi
và mệt đừ, những người nằm trên băng ca máu me đầy mình. Anh lính trẻ đi
ra phía đường nhìn từng khuôn mặt người bị thương đi qua. Đến người
cuối cùng anh ta níu cáng lại:
“Mịch.”
Người thanh niên ở trên băng ca bằng vải trắng mở đôi mắt lờ đờ nhìn mặt người gọi. Người lính tên Thu cúi xuống:
“Mày bị rồi.”
Người bị thương nhếch môi đau đớn:
“Chắc tao không sống nổi. Thu có về Bắc được nhớ cho thầy me tao biết.”
Anh ra dấu cho bạn tháo cái giây bạc đeo ở cổ, thều thào:
“Nhớ đưa cho đẻ tôi. Thu.”
Thu vội buông tay bạn. Cô nữ cán
bộ trong đội cứu thương đã lên tiếng gọi hai cô gái Huế ỳ ạch khiêng
chiếc băng ca lật đật đi lên. Người bị thương cố nhướng mắt nhìn bạn và
cố đưa bàn tay lên vẫy mà không còn đủ sức nữa.
Anh lính tên Thu sững sờ nhìn bạn
bị khiêng đi xa dần. Tay anh còn cầm chặt sợi dây bằng bạc. Mịch. Anh
gọi lớn. Nhưng chiếc băng ca đã khiêng đi xa, còn lại một tay, anh đưa
tay dụi mắt mình mà như là vuốt mắt cho bạn. Phía dưới cầu lại một tốp
khác đi lên, họ cũng tải thương. Anh vẫn cầm chặt sợi dây bạc trong tay,
sững sờ nhìn từng chiếc băng ca khiêng qua mặt mình. Nhưng anh không
nhìn từng người bị thương nữa.
Ngang qua mũi súng của anh, mấy
cô gái Huế càng bước mau, như sợ vô tình một viên đạn có thể bay ra ghim
vào người mình. Anh ta để cho mũi súng chúc xuống đất. Trong một cánh
cửa sổ từ một ngôi nhà phía ngã ba, nằm trong một khu đất rộng và trong
cây cối, anh ta bắt gặp một đôi mắt thập thò nhìn. Anh không dám nhìn
lại, sợ đôi mắt đó sẽ biến đi. Đó là đôi mắt của một cô gái nhỏ khoảng
mười lăm mười sáu tuổi. Phía sau lưng cô gái có một bàn tay chộp lấy vai
áo:
“Đừng có nhìn mà.”
Một người đàn bà khoảng ba mươi tuổi kéo tuột cô gái vào, giọng thì thầm:
“Đừng có ngó. Tụi nó vừa bắn chết một người gần ngã ba a tề.”
Cô gái rụt đầu… le lưỡi:
“Chị, có một tên Việt cộng đẹp trai ghê đi chị. Nó gác ở ngã ba đó tề.”
Người đàn bà lôi tuột cô em nhỏ vào trong mắng:
“Nói tào lao. Đi vô.”
Cô gái nhỏ đi vào. Người đàn bà bế xốc đứa bé gái đang đứng ở cửa buồng, nói vọng vào trong:
“Mệ, từ rạng sáng tới chừ chở nhiều xác chết, nhiều người bị thương quá mệ ơi.”
Tiếng người đàn bà già run run:
“Nhỏ nhỏ cái miệng, vô trong ni mà nói.”
Cả nhà xúm vào buồng. Thiếu phụ nói nhỏ vào tai bà già:
“Chắc họ sắp rút lên trên tê hết rồi.”
“Tao cũng mong rứa.”
“Hồi hôm họ chết nhiều rứa thê mệ.”
“Chắc sáng quân đội mình đã lên rồi, chắc họ chuẩn bị rút lui rồi đó hỉ?”
“Chắc rứa.”
“Răng ôn mi chưa thấy lên?”
“Kẹt dưới đó rồi.”
Cô gái lại bỏ đi ra ngoài. Bên trong người đàn bà nói giọng thiệt nhỏ:
“Đừng cho thằng Hợi nó xuống. Chút nữa mệ lấy cơm vắt lên cho nó ăn không nó xỉu.”
“Khi hồi có mấy tên đi vô nhà, cứ ngó lên trần, tao sợ bắt chết.”
Bên ngoài, nơi cô gái nhỏ nhìn
ra, anh lính Bắc Việt còn đang đứng nhìn theo mấy cô nữ cán bộ tập xe
đạp, đẩy xe Honda. Các cô bím tóc, quần xắn đến quá đầu gối.
Cô gái nhỏ nhìn hai cô đẩy theo một cô ngồi trên xe tuy có hai người giữ hai bên mà chiếc ghi đông vẫn quẹo qua quẹo lại.
Mấy cô cười đùa thiệt vui nhưng
anh lính trẻ không cười. Mặt anh lầm lầm lì lì nhìn xuống con dốc đang
có mấy người đàn bà chạy ra đường kêu cứu:
“Cứu con tui với, bớ làng nước ơi. Cứu chồng tui cứu cha tui.”
Mấy cô nữ cán bộ lướt qua mặt anh, cười cười nói nói:
“Trong này nhiều xe quá, thắng lợi rồi mình có xe đi.”
Một cô nói lớn:
“Đồng chí Thu tích cực quá hỉ!”
Cô ta nhại giọng Huế rất khó
nghe. Anh lính trẻ cau mày. Anh liếc vô trong căn nhà trước mặt. Cô gái
nhỏ vội thụt đầu vào. Không hiểu bực tức hay buồn bã chuyện gì, anh ta
đưa súng lên nhắm thân cây trước mặt như muốn bắn. Không có tiếng đạn
nổ. Mấy cô nữ cán bộ cười xòa, thoáng cái họ đã xuống tới lưng chừng
dốc.
Một con chó mình mẩy dính máu khô
từ trong một bụi cây lết ra, anh lính giải phóng lượm một hòn đá ném
mạnh. Còn chó còn đủ sức để chạy bằng ba chân, nhưng chỉ được một quãng,
nó bò lết rồi nằm bẹp một chỗ. Anh lính đi tới gần đưa súng lên đầu con
vật nhắm bắn, nhưng cũng không tiếng nổ, con chó le lưỡi, miệng đầy
nước dãi, mắt ngước nhìn người đứng trước mặt, ánh mắt con vật làm người
lính vội quay đi, rồi trở về chỗ cũ. Mấy cô nữ cán bộ đã vòng trở lên,
ngang qua mặt anh, mấy cô vẫn ỳ ạch đẩy và người nữ cán bộ ngồi trên xe
trán đã lấm tấm mồ hôi nhưng khuôn mặt lại hết sức tươi tắn.
Chưa bao giờ thành phố Huế sống
trong một không khí đầy chết chóc, hoang mang như thế. Tất cả những xác
chết cũng như những cán binh bị thương đều đã được đưa lên ngả núi.
Nhưng trong mỗi xóm, cứ vài giờ là có một vài người bị thương không được
đầy đủ thuốc men ngã ra chết. Từ sáng tới chiều, tiếng khóc bật lên từ
nhà này tới nhà nọ. Tiếng khóc như một bệnh dịch truyền nhiễm rất nhanh.
Bên cạnh những sự chết chóc đau buồn, còn phải nhắc tới cái bệnh dịch
hân hoan của các anh giải phóng. Buổi sáng họ còn e dè với người dân,
nhưng tới trưa tới chiều, một nội lệnh được truyền tai rất nhanh, họ
thay đổi thái độ thành những chiến sĩ rất nhũn nhặn thương dân sống hòa
hợp với dân dễ dàng. Những bao gạo từ trong các ngôi nhà cùng với bánh
tét bánh chưng, mứt bánh đầy ứ trong mấy ngày tết được mang ra sân chất
lên những chuyến xe vận tải để chở lên miệt trên, mà theo các anh giải
phóng thì họ mượn tạm cho quân đội giải phóng. Vài hôm nữa, khi ổn định
xong thành phố, gạo sẽ rẻ vô cùng, không có cắt cổ như Mỹ ngụy mà bán
một bao tới mấy nghìn đồng. Họ cũng hô hào nhà ai có “cờ ba que” (cờ ba
que là cờ VN màu vàng có ba sọc đỏ) thì phải đem ra đốt đi để thay bằng
lá cờ giải phóng, cờ bác Hồ. Những ai còn gạo, còn bánh thì phải đem ra
trình với quân giải phóng, họ làm những cuốn sổ ghi tài sản của dân để
vài hôm nữa, khi cụ Hồ vào sẽ đền ơn xứng đáng. Họ cũng kêu gọi những
thanh niên đừng lẩn trốn mà phải ra trình diện để nhận lãnh sự khoan
hồng. Mấy nhà hòm nên hy sinh giúp đồng bào hoạn nạn lo chôn cất những
người dân bị chết, nhưng tất cả những khu vực đều không được đi. Trong
mỗi vườn nhà đều chôn mộ người thân. Họ cũng đề cao cảnh giác, dân chúng
không được ra đường, không được tụ họp trừ khi được giấy của quân giải
phóng mời đi học tập. Suốt ngày những cô cán bộ lân la vào nhà này nhà
nọ hỏi thăm tình cảnh của dân, làm thân với các bà, các cô, các anh các
chị. Những bà già mới nhìn họ như nhìn những vị hung thần, bây giờ họ
phong lên làm mẹ giải phóng, các thiếu phụ được làm chị giải phóng.
Những người lớn tuổi đều tiếp đón họ bằng ánh mắt nghi ngờ, đề phòng
nhưng trẻ con thì có vẻ khoái lắm. Chỉ mới từ sáng tới chiều, chúng đã
tụ xung quanh các cô nữ cán bộ, các anh bộ đội. Chúng vui thích theo dõi
các cuộc tập xe đạp của các cô nữ cán bộ hoặc chúng bu quanh các anh
giải phóng. Nhà nào cũng có quân giải phóng tới thăm hỏi, họ nấu cơm hay
ăn uống ngay trong nhà. Các cô gái khỏe mạnh được mượn đi nấu cơm cho
bộ đội. Những thanh niên, những cậu trai mười bốn mười lăm được mượn đi
tải súng đạn, hoặc được phát súng, được chia toán để giúp các anh bộ đội
sắp tổ chức những buổi học tập. Mới ngày đầu, nhiều thanh niên đàn ông
trốn chui nhủi trong xó buồng, trên trần nhà. Nhưng tới ngày thứ hai,
nhiều người nghe các anh giải phóng kêu gọi đã ra trình diện: Ai ở nhà
đó, chúng tôi không bao giờ dám động tới một người dân, chúng tôi là bạn
dân mà. Đó là câu nói thuộc lòng của mấy anh giải phóng. Mặc dù các khu
vực đều cấm liên lạc với nhau, mấy nhà chung quanh chỉ được hỏi han dăm
ba điều mà có nhiều tin đồn lắm. Chẳng hạn như buổi trưa ngày thứ hai,
nhiều người được tin là chiếc xe sang trọng nhất của cố vấn Mỹ ở Huế bị
trưng dụng, một cấp chỉ huy của Việt cộng đã lái đi khắp thành phố. Một
tin khác lại nói rằng nhiều xe nhà binh do các anh giải phóng lái chở
đầy nhóc bánh chưng bánh tét và gạo chạy qua các ngả đường. Các anh lính
giải phóng vui vẻ hơn, họ hỏi han dân, và khi có người đàn bà nào nhắc
tới những tin đồn thì họ cười tin tưởng:
“Quân giải phóng đã chiếm được Huế, bây giờ cố giữ để vãn hồi trật tự, chờ cho các tỉnh đánh xong là hòa bình.”
Nhiều người ngơ ngác vì sự phát
giác trên. Họ nghe ra dô nhưng nhà nào có ra dô đều bị các anh giải
phóng trưng dụng hết. Họ tịch thu và nói rằng, trong lúc này, đồng bào
chỉ nên nghe lời của quân giải phóng, có thể Mỹ ngụy tung những tin sai
lầm làm dân chúng hoang mang. Nhiều người dấu được ra dô nhưng không dám
mở ra nghe nữa. Những nhà có người thân chết đã tìm ra được vải để chít
khăn tang, một vài nhà có mùi hương khói bay ra trước con mắt nhìn hết
sức dửng dưng của các cán bộ giải phóng. Họ ăn uống thả cửa. Ngày tết
gia đình nào cũng dự trữ đủ thức ăn. Nhưng qua ngày thứ hai thứ ba hết
thịt, một vài nhà lén làm thịt heo thịt gà, quân giải phóng len lỏi tìm
kiếm được mua lại của dân bằng một giá rẻ mạt. Rồi họ tổ chức tập họp
vào ngày thứ ba. Buổi sáng cho thanh nữ, buổi chiều cho thanh niên. Đồng
thời họ rút quân tập trung vào một vài nơi, tạm rời nhà dân chúng,
nhưng lúc nào các cán bộ cũng len lỏi từng nhà lấy cớ là đi thăm hỏi.
Buổi học đầu tiên được tổ chức
trong một ngôi chùa rộng, hoặc các trường học. Người ta không khỏi ngạc
nhiên khi thấy xóm này xuất hiện một người đại diện cho dân, rồi xóm
khác một người đại diện. Những người này mới hôm qua là anh đạp xích lô
hay ông già say rượu sống lây lất đầu xóm. Dân chúng cũng không khỏi
ngạc nhiên khi thấy tiếng cười vang ở một vài người mới mấy hôm trước có
vẻ lù đù nhất, bây giờ trở thành những nhân vật hết sức kích động, họ
đi lối xóm hô hào, tuyên truyền cho quân giải phóng.
Ngay chiều thứ hai, mồng ba tết,
có một vài vùng đã được chứng kiến cảnh xử tội. Một vài nhân vật trong
xóm bị bắt kết tội là theo quân Mỹ ngụy. Họ bị đưa vào một trường học,
các thanh niên nam nữ được nhóm lại. Những bộ mặt quen thuộc nằm vùng là
người đủ thẩm quyền kể ra nhiều tội trạng của bị cáo nhất. Những bản án
được kết thúc vội vàng. Nhiều kẻ bị dẫn đi, rồi ngay buổi chiều hôm đó
nhiều tin đồn có người đã bị xử tử. Mọi người chưa tỉnh hồn bởi một đêm
mồng một súng nổ ghê hồn, một buổi sáng mở mắt dậy thấy đầy máu me xác
chết, thì đã bắt đầu lo sợ vì những cuộc tìm bắt xử án của quân giải
phóng. Mặc dù ngoài mặt họ tỏ ra rất tử tế với dân chúng, nhưng đồng
thời những vụ bắt bớ, xử tội đã bắt đầu; trường học, nơi của trẻ thơ,
chùa chiền nhà thờ, nơi của đạo giáo, bỗng trở thành nơi hội họp, nơi
tòa án nhân dân thành lập.
Thỉnh thoảng có vài tiếng súng lẻ
tẻ hoặc một tràng. Mọi người như những con chim bị thương vội vàng nằm
xuống đất, kẻ chui tọt dưới gầm bàn, gầm phản. Trẻ con cũng đã quen với
không khí căng thẳng sợ hãi, đã nhìn thấy máu me chết chóc, hễ cứ nghe
thấy tiếng súng là không cần đợi ai nhắc nhủ, cứ chạy tìm ôm chặt người
lớn, hoặc sát mặt xuống nền đất. Nhưng tiếng súng chỉ lẻ tẻ rồi im lặng
kéo dài, không có gì thêm ngoài tiếng cười nói của các anh giải phóng ở
ngoài đường ngoài tiệm.
Đêm đến, trong bầu không khí im
lặng đến ngộp thở, người ta nghe tiếng cú rúc. Tiếng cú rúc đầy khắp
thành phố. Người ta hồ nghi, giữa bom đạn, giữa không khí sặc mùi tử khí
hôi hám, lũ cú dám mò về làm náo loạn cả thành phố đang tê liệt. Tiếng
cú hay tiếng người làm mật hiệu rú trong đêm? Người ta nín thở và chờ
đợi, không biết chờ đợi cái gì sẽ đến, nhưng linh tính sẽ còn nhiều điều
xui xẻo, tang thương. Những người chồng bỗng nhìn vợ trìu mến hơn,
những bà mẹ ôm con thơ như sợ chúng sắp biến mất. Cỏ cây, nhà cửa,
người, súc vật bỗng như cảm thấy một sự gần gụi khó tả.
Người ta không thể biết thêm gì
ngoài những tin tức do các nữ cán bộ, những anh giải phóng tuyên truyền.
Trong những buổi họp, nhiều cụ già lên tường trình về những tin tức.
Những cô gái đi họp về kể lại rằng một ông già bán cháo lòng được bầu
lên làm chủ tịch buổi học tập, mở đầu buổi họp, ông thường lên nói về
tình hình chiến cuộc trong nước. Đã dốt chữ lại không quen nói, ông
thường gọi trật tên các đài phát thanh và dùng sai danh từ nhưng chả ai
dám sửa đổi hoặc cười. Ông bàn về tin tức chiến sự và luôn luôn mở đầu
bằng câu: Theo đài a, bê, xê thì quân giải phóng đã chiếm được Sài Gòn
và các thành phố, các tỉnh khác. Quân giải phóng hoàn toàn làm chủ tình
thế. Buổi họp nào ông cũng nhai đi nhai lại câu đó. Các cậu sinh viên
bấm nhau. Các thiếu nữ nhìn nhau ngẩn ngơ. Bình thường chả mấy khi được
nghe một câu chọc cười đã như thế, nhưng lúc này chả ai còn dám cười
được nữa. Những buổi họp gần như bị bắt buộc nhưng họ vẫn rỉ tai nhau,
làm thế nào để những thanh niên, đàn ông tránh mặt bớt, đừng để cho các
anh cán bộ nhìn thấy.
Đến chiều ngày thứ hai thì không
khí hân hoan của các đồng chí giải phóng bớt sôi nổi. Sau khi một ông
thợ may bị tình nghi là liên lạc viên của Mỹ ngụy bị giết, xác vất ở một
ngã ba, sau khi hai thanh niên trong một cái hầm nhỏ bị bắn vì mang tội
trốn tránh quân giải phóng, các nữ cán bộ đã rút hẳn vào những địa điểm
được chỉ định sẵn, không lui tới thăm viếng thường trực các nhà dân
nữa. Cho đến hôm đó tiếng súng lẻ tẻ bắt đầu nổ ở các miệt xa, về hữu
ngạn.
Các anh giải phóng nói với nhau
là xe tăng của Mỹ có lên thám thính miệt quốc lộ, có thể xảy ra ác
chiến. Nhưng nguồn tin đó không chắc chắn gì, ở một vài vùng đã có các
anh giải phóng đi rao:
“Các thanh niên, đàn ông lo chuẩn bị mười lăm ngày gạo để đi dự một lớp học về đường lối của quân giải phóng.”
Họ đào hầm, hố cá nhân, tải vũ
khí. Không khí căng thẳng hẳn lên. Ngoài đường, trong vườn, ở các đầu
hẻm vang tiếng xẻng cuốc của các anh giải phóng đào hầm.
Thanh niên, đàn ông bắt đầu tìm
chỗ trốn. Từ các cánh cửa sổ hé mở, những khuôn mặt già trẻ ló ra nhìn
những anh giải phóng đào hầm, mày mặt lầm lì, không ai dám hỏi thăm vui
vẻ như mấy giờ qua nữa.
Đến đêm thứ ba thì cả thành phố
bỗng bật dậy vì hỏa châu, vì đại bác. Các anh bộ đội, các cô nữ cán bộ
không còn thấy ở đâu nữa, họ như bóng ma lẩn vào đêm tối. Người ta chỉ
nghe thấy tiếng kêu khóc quen thuộc của đêm mồng một tái hiện. Chưa ai
kịp đào hầm để tránh bom, đêm hôm đó các miệt Từ Đàm, Thành Nội, Gia
Hội, Kim Long là những miệt ăn chịu đại bác nặng nề nhất.
Buổi sáng hôm sau, người ta vội
vã đào hầm. Hầm đào ngay trong sân, trong vườn, hoặc đào ngay trong nhà.
Các anh giải phóng chỉ còn gác lẻ tẻ ở các góc đường. Dân chúng tràn ra
đường, hỏi thăm nhà này nhà nọ. Có vài gia đình lục đục đi tản cư,
nhưng các anh giải phóng đứng gác các ngả đường ra hiệu không cho ai
được đi hết. Người ta đào hầm vội vàng, tất cả các cửa sổ, cổng sắt đều
được dỡ xuống để làm hầm. Có nhà không đủ vật liệu, họ ra trại mộc, hoặc
chặt tre.
Vài trại mộc chỉ thoáng cái là
không còn một tấm ván. Hết ván, người ta bê cả hòm, nắp hòm về để chống
đỡ nắp hầm bằng đất. Có nhà đào được hầm rồi cả nhà xuống núp thấy chật
chội quá lại phá ra làm lại. Đến trưa thì đại bác lại câu lên, đang ăn
cơm có kẻ bỏ cả cơm nước chui xuống hầm. Các anh giải phóng chui xuống
hố cá nhân. Họ không ở trong nhà dân nữa, nhưng khi có tiếng súng, họ ở
đâu không biết, tràn vào các vườn, các đường, đen kín các hố cá nhân.
Khi tiếng súng tạm dừng, cảnh đào
hầm lại tái diễn. Vài đám cãi nhau chửi nhau vì tranh nhau ván ở trại
mộc hoặc đất cát. Cuộc pháo kích bất thình lình làm một số dân chúng và
một số quân giải phóng chết hay bị thương. Họ lại vào từng nhà bắt thanh
niên thanh nữ đi tải lên miệt núi. Người ta nhốn nháo đồn đại với nhau
là họ đặt bộ chỉ huy trên đó. Về phía bên tả ngạn, bộ chỉ huy đặt ở
phường Gia Hội. Ở vùng này hoạt động hăng hơn, mặc dù đại bác câu lên
đều, họ vẫn tổ chức những buổi họp, học tập. Trong thành nội, quân giải
phóng hoàn toàn chiếm hết. Có những cán bộ nằm vùng, những thanh niên
mất tích từ lâu, bỗng thấy xuất hiện. Họ đeo băng, họ cầm đầu, họ đi
lùng từng nhà hỏi tội. Vài cuộc rượt bắt, vài người bị bắn gục ngã giữa
đường, xác người để đó không ai dám đem đi chôn, có xác đã bắt đầu có
mùi, máu khô đọng, sặc mùi tanh và ruồi nhặng bu đầy, trông hết sức kinh
khủng.
Bắt đầu những ngày Huế mở cửa địa ngục.
Chương 4: QUA MỘT CHUYẾN ĐÒ
Tôi góp nhặt được nhiều mảnh
chuyện vụn vặt, mỗi người kể mỗi khác nhau về mấy ngày đầu tiên quân
giải phóng đến Huế. Góp một ít khi ở nhà thờ, một ít khi vừa mới tới
cung An Ðịnh. Tưởng đến cung An Ðịnh thì đoạn đường gian nan đã bớt một
nửa, vì khi vừa đặt chân tới đó, tôi đã nghe nhiều người kháo nhau:
“Có máy bay của quân đội mình rồi. Họ kêu gọi dân chúng cố di chuyển về hữu ngạn.”
“Hữu ngạn là đây nì.”
“Nghe nói bên mình cho máy bay lên thám thính bị chúng bắn lên như mưa, máy bay phải bay cao tít.”
“Mà thiệt chị có nghe trên máy bay người ta kêu rứa không?”
“Nghe chớ. Bà con không thấy đó
răng, người ta chạy rần rần về phía hữu ngạn hết nì. Các vùng khác kẹt
lắm. Phía trên Phủ Cam, Bến Ngự, Từ Ðàm, không ai về được hết.”
“Qua cầu Tràng Tiền được không?”
“Mô được, họ đóng đầy ở nhà dây thép mà.”
Mỗi người mỗi chuyện, tôi lơ mơ
biết được tình hình chung của thành phố. Tôi nói với má tôi, chú tôi là
mình ở phía hữu ngạn chắc yên rồi. Nhưng khi tìm được chỗ ngồi, chưa kịp
dỡ vắt cơm mang từ nhà qua, thì súng lại nổ, chúng tôi lọt vào giữa
trận chiến. Trong lúc tôi nằm xuống chân bàn, đầy hơi người hơi chó và
chờ chết. Tôi nghĩ là chắc chắn chết, căn nhà lầu sẽ bị sập, sẽ chôn vùi
chúng tôi trong đám gạch vụn, thì bỗng tiếng súng im rơ một vài phút.
Sống rồi. Một tiếng nào kêu lớn trong đầu tôi, dội ngược ra và mở mắt
nhìn từng người chung quanh. Họ ngồi rột dậy ngơ ngác, bụi cát còn bay
mù mịt, các cửa kính vỡ chưa hết rung. Nhìn lên chiếc sập “ngài ngự”
thấy còn lại cơi trầu bằng đồng chạm rồng phượng và cái chăn nhiều màu.
Ngài đã được cõng đi rồi. Không biết có sống thoát được không! Chưa kịp
nói với ai một lời nào thì một tiếng B40 lao vút trên mái ngói. Ầm, một
mảng mái nhà sập, bụi bay mù, mọi người rụt đầu, thu mình nhỏ lại. Cánh
cửa sổ chỉ còn dính vài mảnh kính, sắt nhọn bỗng như bị va mạnh, rồi một
bóng người nhảy vụt vào. Vài tiếng la bật lên, vài tiếng ú ớ không ra
lời. Họ tràn vào rồi. Vài người úp mặt vào hai bàn tay. Tôi mở nhìn
sững, không phải lính quốc gia hay quân giải phóng mà là Thái. Mình nó
đầy máu. Nó nhớn nhác nhìn tìm rồi lôi má tôi, lay chú tôi và cả nhà
dậy:
“Chạy, chạy bác, chạy chị.”
Tôi kéo nó nằm xuống, hét:
“Em, làm người ta hết hồn. Chạy đi mô, chết hết bây chừ đó.”
Thái dựng thẳng tôi ngồi dậy. Lúc
này tôi mới thấy bên hông mình ướt sũng. Máu, máu còn tươi rói chảy dọc
xuống dưới chân. Tôi bị thương rồi. Bị thương sao chẳng thấy đau đớn gì
hết. Tôi quay vụt lại:
“Má.”
Má tôi mở mắt nhìn tôi lờ đờ. Tôi bật khóc chồm tới kéo má tôi:
“Má, má bị rồi.”
Má tôi lắc đầu. Thái bỗng lôi tuột tôi chúi vào người nó:
“Dang ra, dang ra.”
Tôi nép hẳn vào vai cậu em. Lúc
này tôi mới định thần nhìn kỹ con chó to lớn mới đây chui rúc bên hông
tôi đã bị thương nặng. Có lẽ nó chết rồi cũng nên. Tôi không thấy nó
nhúc nhích cục cựa gì nữa, nhưng nơi vết thương máu vẫn còn rỉ rả chảy.
Thái nói nhỏ vào tai tôi:
“Chị nói bác chạy gấp đi, họ đang siết vòng vây ở ngoài. Không lừa lúc này chạy là chết.”
Không lừa lúc này chạy là chết.
Tiếng chết như một sợi dây bắn ngược tôi tới cửa sổ, rồi nhanh như cắt,
tôi lao đầu ra ngoài, mặc cửa sổ cao thấp thế nào chưa biết. Tôi rơi tọt
ra ngoài cùng lúc cánh cửa chính mở, Thái và Bé thấy tôi chạy cũng hốt
hoảng chạy theo. Chúng không kịp nhảy qua cửa sổ mà húc vào cánh cửa
lớn. Vài miếng kính còn dính lại tiếp tục rơi loảng xoảng. Chú tôi, má
tôi, vợ Bé, Thu và mấy đứa nhỏ cũng hốt hoảng chạy ra theo. Tôi nhìn
quanh. Tuyệt nhiên không có một bóng người nào. Nhưng rõ ràng họ đang
gờm nhau, đang bắn nhau. Lúc ở trong cung An Ðịnh, tôi nghe như tiếng
súng bắn đi từ phía cửa, hay chính từ bên trong bắn ra nữa. Vậy mà tôi
không nhìn thấy ai hết. Thấy tôi ngơ ngác, Thái lại kéo tay tôi chạy.
Hình như nhiều người khác cũng vừa theo chúng tôi chạy ra nữa.
Bờ sông chắn trước mặt. Chúng tôi đã bỏ xa cung An Ðịnh một khoảng dài.
Tiếng súng đằng sau lại nổi lên,
dữ dội, ác liệt hơn. Nhưng tiếng súng kéo dần tới phía trước đồng, bên
phía nhà thờ. Chúng tôi xa dần nơi nguy hiểm. Một đoàn người từ phía cầu
chạy xuống. Thái hỏi:
“Qua cầu được không?”
Mấy cái đầu cùng lúc lắc một lượt. Tôi kêu lớn:
“Ðừng chạy tới phía đó, họ đang đánh nhau.”
Nhưng đoàn người như không nghe,
họ vẫn cắm đầu chạy. Mấy đứa trẻ con vấp ngã, khóc ré lên rồi lại lồm
cồm ngồi dậy chạy tiếp. Vợ Bé lúc này mới kêu lên:
“Bỏ hết đồ lại ở trên nớ rồi.”
Bé la lên:
“Bỏ hết, chết chưa lo, lo ba cái đồ…”
Vợ Bé mếu máo:
“Còn mấy vắt cơm không mang đi, chút nữa cũng chết đói.”
Lúc này tôi chạy lúp xúp sau Thái. Tôi bỗng hoảng kinh khi thấy máu ở cổ nó đang chảy giòng xuống vai. Tôi kéo tay nó:
“Thái, em bị thương rồi.”
Nó vừa chạy vừa thở:
“Cả cái mái ngói đổ xuống đầu em. Như ri là nhẹ, không răng mô chị.”
Một bến sông nữa hiện ra, Thái reo lên:
“Có đò, có đò, mình qua sông được rồi.”
Khúc sông ở đây sao yên lành quá,
cây sung bên bến sông vẫn xanh um, mặt nước vẫn lặng lờ và mấy hòn đá
đặt trên bến vẫn sạch sẽ, nhẵn bóng. Tôi bàng hoàng như nhìn thấy một
cảnh nào ở trong cơn mộng hoặc mắt mình đã hoa lên rồi. Chúng tôi vừa
dừng lại bến thì đằng sau cũng có vài người khác chạy đến. Thái hỏi:
“Chạy ở mô tới?”
“Ở bên nhà thờ.”
“Ở cung An Ðịnh.”
“Thấy chi không?”
“Chắc sập hết rồi, bắn dữ lắm.”
Thu chạy xuống bến. Mấy con đò như bỏ hoang không người ở. Chúng tôi gọi mãi mới có một chị đàn bà ló ra.
“Cái chi rứa?”
“Cho chúng tui qua sông với bà ơi.”
Người đàn bà lắc đầu:
“Không được mô. Ðang đánh nhau dưới nớ, ra giữa sông lỡ đạn trúng mần răng.”
“Chị ở đây cũng trúng rứa.”
“Thà tui chết một mình. Tui còn một mình mà.”
Giọng chị lạnh như đồng. Thái năn nỉ:
Chị làm phước cho tụi tui qua bên nớ. Bên nớ có nhà quen không tụi tui chết hết ở đây.”
“Ðông rứa răng mà chở nổi.”
Má tôi nói khó:
“Chị làm phước cho mấy chuyến. Thời buổi giặc giã ở có đức để lại cho con cái.”
“Tui một mình chớ có ai mà đong phúc. Tui chưa đi mà ở đây chờ coi ông dôn tui có nổi lên ở khúc sông ni không.”
Chúng tôi đã đoán ra lờ mờ câu
chuyện. Chắc chồng chị ta vừa mới chết, và chị ta đang dở điên dở khùng.
Chúng tôi lại nói khó. Chị đàn bà bằng lòng chở mấy chuyến. Qua khỏi
khúc sông ngắn có mấy thước, Thái đưa tiền và buộc chị đàn bà phải lấy.
Chị cầm tiền và trở mũi qua đưa những người khác đang đợi bên kia bến.
Tiếng súng ở bên phía cung An
Ðịnh, bên phía đồng có vẻ êm hơn. Khi chúng tôi lên đường cái thì không
còn sức để nghe ngóng nữa. Khu này yên tĩnh quá. Chưa một nhà nào bị hư
hại gì hết. Bé nói:
“Mình tìm nhà quen ở để rồi mai mình về nhà. Chắc khu mình gần quốc lộ họ rút hết rồi.”
Thái cãi:
“Rút chi nổi. Ðừng có lầm mà chết.”
“Xe Mỹ ở quốc lộ chạy lên đồn An Cựu mà mi còn cãi nữa…”
“Xe Mỹ lên là nghe tiếng súng rồi, không thấy hay răng.”
Chúng tôi tiếp tục chạy. Tôi hỏi
Bé đây là miệt nào. Bỏ Huế lâu quá, tôi quên gần hết đường sá. Bé nói
đây là đường lên Tân Lăng, lên chút là có chùa.
Nghe đến chùa, má tôi mừng rỡ:
“Mình vô chùa xin ở nhờ. Chắc họ không dám phá chùa mô.”
Thái nói:
“Nhà thờ còn bắn sập huống gì chùa họ nể. Mà cứ thử coi.”
Tôi mệt lả không đi được nữa. Lúc
này tôi mới thấy chân nhức buốt. Tôi đã bỏ mất dép, chân tôi lại bị một
mảnh kính cắt, máu còn rỉ rả chảy. Tôi ngồi bệt xuống đất:
“Con không đi được nữa.”
Má tôi dỗ dành:
“Ráng chút nghe con, ráng đi chút con. Gần tới rồi.”
Nhưng má tôi cũng mệt quá. Lúc
này nhìn lại má tôi, tôi thấy bà vẫn còn xách cái xách áo quần nơi tay.
Sự sợ hãi đã làm má tôi quên cái xách tay nặng nề. Thái vẫn ôm chiếc cặp
da của tôi. Má tôi vừa nói vừa ngồi xuống bên cạnh tôi. Thu cũng ngồi
theo, mấy đứa nhỏ cũng ngồi bệt xuống đất. Có mấy nhà mở cửa hé nhìn
chúng tôi rồi vội đóng cửa lại. Tôi không hy vọng gì họ giúp chúng tôi
lúc này. Thái và Bé quay lại, thấy chúng tôi ngồi bệt cả xuống đất và
chú tôi nửa muốn ngồi nửa muốn đi thì giơ tay cản:
“Thôi, để tụi con tới chùa coi răng.”
Nhưng đi được một quãng, chúng
quay lại. Lúc này chúng mới để ý đến những đoàn người chạy loạn, đoàn
này đi tới trước, đoàn kia chạy ngược lại. Hỏi họ thì ra phía nào cũng
có đánh nhau hết. Vợ Bé đang ngồi bỗng đứng rột dậy:
“Quên rồi, ở xóm ni mình có chị U, mình vô tạm rồi sai con Thu về nhà coi ra răng.”
Tôi cũng mong có chỗ ngồi nghỉ,
uống một ngụm nước. Từ sáng đến giờ tôi chưa có miếng cơm, chưa uống
được một giọt nước. Bé hăng hái dẫn đầu. Chúng tôi đi vào một xóm nhỏ
toàn nhà tranh. Bé gõ cửa mãi mới thấy người ra mở cửa: Chị U.
Bé kêu mừng rỡ:
“Tưởng chị đi tản cư rồi chớ. Không can chi há?”
“Can chi. Ở đây mấy bữa ni có chi mô. Không ai đi hết.”
“Không có mọt chê câu tới hả?”
“Không, xóm trong bị rồi. Mà ngoài ni đào hầm hết rồi. Can chi mà sợ.”
Rồi chợt nhận thấy một đoàn người đông đúc đứng đàng sau lưng Bé, người đàn bà hỏi:
“Bà con hết há?”
“Dạ bác em nì chị. Chị em. Bác, đây là bà chị vợ của con.”
“Vô, vô nhà hết đi, đừng đứng đây lộn xộn họ dòm ngó.”
Cả đoàn kéo vô nhà. Nhà nhỏ, chật
hẹp. Thái lót cái chăn dưới nền đất để nằm đỡ. Má tôi, vợ Bé mới sanh
và mấy đứa nhỏ được chủ nhà nhường cho cái giường nhỏ, nằm sát vào nhau,
chỉ trở mình nhẹ là có thể rớt xuống đất. Tôi, Thu và Thái phải nằm
dưới đất. Trời bắt đầu mưa phùn, lạnh căm da. Vừa sợ, vừa lạnh lại thêm
cái đói dày vò, tôi run lập cập. Người chủ nhà lấy cho tôi một bát cơm
nguội ăn với xì dầu. Tôi ăn như chưa có bữa cao lương mỹ vị nào ngon
lành đến thế. Ăn xong thì trời đã chiều. Thái hỏi dò người đàn bà xem ở
đây có quân giải phóng không. Người đàn bà cười tươi tỉnh:
“Không răng mô. Họ về hoài, họ đi ngoài đường kệ họ. Họ tử tế lắm mà.”
“Họ có soát nhà không?”
“Mấy bữa đầu thôi. Mấy hôm đầu họ
nhờ mấy con nhỏ đi tải đạn, tải thương. Bữa ni hết rồi. Họ cũng là
người chớ chi mà sợ. Họ tử tế lắm mà.”
“Bà có nói chuyện với họ không?”
“Nói hoài. Có răng mô.”
Người đàn bà ở với một bà già
chồng gần bảy mươi tuổi và một đứa con trai út mười bảy tuổi. Người
chồng bỏ đi thời kháng chiến cũ không thấy tin tức. Khi biết ra điều đó,
tôi không còn lấy làm lạ về cảm tình của bà ta đối với mấy anh giải
phóng nữa.
Buổi tối, chúng tôi không dám ngủ
trên nhà mà xuống ngủ dưới hầm đào ở trước sân. Chú tôi, Thái và Bé vào
ngủ ở nhà thờ của một dòng họ lớn trong xóm. Nhà thờ xây kiểu xưa, đá
lớn chắc chắn lắm. Tôi, và những người đàn bà khác cùng trẻ con xuống
hết dưới hầm. Chiếc hầm nhỏ quá mà phải chứa tới hơn mười mạng người,
chúng tôi không còn chỗ đặt lưng.
Khoảng gần mười giờ là đại bác từ
Phú Bài bắt đầu câu vào thành phố. Hỏa châu soi sáng rực cả bầu trời.
Tiếng máy bay gần rồi xa. Không khí báo hiệu một cuộc đụng độ lớn. Cả
thành phố như đều chìm trong điềm gở sắp bị tàn diệt. Tôi ôm chặt lấy má
tôi, dựa đầu vào vai bà mà ngủ. Má tôi không ngớt lời cầu nguyện: Cầu
cho con tôi tai qua nạn khỏi. Cho con tôi sống.
Tôi biết má tôi đang lo cho tôi
nhiều nhất. Chồng con tôi ở Sài Gòn chắc đang bấn ruột bấn gan vì tôi.
Nhưng tại sao tôi tin được chồng tôi còn rỗi rãi để lo cho tôi. Tin tức
đồn đãi cả Sài Gòn và các tỉnh đã mất. Vậy chồng con tôi đã lưu lạc tới
nơi nào rồi.
Tôi muốn nói: má ơi, con sợ quá. Nhưng tôi phải tỏ ra can đảm hơn để má tôi yên lòng đôi chút. Tôi nói:
“Ðánh nhau lớn chắc sắp yên rồi.”
Tiếng nói của tôi thật nhỏ nhưng trong hầm kín mọi người đều nghe hết. Một cô gái mập ú đang ngồi sát bên tôi lên tiếng:
“Họ đông lắm chị.”
Tiếng người con trai bà chủ nhà nói theo:
“Con ni nó đi khiêng xác đó chị, chết bất loạn.”
Tôi hỏi:
“Khiêng đi mô.”
“Khiêng lên tận trên núi. Họ chết nhiều lắm đếm không hết.”
“Chị khiêng như vậy mà không sợ à?”
“Sợ bắt chết. Vừa khiêng vừa run.
Trời lại lạnh nữa, hai đầu gối mình như muốn sụm luôn. Gớm bắt chết.
Xác nào cũng dính đầy máu. Còn người bị thương thì chất lên xe như sắp
cá rứa, người ni chồng lên người nọ, không biết mần răng mà sống cho
được.”
“Toàn là quân giải phóng hết?”
“Chơ răng. Họ chớ ai vô đó nữa.”
“Khiêng xong họ cho về?”
“Họ còn bắt đi khiêng đạn chớ, mà
tui trốn. Túi ni chắc trong họ cũng về bắt đi nữa. Tui trốn ra đây ngủ
nhờ. Trong đó có mọt chê câu tới rồi đó.”
Tôi không hỏi nữa, nhưng cô gái có đà, cứ nói tiếp:
“Nơi vườn cạnh nhà tui họ chôn người dễ sợ quá, lòi mấy cái chân.”
“Nói dóc đi, bà nội.”
Nghe cậu bé con bà chủ nhà nói móc, cô gái nổi sùng:
“Ðồ con trai chui dưới hầm cả
ngày cả đêm biết chi. Ra ngoài mà coi thử. Sau chùa tề, họ chôn lòi tay
lòi chân coi dễ sợ bắt chết. Nì, mi biết thằng Tư hớt tóc không?”
“Biết.”
“Ờ. Hắn bị bắt ra ngoài vườn đào hố chôn xác chết, mà chôn sau vườn hắn mới ghê chớ. Hắn trốn đi được rồi.”
“Tao ghét thằng đó lắm, cho họ bắt luôn.”
“Mày ăn nói đoảng hậu chi rứa. Răng mà ghét người ta?”
Có tiếng người đàn bà tên là chị U
gắt khẽ. Một trái hỏa châu rơi thật gần và lửng lơ hạ xuống. Ánh sáng
soi rõ cả vào miệng hầm. Tôi nhìn ra được mặt cô gái. Má tôi kéo manh
chiếu rách che bớt miệng hầm lại. Ðêm hôm đó chúng tôi ngồi suốt đêm.
Ðại bác bắn ình ình vào các miệt, nhưng may mắn không có quả nào rơi vào
xóm chúng tôi trú ẩn. Tiếng đại bác không ngớt, dội cả mặt đất. Mắt tôi
như tá hỏa theo mỗi tiếng nổ, và cứ thế, cả đêm, trái tim đập liên hồi,
nỗi lo sợ đặc quánh cho tới gần sáng.
Lại thêm một lần được may mắn
nữa. Ðến gần sáng tiếng đại bác thưa dần chỉ còn nổ ỳ ầm ở miệt xa, như
trên núi. Chờ thêm một tiếng đồng hồ nữa chúng tôi mới lên khỏi miệng
hầm. Súc miệng bằng muối hột và rửa mặt bằng nước mưa. Trời vẫn còn mưa
bay và lạnh giá, tôi khoác chiếc áo măng tô của ba tôi để lại trên
người, cùng với Thái đi dần ra ngõ.
Dần dần bạo dạn, hai chị em ra
tới miệt sông. Từ các phía vẫn còn những toán người tản cư lẻ tẻ. Thái
đón lại hỏi, có người cho biết họ ở đồng An Cựu, hoặc ngả chợ An Cựu. Có
người cho biết họ ở bên nhà thờ chạy qua. Cầu An Cựu còn không? Người
trả lời còn, người trả lời bị sập. Không biết tin ở ai nữa. Thái nói với
tôi là mình đã hết sức may mắn, đêm qua bên nhà thờ, Việt cộng đã tràn
vào bắt hết đàn ông, công chức mang đi. Nó kể lại mà mặt nó tái xanh cắt
không ra giọt máu.
Phía đường rầy vẫn có người đi.
Thái chỉ cho tôi thấy những đoàn người xuôi ngược phía trên đường rầy,
ẩn hiện sau những bụi cây thấp.
Khi hai chị em trở vào, Thái chợt
nhìn lên ngọn điện cao. Nơi ngọn điện có tháp cây tre và trên cây tre
một lá cờ hai mầu đỏ và xanh lá mạ bay phất phới. Chiều qua, khi đi
ngang qua đây, khi nhìn lên cột điện này để coi trên trời có máy bay
không, tôi đâu có nhìn thấy gì. Thái đem chuyện đó vào kể cho mọi người
nghe, chả ai lấy làm lạ hết:
“Họ treo hoài. Họ treo cả trong chùa, nơi ngã ba nữa…”
Nhưng đến trưa hôm đó thì cả xóm
nhỏ này không ai còn đủ bình tĩnh nữa. Ðại bác đã câu tới nơi. Tiếng máy
bay như gầm, xé nát bầu trời ảm đạm, xám ngoét. Giữa trưa, chúng tôi
phải chui xuống hầm. Một số khác vào nhà thờ họ. Những tiếng nổ rất gần,
có lúc như dội ngay đầu. Còn nghe tiếng nổ là chưa chết. Thái bấm vào
tay tôi:
“Chị bịt chặt hai tai lại, nằm sát cho đỡ tức ngực.”
Một vài nhà có tiếng kêu khóc như
ri. Nằm trong hầm chật quá, ngột không thở được, Thái chờ ngớt tiếng
đại bác, kéo tôi chạy tọt vào nhà thờ. Từ trưa tới chiều tối hôm đó, đại
bác không ngừng nữa, nhưng độ bắn đã đi xa hơn.
Buổi chiều, chúng tôi ra được
ngoài trời khoảng chừng mười giây rồi lại chui vào hầm. Ðêm, tôi không
vào hầm nữa mà ngủ dưới gầm một cái kệ trong nhà thờ họ. Mấy đêm liền
không ngủ, tôi đã mệt nhoài người. Mặc súng, mặc đạn, mặc sống, mặc
chết, tôi lăn ra ngủ. Nửa đêm, tôi bị đánh thức dậy bởi tiếng máy bay,
tiếng đạn réo, nhưng rồi âm thanh đó cũng chìm đi, cơn buồn ngủ đè nặng
lên tất cả. Cho tới sáng hôm sau, Thái phải dựng cổ tôi dậy:
“Ðêm qua chị biết có chuyện gì không?”
“Chuyện gì?”
“Họ về đầy ở đây. Họ gõ cửa nhưng không thấy động tĩnh chi hết họ đi rồi.”
Má tôi rầu rĩ:
“Ðiệu này chắc chết quá. Con Vân, túi qua ngủ dữ quá không biết chi hết há. Nổ gần lắm, chắc nhà cửa mình tan hết rồi.”
Má tôi lại khóc. Vợ Bé bò ra khỏi bệ thờ, rồi tới lượt chú tôi cũng trở dậy:
“Chắc phải chạy nữa quá. Ở đây nguy rồi.”
Chú tôi nói giọng lo lắng. Má tôi bảo Bé và Thu đi nấu cơm nhưng nhớ ra gạo chỉ còn một ít, má tôi nói:
“Nấu cháo ăn đỡ.”
Chú tôi phàn nàn ở nhà còn nửa tạ
gạo mà con Thu hôm qua về không tới nhà được để lấy đem đi. Con Thu về
gần tới xóm thấy xóm vắng tanh nó lại sợ, bỏ đi trở về.
Nhưng nồi cháo chưa chín thì
chúng tôi lại nghe tiếng máy bay đến, rồi đại bác dưới Phú Bài lại câu
lên. Cả nhà lại vào hầm nhưng lát sau thấy tiếng súng không nhắm vào khu
vực này, tôi và Thái lại bò ra vì ngột ngạt quá. Hai chị em chạy qua
nhà chị U rồi lần ra ngõ. Có tiếng súng nhỏ bắn như mưa ở miệt Phủ Cam.
Chắc chúng bắn máy bay, Thái thì thầm. Ngọn cờ màu máu mạ vẫn phất phới
bay trên ngọn tre tháp vào cột điện. Vẫn còn người chạy loạn ở ngoài
đường, chúng tôi đón lại hỏi nhưng không ai buồn trả lời, họ vừa khóc
vừa chạy. Một đoàn người có võ trang từ phía cầu kéo lên Phủ Cam, Thái
kêu tôi chạy vào một cái quán bỏ hoang. Ðoàn người đi ngang qua đường,
mặt mày lầm lì, họ vác súng, tay đeo băng, áo quần hỗn độn, Thái thì
thầm: Quân Bắc Việt đó. Tôi cố nhìn để phân biệt xem họ có khác gì mà
Thái nhận ra được, tôi chịu nhưng không dám hỏi Thái.
Ðoàn người đi lên một lúc, chúng
tôi định chạy ra khỏi quán để về nhà, nhưng từ phía Phủ Cam, tiếng chân,
tiếng kêu khóc bỗng vang dội. Rồi một đoàn người nữa xuất hiện trước
khi tiếng súng ròn rã nổ như mưa, tiếng máy bay gầm như xé trời và đại
bác không kịp thở. Ðoàn người đến gần dần, Thái sửng sốt:
“Trời ơi, dân, dân chạy loạn.”
Ðoàn người có đến cả trăm người,
dẫn đầu là mấy ông cha, một hai ông sư. Họ cầm cờ trắng, làm bằng đủ thứ
vải tơi tả, lá cờ hàng phục, lá cờ sợ hãi. Họ vừa đi, vừa chạy như
những con lật đật. Phía sau những lá cờ trắng, những người dẫn đầu, dân
chúng bồng bế nhau. Kẻ gánh người gồng chạy lúp xúp.
Thái đứng hẳn ra vệ đường giơ tay đón:
“Thưa cha, trên rứa răng?”
Ông cha lắc đầu, miệng như đang
sùi bọt mép. Một tu sĩ bế một đứa bé bị thương máu chảy nhỏ giọt trên
đường, đưa tay xua xua tỏ dấu bảo chúng tôi chạy theo, đừng đứng nguy
hiểm. Nhưng ông cũng không nói nổi ra thành tiếng nữa. Ðoàn người cứ thế
lần chạy qua mặt chúng tôi, đàn bà bế con, đàn ông gánh gồng, trẻ con
chạy lúp xúp. Họ khiêng cả kẻ bị thương nữa. Một người đàn ông bị thương
ở chân chạy khập khà khập khễnh, thỉnh thoảng té xuống đất rồi gượng
dậy. Có kẻ một cánh tay đang đong đưa chỉ còn dính chút thịt da. Kẻ u
đầu, người bể trán, những giọt máu rỏ đuổi theo mấy miếng vải trắng làm
cờ đi tìm bình yên đang phe phất dẫn đầu. Ðoàn người vừa chạy vừa kêu
khóc vừa cầu kinh, kẻ đọc kinh cầu Chúa, kẻ kêu trời gọi Phật.
Ðoàn người chạy lêu bêu xuống cầu
rồi bỗng chạy ngược trở lại, rồi đang chạy ngược bỗng trở lui, tiếp tục
về phía trước. Tiếng súng từ phía Phủ Cam vẫn như mưa, vài kẻ yếu đuối
chạy cuối cùng cách đoàn người khá xa, họ kêu gào như đang tuyệt vọng
sắp chết đến rồi:
“Cha ơi, chờ con. Cha ơi, cứu chúng con. Chúa ôi, quỷ đuổi chúng con…”
Tôi đỡ một người đàn bà vừa ngã sấp xuống mặt đường:
“Lên đây nghỉ đã chị, ở đây chưa đánh nhau, vô đây.”
Người đàn bà đã bị thương ở đùi, máu ra nhiều lắm, nhưng vẫn gượng dậy lắc đầu:
“Tui chạy theo cha, chồng tui con tui trong đó mà.”
Bà lại chạy. Thái chạy theo:
“Trên nớ còn chi không?”
“Hết cả, hết cả. Ờ, mà còn, còn nhiều người kẹt lại, còn hơn trăm thanh niên đang bị vây không chạy được.”
“Họ bị vây?”
“Họ bắn lại, họ bắn lại… Cha ơi, chờ con với cha ơi.”
Người đàn bà lại chạy, nhưng đoàn người đã bỏ cách xa bà ta quá. Một tiếng nổ lớn. Tôi lóa mắt. Thái ôm chặt lấy tôi:
“Chạy, chạy chị. Cầm tay em nì.”
Thái kéo tay tôi lọt vào xóm. Ðoàn người như tan tác ở đằng xa, rồi qua lớp khói bụi, tôi lại thấy họ chạy tiếp tục.
Khi tôi vào tới nhà thờ họ thì má
tôi đang nằm ở mé cửa chờ. Bà nạt tôi một hồi rồi kéo tôi dúi xuống bệ.
Như ngày xưa, má tưởng con như ngày xưa còn bé. Tôi chui tọt vào bên
trong tìm một chỗ dựa đầu mà không có. Má tôi nằm phía ngoài hỏi vọng
lại:
“Nằm yên, con Vân mô rồi. Ðừng có nằm phía ngoài nghe.”
Má tôi nói vậy mà bà nằm phía ngoài. Con Thu rỉ nhỏ bên tai tôi:
“Nồi cháo cháy rồi.”
Lúc đó tôi không thấy tiếc gì nồi cháo nữa, dù trước đó tôi đã đói cồn cào. Thu lại nói:
“Chị đi đâu làm bác cứ đòi chạy ra tìm, em phải ôm bác lại.”
Tôi muốn khóc quá, tôi đưa tay
cầm chặt gióng tre kê dưới bệ thờ, chỉ có một khoảng cách ngắn, tôi ao
ước cầm bàn tay má tôi mà không được. Trong bóng tối lờ mờ, tôi thấy có
đốm lửa nhỏ lóe lên. Chắc Thái đã tìm đâu được điếu thuốc. Nó nói với
tôi:
“Hỏi bác hút thuốc không.”
Tôi hỏi tìm ở đâu đó thì nó nói:
“Cả bao đầy lận. Em lượm được khi đoàn người đi qua rồi. Chắc ai rớt.”
Tôi nghĩ tới những giọt máu rơi vãi ở dọc đường, những giọt máu đó đang kéo dài đến đâu rồi. Bất giác tôi rùng mình. Thu hỏi:
“Chị lạnh hả?”
Tôi lắc đầu, nhưng chắc Thu chả
trông thấy gì đâu. Thái đưa cho tôi một điếu thuốc và nói với tôi đưa
cho bác hút đỡ lạnh. Ðiếu thuốc chưa kịp đưa đi đã rơi khỏi tay tôi lúc
nào. Sợ gây tiếng động, tôi không dám đưa tay sờ soạng nữa. Từ lúc đó
tới trưa, chúng tôi không còn dám mở mắt nhìn thấy ánh sáng bên ngoài
nữa. Ðại bác câu vào như không còn tính khoảng cách. Trên đầu tôi, xung
quanh tôi, tiếng nổ dội như vỡ tung lồng ngực, như bể đôi cái đầu. Má
tôi hô mọi người nằm rạp xuống đất. Nằm rạp xuống đất hết rồi cũng chưa
được, ôm chặt lấy nhau để có chết cùng chết một đống. Nhưng không, tôi
không thể chết một đống được, tôi phải sống để còn trở về với con tôi và
dù Sàigon còn hay mất, các con tôi cũng phải sống để chờ tôi về nữa.
Ðừng có chết. Cho tôi sống.
Tiếng nổ như bưng tôi vất trong
lửa đỏ. Một tiếng, hai tiếng, tiếng nữa. Lạy trời lạy Phật, chưa trúng.
Thêm tiếng nữa, quả tim cứ nhảy loạn xạ, cứ muốn tung ra. Ầm, tôi nghe
có tiếng nổ lớn mà. Vậy ai kêu chết tôi rồi vậy? Ai khóc như ri ngoài
kia vậy? Ầm nữa. Cả mái nhà như sập xuống đầu tôi rồi. Ngực tôi bể rồi,
máu tôi đang trổ vòi chảy. Tôi lăn qua lăn lại. Không, tôi chưa bị, tôi
còn sống mà. Tiếng khóc bật lên:
“Vân, Vân mô rồi con.”
“Chị, chị mô rồi chị.”
Cánh tay Thái rồi cánh tay má tôi
nữa. Cát bụi trên mái nhà vẫn tiếp tục rơi xuống. Tôi không mở được một
tiếng nào. Lần này chắc chết quá rồi, đại bác vẫn không chừa khoảng
cách. Người tôi sau tiếng nổ đã không còn sức để run. Thôi, cả nhà chúng
tôi, cả mọi người trong ngôi nhà thờ họ này nằm chờ chết.
Nhưng rồi phút kinh hãi đó lại
qua. Tiếng súng đã ngưng và rải rác đưa lên các phía xa. Tiếng súng vừa
ngưng là có tiếng la khóc. Tôi vụt chạy ra ngoài, má tôi níu lại:
“Con ơi, đừng, đừng đi.”
Nhưng Thái cũng ra đến sân rồi, cực chẳng đã, tôi thập thò ở cửa.
Bên ngoài cây cối xác xơ, gạch
ngói rơi tứ tung ở sân. Trước mặt khu nhà thờ họ, một mảnh đạn xoáy một
hố đất lớn. Mấy cửa kính vỡ toang, tấm bình phong che phía trước bị vạt
một góc. Vừa lúc đó Thái chạy vào mặt mày tái mét:
“May quá chị ơi, nhà thờ chỉ bị một mảnh bom phía sau góc, nơi cây đu đủ. Cây đu đủ gãy rụi rồi.”
Thái đưa tay chỉ lên mép tường
phía sau, ở đó tường đã lở những mảng lớn và ngói trụi hết, lộ một
khoảng trời màu xám chì. Sự sống thật tuyệt vời, nếu mảnh bom rơi chếch
vào một tí nữa chắc chúng tôi đã xong. Thái kể cho chúng tôi nghe, ở
đàng sau, cách hai ba căn nhà bị nguyên vẹn một quả bom rơi trúng. Mấy
mái tôn văng ra xa, có tấm văng lên chém gẫy một đọt dừa. Hai ba căn nhà
bị sập, mấy người chết. Từ lúc đó tới chiều, chúng tôi không dám bước
ra khỏi bệ thờ nữa. Vợ Bé bạo dạn đi nấu được nồi cơm, nhưng tới chiều
tối, chúng tôi mới ngồi ăn. Ðang ăn cơm thì nghe có nhiều người chạy
loạn từ phía Bến Ngự về, Thái chạy nhanh ra sân. Ðoàn người từ Bến Ngự
về chạy thẳng mãi trên miệt đường rầy, duy có hai cha con đói lả không
đi được, ngồi bệt xuống vệ đường. Mọi người đưa vào nhà. Người đàn ông
khoảng bốn mươi tuổi, đứa con gái cỡ mười lăm. Sau khi được ăn mỗi người
một bát cơm lót lòng, hai cha con tỉnh người lại. Ðứa con gái ngồi nép
vào góc bệ thờ, mở đôi mắt như thất thần nhìn ra phía cửa. Một tiếng
động nhỏ cũng làm cho con bé ôm chặt lấy cha.
Chờ cho người đàn ông tỉnh táo, má tôi mới hỏi dò:
“”Ông ở Bến Ngự về?”
“Dạ, tui ở Bến Ngự.”
“Rứa trên Từ Ðàm có ai chạy được không?”
Người đàn ông chưa kịp trả lời, má tôi đã nóng ruột:
“Con trai, con dâu, con gái với một bầy cháu kẹt trên đó.”
Người đàn ông nói mà đôi môi vẫn còn lắp bắp:
“Tui ở phía dưới cầu, sát bờ sông lận. Trên Từ Ðàm thì chịu, họ canh gác dữ lắm.”
“Không ai chạy được hết?”
“Chắc không.”
Tôi nghe tiếng thở dài đầy vẻ tuyệt vọng của má tôi. Người đàn ông vẫn còn ấp a ấp úng, môi vẫn run lập cập:
“Nhà tui không còn một miếng ngói.”
Thái hỏi:
“Mần răng bác chạy xuống đây được?”
“Nhà tui chưa trúng đạn cậu, mà
tiếng dội cũng bay hết ngói. Hai cha con tui núp trong hầm cả ngày, rứa
là nhịn đói gần ba hôm rồi. Khi ngớt tiếng súng, tui bò lên miệng hầm.
Ghê quá, dễ sợ quá. Nhà cửa xung quanh sập hết, không còn một bóng
người. Vậy là tôi xuống hầm kéo con gái chạy như điên ra khỏi nhà. Tôi
đạp không biết bao nhiêu xác người, tôi nghe không biết bao nhiêu lời
rên trong đám gạch. Kệ, cha con tui chạy bán sống bán chết tới nơi ni
thì hết sức đành ngồi đại xuống đường.”
“Rứa giữa đường không gặp họ răng?”
“Thiếu giống. Họ mắc đào hầm, mắc
chở người bị thương, nhờ rứa mà mình chạy được. Con nhỏ của tui hắn sợ
quá hắn té xuống đường mấy lần, nằm run như lên kinh phong, tui phải kéo
đại nó, tay chân nó trợt hết trơn trọi.”
“Ông chỉ có hai cha con thôi hà?” Một người nào đó hỏi trong bóng tối.
“Dạ tui còn vợ với thêm mấy đứa
nhỏ nữa. Ngày mồng một, mạ con nó về dưới Bao Vinh rồi, về dưới quê. Khổ
quá bà con ơi, không biết dưới đó có răng không, vợ con tui mắc kẹt
dưới đó rồi.”
“Ôi, ai có sức nấy lo. Biết mình có sống không mà lo nữa chớ.”
Má tôi hỏi con bé:
“Cháu còn đói không?”
Không nghe tiếng con bé trả lời, người đàn ông nói:
“Bà hỏi răng con không nói? Dạ
thưa bà nó sợ quá rồi như khùng. Mấy ngày nằm dưới hầm vừa đói vừa sợ,
nó như bị điếc rồi rứa. Thôi, chuyến ni thì chết hết chả còn chi nữa bà
con ôi. Tui đi mà đạp lên bao nhiêu xác chết. Ðạn đằng sau, trước mặt.
Tui tưởng không tới đây nổi trông thấy bà con.”
Người đàn ông như nghẹn ngào muốn khóc. Có tiếng trẻ con khóc, tiếng người đàn bà trẻ cằn nhằn:
“Thôi để tui ngủ ngoài hầm cho rộng, vô đây chật quá thằng nhỏ chịu mô có được.”
Tiếng người đàn ông:
“Mả cha mi, chết tới nơi còn cãi.
Cha mạ con cái ở một chỗ hết. Có chết chết cả gia đình cho trọn chớ
người sống kẻ chết thêm tội.”
Người đàn bà thút thít khóc. Bên
ngoài, ánh hỏa châu thả sáng cả vòm trời. Tiếng súng lại bắt đầu nổ.
Không biết đánh ở miệt nào nữa, vì tôi nghe như miệt nào cũng có súng.
Ðêm có tiếng chân đi sàn sạt bên ngoài, mọi người nín thở. Ðứa con gái
với người đàn ông vừa tản cư tới ban chiều không có chỗ nào, hai cha con
dựa lưng vào bệ xây. Ðứa con gái thỉnh thoảng kêu: Ba ơi, con sợ quá.
Người đàn ông vỗ về: Ðừng sợ, không răng mô.
Có tiếng kêu cứu rồi tiếng súng nổ. Thái cầm chặt tay tôi thì thầm:
“Nó ám sát.”
Tôi nhớ lại khuôn mặt anh lính
giải phóng gác nơi cầu khi chúng tôi đi qua. Một anh lính Bắc Việt ngờ
nghệch, anh nhìn ai cũng ra bọn Mỹ Ngụy hết. Anh la hét, cấm đoán rồi
cuối cùng mọi người cũng chạy được hết qua cầu. Tôi nghĩ chắc anh không
trông thấy gì ngoài đàn ông, đàn bà, con nít chạy loạn, còn bọn Mỹ Ngụy
chỉ một đêm nổ súng là chết hết rồi. Tôi nhớ tới một đồn binh trống trơn
không một người lính gác. Tôi cũng không nhìn thấy một xác nào vắt
ngang hàng rào. Như thế là nghĩa lý gì, đêm đầu tiên không nổ súng không
tấn công đồn là gì? Vô lý, bao nhiêu lính trong thành phố đều chết.
Người đàn ông tản cư tới hồi chiều vừa cho biết là Việt cộng vẫn chưa
lấy được một đồn binh nào, nhưng đồn binh nào cũng bỏ không.
Người đàn ông còn cho biết quân
giải phóng như bóng ma, họ ẩn đó hiện ra đó, và trong ba đêm nằm dưới
hầm anh tưởng tượng như trên hầm lúc nào cũng có người đi qua đi lại,
nhưng khi anh liều chạy lên thì ngôi nhà đổ nát của anh như đã hoang
vắng từ lâu lắm.
Ðêm đến, không khí nặng nề đến
ngột thở. Thêm một vài người tản cư tới và căn nhà thờ họ như hết cả
không khí. Mùi súng đạn đã lan tràn tới nơi. Mà tiếng súng khắp nơi đang
dồn về thật. Nửa đêm, vài tiếng kêu thất thanh ngoài ngõ, ngoài bờ
sông. Tiếng chân chạy thình thịch. Có cả tiếng đào đất nữa. Tôi không
còn biết sợ những xác chết banh đầu cụt tay cụt chân nữa, nhưng trong
chút không khí chia sớt nhau trong căn nhà thờ họ tối tăm, tôi có cảm
tưởng như mùi tử khí đang lấn dần và nếu ở lại thêm một vài ngày nữa,
chúng tôi sẽ chết vì ngộp thở, vì bịnh hoạn.
Ðến sáng hôm sau thì khu xóm này
hoàn toàn ngập tràn tiếng súng. Ðạn đại bác câu tới nơi, rồi súng lớn,
súng nhỏ. Nằm dưới bệ thờ chúng tôi nghe cả tiếng xe hơi chạy ngoài
đường nữa. Thái áp tai xuống đất, cố tìm coi miệt nào đánh nhau. Một vài
gốc cây ở ngoài sân bị trúng đạn, ngã gục. Thái đoán chắc đang đánh
nhau ở miệt chợ. Có thể đánh ở bên kia sông rồi. Nó bàn đi bàn lại là
phải chạy. Có thể đêm nay họ đánh tới khu xóm Tân Lăng này. Má tôi nghe
nói thì run lẩy bẩy ôm chặt lấy tôi:
“Mần răng chừ. Má chết đã đành, còn con, con còn hai đứa con, ai nuôi nó con ơi.”
Tôi cắn chặt hai hàm răng lại.
Trong thành phố này đã bao nhiêu người chết rồi, bao nhiêu trẻ con,
người lớn, bao nhiêu bà mẹ bỏ ra đi để con bơ vơ. Nhưng những đứa trẻ đó
biết có sống được đến khi dứt trận giặc? Khi ở trong nhà thờ, tôi đã
nhìn thấy một số trẻ con cha mẹ bị đạn chết, chạy theo đoàn người di cư.
Chúng chạy qua chạy lại ngơ ngác, bị người này nạt, người kia la. Ðói
quá, chúng cướp giật của người khác. Nếu tôi chết đi hay nếu tôi không
chết mà mất luôn chúng nó?
Hình ảnh người đàn bà ôm xác chết
của con đã sình thúi trong ngôi nhà thờ nơi tôi chạy tới mấy ngày đầu
đã làm tôi tan nát ruột gan.
Một giờ đồng hồ sau, đợi cho
tiếng súng im giây lát là chúng tôi chạy ra khỏi ngôi nhà thờ, mỗi người
ôm theo những thứ còn sót lại, xách quần áo, cái chăn Bé lấy được khi ở
cung An Ðịnh. Thái chạy ra trước tiên, chúng tôi chạy ra sau. Mấy ngày
liền mới trông thấy ánh sáng, dù ánh sáng đã bị ngộp trong làn mưa bụi
tẻ lạnh. Khi chúng tôi tràn ra khỏi nhà thì một số người khác cũng tràn
ra theo. Hai cha con người đàn ông chạy ra phía bờ sông, Thái vẫy chúng
tôi lên miệt đường rầy. Nhưng vừa ra khỏi nhà một đoạn, chúng tôi lại bị
vây hãm giữa tiếng súng nổ ran bốn mặt.
Lại đánh nhau. Thái hô mọi người
nằm xuống đường. Cứ lăn vào bụi cây, vào mé đường. Chúng tôi nằm dồn
đống lại với nhau. Hai cha con người đàn ông nằm xuống. Ðại bác lại câu
lên, ình ình khắp bốn mặt. Tiếng súng cũng như vây tròn theo chúng tôi
vào giữa. Một ngôi nhà trúng đạn lửa bốc cháy. Trẻ con, người lớn từ
trong nhà chạy ra. Lửa cháy lan sang nhiều căn nhà khác, nhiều người nữa
chạy ra. Tiếng la tiếng khóc như ri. Phía trước bụi súng mù mịt, phía
sau người đàn ông cho biết là đang đụng độ lớn. Chỉ còn nước xuyên qua
hẻm, tìm lấy một chỗ núp khá yên ổn hơn. Một quả đại bác nổ ình cách
chúng tôi vài chục thước. Chúng tôi như bị chôn trong mảnh đạn và bụi
mù. Lạy trời phật, không ai bị hết. Khi khói đã tan, chúng tôi không
nhìn thấy hai cha con người đàn ông nữa. Họ đã chạy trước khi quả đạn nổ
hay trong khi khói đạn đang bốc mù rồi. Thái hô lớn:
“Cứ chạy đại lại hố đại bác vừa nổ mà nằm.”
Người tôi run lên cầm cập, chạy
không vững nữa. Kệ. Thái đẩy tôi, tôi đẩy má tôi, má tôi đẩy Bé, và cứ
đẩy đằng sau đằng trước. Thái cũng dí chúng tôi xuống hố đất bị đào sâu,
còn bốc mịt mờ bụi khói và thuốc súng.
“Nằm đây. Không thể có hai quả rơi một chỗ mô bác. Tụi con đi trận tụi con biết mà.”
Câu nói của Thái giúp tôi yên tâm
được đôi chút. Nhưng sao người tôi vẫn cứ run lên cầm cập. Gần một tuần
lễ. Bộ quần áo vẫn chưa được thay, chiếc áo mặc ngoài đầy những vết máu
khô và bắt đầu hôi. Thái lăn người sát cạnh tôi:
“Chị đừng run, chị phải bình tĩnh cho bác đỡ sợ.”
Má tôi mở đôi mắt lờ đờ nhìn tôi.
Ðôi mắt của sợ hãi, của vẻ tuyệt vọng và sự lo lắng thương mến tôi vô
bờ. Tôi bật lên khóc. Lúc này tôi bớt sợ chết thật. Tôi có má bên cạnh,
có chết má con tôi cũng nhìn thấy mặt nhau. Có tiếng khóc lóc từ phía xa
vọng tới. Tôi mở mắt hé nhìn. Từ trong đám khói lửa, trong tiếng bom
đạn ở đằng trước, một người đàn bà và một đứa bé đang đẩy cái xe bò đi
đến. Bà vừa đi vừa khóc vừa kêu gào:
“Chúa ở mô. Phật ở mô. Trời ơi.”
Trên xe, xác một người đàn ông
máu me bê bết đã chết cứng, mắt còn mở trừng. Xác chết không kiếm được
một chiếc áo để đắp. Thái nhảy lên khỏi miệng hầm, nó cổi cái áo khoác
ngoài màu nỉ sọc đỏ đắp lên mặt người đàn ông. Người đàn bà và đứa nhỏ
cứ thế hì hục đẩy chiếc xe về phía trước mặt cũng đang rền vang đạn lửa.
Tôi nắm chặt lấy tay má tôi:
“Má.”
Tôi chỉ kêu lên được có một tiếng
rồi nghẹn ngào. Má tôi vẫn nhìn tôi với đôi mắt lờ đờ đó. Thái nhảy
xuống hố, chùi hai tay vào quần:
“Bà đó mần răng cũng chết. Dưới nớ đánh nhau dữ lắm.”
Tiếng đại bác vẫn câu lên đều đều. Tôi đoán được một vài tràng súng ở trong những khu vườn bắn ra. Thái đề nghị:
“Chắc lại sắp đánh nhau tới phía ni rồi. Chạy, chạy gấp bác.”
Nói xong là Thái nhảy đại lên
miệng hầm. Bé bế con cho vợ nhảy lên theo. Thây kệ đồ đoàng, nhiều thứ
bị vất lại dưới hố bom. Thái dẫn đầu, Bé đi cuối để dò đường. Chú tôi
dắt tay đứa con gái lớn của Bé. Con nhỏ sợ quá đái cả ra quần, hai ống
quần sát vào nhau, nó bước không được bị lôi đi sền sệt. Thái một tay
xách cái xách quần áo của má tôi, lưng cõng thêm thằng con trai lên ba
của Bé. Má tôi ôm cái mền trước ngực như muốn che chở tấm thân gầy ốm
của bà. Tôi đi trước má tôi, đằng sau lưng Thái. Chú tôi đi gần sau
cùng, vừa đi vừa cằn nhằn. Ông vừa đói vừa sợ chết lại vừa thèm rượu:
“Ði tụm lại như ri nguy hiểm lắm. Chạy mau tìm chỗ núp. Họ tràn tới nơi rồi.”
Ở trong các khu vườn, tôi nhìn
thấy có đầu người lố nhố. Chắc họ núp dưới hố cá nhân. Những họng súng
hờm sẵn trên miệng hố. Những bụi cây sột soạt. Có tiếng nạt nộ ở trong
một bức thành đổ nát:
“Chạy mau, chết đến nơi rồi đó.”
Lại một giọng nói lơ lớ miệt ngoài. Tôi như bị ma đuổi, chạy bỏ cách khoảng má tôi tới mấy chục bước.
Nhưng không kịp nữa rồi, trận chiến đã kéo tới nơi. Tiếng súng bắn như mưa, chúng tôi bị kẹt giữa hai làn đạn.
“Chạy.”
Thái hô lớn. Chúng tôi chạy.
“Nằm xuống.”
Chúng tôi lại nằm xuống. Người
tôi không còn tự chủ được nữa mà bị điều khiển theo tiếng hô của Thái.
Trong trí tôi hầu như đã hoàn toàn trống trơn, sẵn sàng tuân lệnh bất cứ
lời sai khiến nào.
“Không xong rồi.”
Thái đẩy má tôi, chú tôi, gia
đình Bé và Thu vào một ngôi nhà. Nhưng người núp bên trong không chịu mở
cửa. Chúng tôi lại chạy, chạy lạc từ khu đang đánh nhau này qua khu
đang đánh nhau khác và tôi không còn trí nhớ để nhận ra nơi mình đến là
vùng nào nữa. Tiếng súng gần quá, trở lại đằng sau cũng không được, tiến
tới nữa cũng không được. Ðoàn người đi trước có nhiều người bị thương
đang nằm dẫy chết giữa đường, cạnh những xác chết cũ đã sình to, muốn
búng nước. Tôi phải nhảy vào một bụi cây để tránh xác một người đàn bà
chết bên cạnh đôi thúng gióng và chiếc đòn gánh còn nằm tựa bên vai.
Vũng máu đã khô bong từng miếng trộn với cát bẩn. Bên cạnh những xác
người bị banh ngực, bể đầu, cụt tay chân, những cánh tay khúc chân mất
biệt như có ai đến đánh cắp. Tôi nghĩ đến đàn chó hoang mấy ngày nay
lang thang trong thành phố, nhưng tôi không còn đủ sức để sợ hãi nữa.
Bây giờ phải chạy để thoát đã. Một vài người bị thương đang nằm rên rỉ,
những cánh tay chờn vờn đưa theo níu lấy ống quần, vạt áo. Những tiếng
kêu xin:
“Ðem tôi theo với. Cứu cho với, trời ơi.”
Nhưng tôi vẫn đạp qua họ mà đi,
nhiều người khác cũng đạp qua họ mà đi. Tôi bị một bàn tay níu lấy ống
chân quần. Tôi giựt mạnh, tiếng vải rách soạt. Mặc kệ, tôi phải sống
trước đã, dù sống thêm một giây, một giờ hay mấy giờ đồng hồ nữa.
“Chỗ ni nguy hiểm lắm, chắc họ sắp đụng nhau tới nơi rồi.”
Thái nói chưa dứt câu đã nghe
những tiếng chóc chóc từ trong các khu vườn nã xuống phía bờ sông. Phía
sông, từng loạt tiểu liên đại liên nã lên dữ dội. Thái không kịp thêm ý
kiến gì nữa. Nó nhảy phóc lên khỏi hố bom:
“Chạy.”
Chúng tôi chạy theo. Tiếng đạn từ các vườn dưới mặt sông bắn loạn xạ. Không thể chạy nổi nữa, chúng tôi bò lăn dưới đất.
“Cứ bò tới, cứ lăn lăn tròn, lăn theo con nì.”
Thái hô lớn nhưng nghe tiếng được tiếng mất:
“Bác chạy nơi chỗ nớ tề. Chạy ra đằng sau bức tường đó.”
Thái cầm chặt tay tôi lại:
“Ðể bác chạy trước chị.”
Chú tôi, má tôi, vợ chồng Bé, mấy
đứa nhỏ vùng dậy chạy thoát ra phía bức tường. Thái kéo tôi: Chạy mau.
Nhưng chóc chóc, hình như một lằn đạn từ sau bức tường bắn tới. Nằm
xuống. Thái kéo tay tôi, hai chị em lăn đại xuống đất. Cố bò tới, cái
cửa nhà tề. Giữa bom đạn, giữa khói súng, ngôi nhà gạch còn đứng vững,
hình như chưa bị một vết đạn nào. Ngôi nhà sừng sững như một phép lạ.
Thái khom người giơ chân đá vào cánh cửa. Cánh cửa bật mở dễ dàng. Tôi
lao người vào.
Nhưng cái gì thế kia? Tôi nhảy
một bước vào bên trong rồi hai chân như bị keo dính chặt, không tài nào
cất lên nổi nữa. Tôi đưa tay lên miệng, tôi há mồm muốn kêu. Nhưng tôi
như đã chết đứng rồi.
Trước mắt tôi, xung quanh tôi đầy
xác chết. Người nằm sấp, kẻ lật ngửa. Người co rúm lại, kẻ đang trợn
trừng mắt tay chân khẳng khiu. Những miếng thịt, những vũng máu bê bết
khắp nền nhà. Chân tôi không thể bước tới mà cũng không còn chỗ bước lui
được nữa.
Không biết nhờ đâu tôi còn được
sự phản ứng khi mới bước chân vào nhà. Hình như khi bước chân tôi chưa
chạm đất, mắt tôi đã chạm phải cảnh hãi hùng bên trong căn nhà, và một
sức mạnh nào đó đã đưa bàn chân tôi bước tránh được những vũng máu. Chỗ
đó hình như cũng chỉ vừa cho một bàn chân. Còn một bàn chân chỉ dính hờ
xuống chạm gót.
Tôi muốn kêu rú lên, muốn ngã vật
xuống ngất xỉu. Nhưng không, tôi còn nhận ra được những vũng máu, những
cánh tay, khúc chân, tôi phải cố đứng.
Rồi sự kinh hãi nén chặt quá, dồn
từ chân lên đỉnh đầu, từ đỉnh đầu xuống chân, bật dùm tôi được một
tiếng kêu lớn. Thái đã đứng sẵn sau lưng tôi rồi. Người tôi bị xốc nổi
lên, và Thái vác tôi lên vai, mặc súng đạn, mặc nguy hiểm, chạy như bay
ra khỏi căn nhà ghê rợn.
Khi tôi tỉnh dần lại thì Thái
cũng vừa đặt tôi xuống đất. Những vũng máu của ai vẫn còn vương vất
trước mắt tôi. Không, không phải, tôi dụi mắt, máu thật, máu thành giọt,
máu đọng vũng quanh mấy xác chết còn tươi.
“Bác đâu?”
Tôi hỏi Thái. Nó đưa tay lên chùi mặt, vừa nói:
“Góc tường đàng nớ tề.”
Má tôi, chú tôi, và Bé chạy lại.
“Trời ơi. Tưởng chị với Thái lạc mất rồi chớ.”
Má tôi chụp lấy vai tôi:
“Ngồi xuống, ngồi xuống con.”
Mắt tôi hoa lên, tôi thấy những
tàng lá xanh trước mặt lây lất rồi xoay tít. Giữa những vòng xoay tít mù
đó, như có những giọt máu, những cánh tay, khúc chân ai quay theo nữa.
Nhiều tiếng đạn bay, nhiều tiếng nhà đổ. Tôi nằm lăn ra đất. Cách chỗ tôi khoảng mươi thước, một người đàn ông đang bò tới gần.
“Cứu tôi với, cứu tôi với bà con ơi.”
Ngực và cánh tay ông ta máu chảy
ròng ròng, tôi lăn sát sát vào Thu. Thu rú lên. Chú tôi bịt miệng nó
lại. Người đàn ông lết tới gần dần. Miệng ông không ngớt kêu la. Ông đưa
cánh tay đầy máu của ông lên mút, miệng ông đỏ lòm, hai mắt ông trợn
trừng. Tôi thấy ông lăn tròn một vòng rồi dẫy đành đạch. Mắt tôi lại hoa
lên. Tôi bấm vào tay mình thật chặt rồi úp mặt xuống đất.
Tiếng súng xa dần được một quãng,
rồi có tiếng chân chạy thình thịch, tiếng hô lớn. Tiếng chân dội vào
tai tôi, như bước cả qua đầu tôi nữa. Tiếp theo những tiếng nổ lách
cách, mặt tôi nóng rực. Thái dựng tôi dậy:
“Chạy gấp, không chết cháy chừ.”
Tôi níu áo Thái, đạp bừa lên
người chết, người sống. Tôi gọi má ơi má hỡi. Tôi nghe tiếng gọi của tôi
như tiếng gọi cuối cùng của một con người sắp chết.
“Má đây con ơi.”
Tôi nghe tiếng má tôi trả lời,
tiếng má tôi khóc nữa. Tôi chưa chết. Tôi vẫn còn nghe, còn thấy, còn
sống hẳn hoi mà. Tôi lại tiếp tục chạy.
Tiếng súng bỗng thưa dần. Chúng
tôi vẫn chạy. Tôi cứ nhắm sau lưng Thái mà chạy theo. Nhiều bàn tay dưới
đất vươn lên với tôi, nhiều tiếng van xin cầu cứu. Tôi cũng muốn la
to:
“Ai cứu tôi với đây. Tôi còn sức lực gì nữa.”
Cho tới khi tôi xô vào lưng Thái
và dừng lại thì cả gia đình tôi đã ngồi xuống bên đường. Tiếng súng đã
thưa lắm rồi. Ðại bác cũng ngưng. Tôi mở bừng mắt. Tôi không còn cảm
thấy mắt mình hoa lên nữa. Như vậy là lúc nào mình có cảm tưởng sắp chết
đến nơi mắt mới hoa. Bây giờ tôi yên tâm sống rồi. Chúng tôi đang ngồi
bên đường rầy xe hỏa. Mấy đứa nhỏ vẫn còn nguyên lành đó sao? Tôi ngạc
nhiên đếm tới đếm lui. Chừng đó mạng người trong cơn lửa đạn mà vẫn còn
đầy đủ. Nước mắt tôi trào ra, nước mắt chú tôi, má tôi, vợ chồng Bé cũng
trào ra. Con Thu ôm chặt thằng Cu vào lòng, thằng nhỏ muốn thiếp đi vì
sợ hãi. Thái vuốt ve con đường sắt cũ nói:
“Mình theo đường rầy đi về nhà. Ðánh nhau khắp nơi rồi, về nhà đi bác.”
“Về nhà họ đánh tới mần răng?”
“Chừ ở mô cũng rứa, ăn thua may rủi bác ơi.”
“Liệu nhà có còn không hay tan hoang rồi.”
Không ai trả lời được câu này
hết. Nhưng chiều hôm đó, trước khi trời tối, chúng tôi cũng lần mò tìm
được đường về nhà. Thái nói nhà tôi ở sát quốc lộ dễ xảy ra đụng độ lắm.
Cuối cùng, chúng tôi dọn lên nhà chú tôi ở sau đường rầy, gần sát mấy
ngọn đồi nhỏ phía chân núi Tam Thái.
Trước đó, để tránh những cuộc
pháo kích, Bé đã đào một cái hầm sâu dưới đất, phía trong nhà để trú ẩn.
Khi chúng tôi vô, cái hầm được sửa sang lại. Thái và Bé lo đào đất để
đổ thêm vào bao chất lên miệng hầm.
Tất cả các ngôi nhà kế cận vẫn im
lặng một cách lạ thường. Ngôi nhà sát nhà chú tôi bị một trái hỏa tiễn
ngay từ sáng hôm mồng một sập mất một nửa, mấy cây tre ở sau vườn ngả
nghiêng sập cả lên sườn nhà.
Chắc không còn ai ở trong xóm
hết, tôi nghĩ thế. Nhưng tối hôm đó, Thu phát giác ra có nhiều nhà còn
người ở. Nó khám phá ra những chấm đèn dầu nhỏ hoặc những tiếng động nhỏ
bé sợ sệt. Cả đêm đầu tiên ngủ trong hầm, chúng tôi nín thở, không dám
phát ra tiếng động. Thái nghi những dấu hiệu để báo động, có người trong
nhiều nhà chưa chắc là dân chúng trong vùng. Ðôi khi là “họ” cũng nên.
Chúng tôi thường dùng tiếng họ để chỉ Việt cộng và để tránh tiếng giải
phóng. Thật không gì mỉa mai tàn tệ bằng tiếng “giải phóng” khi nhìn
cảnh đau thương tan tành trong thành phố như thế này. Lúc vô con hẻm dẫn
vào nhà chú tôi, tôi cũng còn nhìn thấy lá cờ giải phóng rách bươm treo
trên một cây ổi trước một ngôi nhà sụp đổ.
Cả đêm, chúng tôi nghe tiếng cú
rúc liên hồi. Tiếng cú như tràn khắp bốn mặt như chất chứa một vẻ gì
thất thường. Mỗi lần tiếng cú kêu, tôi có cảm tưởng như lưỡi hái của tử
thần từ trên bầu trời đen điu đang chém xuống sẵn sàng trúng bất kỳ ai,
đồ vật gì.
Gần về sáng, tôi nghe có tiếng
chân người ngoài vườn. Tiếng chân rất khẽ, khi gần khi xa. Chúng tôi bấu
chặt tay nhau. Bé sẵn sàng đặt tay lên miệng đứa bé nhỏ nhất mới sinh
hơn tháng, để sẵn sàng bịt chặt lấy miệng đứa bé lỡ nó la khóc.
Nhìn bàn tay to lớn của đứa em
bịt hờ trên miệng đứa bé, lòng tôi bất nhẫn đến đau xót. Chỉ một tiếng
chân dừng lại trên miệng hầm, chỉ một lóe đèn pin chiếu xuống và đứa bé
chưa kịp ré lên thì bàn tay đã chặt cứng miệng nó. Chỉ vài cái dẫy dụa
rồi thôi. Ðêm nay có bao hầm sâu câm nín tiếng khóc trẻ em? Ðã có bàn
tay nào bóp mạnh miệng một đứa bé chưa? Và những bộ mặt người lớn vừa
xót thương mình vừa bất nhẫn trong một không khí độc địa như sẵn sàng
quật chết tươi người.
Nhưng rồi một đêm nữa cũng qua,
chúng tôi ngạc nhiên thấy mình còn sống giữa một xóm vắng hiu. Nhưng
chúng tôi đã lầm, còn vài nhà có người ở, họ là những ông già, bà già
không chạy theo con cháu được, hoặc một vài gia đình sợ quá ở lì.
Sáng hôm sau, tôi nghe nhiều
tiếng động, nhiều khuôn mặt ló ra. Ðợi tiếng súng thưa, một bà lão bò
sang thăm chúng tôi rồi không dám về nữa. Nhờ bà lão, tôi biết thêm
trong xóm mấy hôm nay đầy quân giải phóng và hiện giờ họ đang đào hầm
đào hố ở chân núi.
Trong khi sát đó, đồn Trường Bia
vẫn đầy lính Quốc gia và nơi ngọn núi sau đồn đã nã đi những trái đại
bác lên miền Long Thọ, Kim Long. Má tôi kêu trời là dại quá mới về gần
họ. Thái kéo tuột bà lão xuống hầm:
“Ðừng để họ biết mình về.”
Nhưng bà lão cả quyết rằng ban ngày họ lên sau đồn hết, họ không biết được. Bà dặn thêm: tuyệt đối không thắp đèn.
Buổi trưa, một gia đình trong xóm
tìm về, căn nhà của họ đã sập, họ xin đào hầm ngay trong nhà chú tôi.
Bà lão ở mãi cho tới chiều, có đứa cháu nhỏ chạy qua đón về, nhà bà lão
chỉ cách nhà chú tôi một cái sân và con đường hẻm hẹp.
Các trận đánh vẫn diễn ra ở xung
quanh. Ðêm đến, chúng tôi lại nín thở dưới hầm. Chúng tôi chờ đợi điều
may rủi, nhưng điều may thật mong manh, cả nhà đều đói lả nhưng cũng
chẳng còn ai đủ sức than thở nữa.
Còn một sự chờ đợi đầy kinh hoàng nữa. Một tiếng nổ mà chúng tôi không kịp nghe, không kịp hay biết gì hết.
Chương 5: NGƯỜI Ở TỪ ĐÀM VỀ KỂ CHUYỆN
Bốn ngày liền, tôi nằm dưới hầm
tối và trong bốn ngày, tôi đã phải nhịn ăn hết hai. Sáng hôm nay, đứa em
gái bò lên khỏi hầm lục lọi đâu được khúc bánh tét đã mốc meo. Nó bò
xuống, lột lá và cứ đút từ miệng người này cắn một miếng tới miệng người
khác.
Tôi đã chán ngán tuyệt vọng lắm
rồi. Trước đó vài tiếng đồng hồ, tôi có cảm tưởng cứ nhịn đói như thế
này cho tới lúc mệt lả, thiếp đi, rồi đi vào một giấc ngủ vĩnh viễn thì
thật là sung sướng. Dù sao cũng sung sướng hơn cõi sống mà chúng tôi
đang hứng chịu. Nhưng khi nghe mùi thơm của nếp, mùi mốc của lá, và
miếng bánh tét đưa đến gần, miệng tôi bỗng mở ra toác hoác, một niềm
sung sướng đến hoan lạc, một hạnh phúc chất ngất khi miếng bánh đã nằm
trong miệng.
Nước miếng trào ra và cứ quấn quít ve vãn quanh mùi nếp mịn và thơm ngát đến lịm người.
Không, cái chết thật là tàn nhẫn,
không làm cho người ta sung sướng như tôi tưởng. Mặc kệ những tiếng nổ
ình ình bên ngoài, mặc kệ tiếng đào xới ngay trên đất, như trên đầu
mình, mặc kệ cái ám ảnh anh lính giải phóng trẻ tuổi gác trước cổng nhà
luôn luôn đưa mũi súng nhắm quanh sẵn sàng nhả đạn. Miếng bánh trong
miệng tôi như một hạnh phúc tuyệt đối mà chỉ có người may mắn nhất, hy
hữu nhất, mới được bắt gặp trong đời mình một lần. Miếng bánh càng nhỏ
đi, nước miếng trong miệng càng tưới chảy và không dừng được hoan lạc,
ham hố, tôi nhai ngấu nghiến. Lúc đó, tôi tỉnh lại đôi chút, tôi nói như
rên lên:
“Còn miếng mô nữa không, cho tui miếng nữa.”
Cô em gái còn miếng bánh chót định đưa lên miệng, nghe tiếng nói của tôi liền ngừng lại:
“Anh ăn đi.”
Tôi nhìn thấy đôi mắt nó hết sức buồn rầu qua ánh nến thắp tít trong góc hầm.
“Ăn đi chứ.”
Tôi không kịp đưa tay ra lấy mà
chỉ há miệng. Một miếng bánh nữa, một hạnh phúc tuyệt vời nữa tới. Tôi
thật sung sướng quá, hai lần hạnh phúc tới chỉ cách nhau trong giây
phút.
Lúc này thì tôi tỉnh người lại
rồi. Tôi vươn vai, mới biết là xương sống mình nhức mỏi một cách kỳ lạ.
Nhưng cùng lúc đó tôi bỗng nghe thấy tiếng đàn hát vọng xuống. Tiếng đàn
bầu, đàn tranh, đàn nguyệt và có cả tiếng ngâm thơ nữa.
“Ai đó hỉ?”
Em gái tôi thì thầm:
“Ôn Võ Thành Minh đó.”
Võ Thành Minh, con người trào lưu
cũ, của thời Phan Bội Châu, Kỳ ngoại hầu Cường Ðể, còn lưu lạc lại giữa
thời đại này để chịu chung số phận với thành phố, đã làm gì vậy? Hình
như hôm qua, em gái tôi cũng đã thì thầm kể cho cả nhà đang ở dưới hầm
nghe về nhân vật kỳ lạ này, nhưng tôi đói lả, tôi có nghe gì đâu. Tiếng
đàn lúc này nổi lên thật rõ dù tiếng đại bác vẫn ầm ầm nổ khắp nơi và
mọi người trong hầm ôm chặt lấy nhau. Con em gái tôi đeo cứng ở một bên
vai tôi và run lập cập:
“Kêu con Trúc xuống chớ má.”
Má tôi lắc đầu:
“Kệ nó, ai mà nói nổi.”
Tiếng hát tiếng đàn, tiếng ngâm
thơ ngưng bặt sau một vài tiếng nổ gần đến nỗi như ngay trên mái nhà,
trên đầu mình. Nhiều tiếng hô lớn:
“Xuống hầm.”
Ðám người trong hầm nhích chật lại, vài người trườn xuống. Má tôi hỏi nhỏ:
“Con Trúc có đó không?”
Tiếng con Trúc trả lời:
“Con đây nì má.”
Tôi nghe tiếng Trúc thì thầm với con Oanh:
“Thằng đó chạy núp trong nhà mình, chắc nó tìm chị.”
Con Oanh làm thinh. Tôi đoán con
Trúc ám chỉ tên lính Việt cộng gác ở trước nhà. Mỗi lần đại bác câu tới,
hắn thường núp trong nhà chớ ít khi xuống hố cá nhân như đồng đội. Ngay
khu nhà này có một tổ ba người coi gác và hình như hắn là tổ trưởng.
Một người nào đó gắt:
“Khỉ, đừng xì xầm nữa.”
Mọi người im lặng, nín thở, những giây phút căng thẳng tột cùng này, chúng tôi đã chịu đựng rất nhiều giờ qua.
Tôi biết ông Minh không xuống hầm chúng tôi. Tôi đoán ông đang núp ở một hầm nào khác. Có tiếng đàn bà khóc. Trúc thì thầm:
“Bà giáo sư Lê Văn Hảo đó. Anh nì, bà nói với em ông chồng bà biết có đánh nhau, trước Tết dặn bà mua mấy tạ gạo để sẵn.”
Oanh gắt:
“Kệ mụ, cứ khóc trù trù. Răng ông
chồng đi cổ động la hét cho quân giải phóng mà để vợ con chết sợ trong
hầm ni rứa. Nghe nói thêm ghét.”
Nhưng tôi không ác như Oanh,
tiếng khóc của người đàn bà làm tôi càng thương hại. Mấy ngày tôi không
dám ra khỏi hầm, sợ mấy anh lính giải phóng biết tôi núp trong hầm này.
Kệ, ai bảo tôi hèn thì bảo, tôi lo lấy mạng sống của tôi trước đã.
Tuy kẹt cứng dưới hầm, nhưng
chuyện xảy ra trên mặt đất tôi đều được hai cô em gái tường thuật đầy
đủ. Nhà bên bác Bảy đã sập, trường tiểu học bỏ không, lính Xây dựng Nông
thôn về canh gác mấy bữa Tết đã quăng súng mà chạy. Ở ngã ba nào có cờ
giải phóng treo. Ông thợ may già trong xóm bị giết, xác vùi nông trong
khu đất trường tiểu học Cộng đồng.
Bà Hảo, vợ ông giáo sư đang vang
danh với cuộc giải phóng cố đô Huế, vẫn cả ngày khóc lóc, đi đứng không
vững, đeo lấy áo ông Võ Thành Minh. Cả đến lũ con, bà cũng không đủ sức
săn sóc nữa. Bao nhiêu hào hùng, bao nhiêu gan dạ, can đảm trong một
người đàn bà đã bị ông chồng hút hết rồi chăng. Dù nghĩ vậy, tôi cũng
không giận bà.
Khi tiếng súng thưa bớt, tôi lại
nghe tiếng đánh máy chữ trên miệng hầm lóc cóc. Chắc mấy anh bộ đội vớ
được máy chữ, làm ra điều quan trọng, đánh tờ trình hoặc báo cáo chăng?
Không phải, tôi nghe tiếng người già ho húng hắng, rồi tiếng ông Minh
gọi:
“Con Oanh mô rồi, lên đây ông nhờ chút mi.”
Oanh chui lên khỏi miệng hầm, má tôi kéo lại:
“Ðừng có lên.”
Nhưng con bé cứng đầu:
“Hết bắn rồi mà mạ sợ chi.”
Nói xong nó đã khuất dạng. Tôi ló đầu lên theo. Má tôi ghì đầu tôi lại:
“Tui lạy anh, anh chui xuống cho.”
Nhưng tôi vẫn cứ ló đầu ra khỏi
miệng hầm. Bốn ngày, tôi đâu nhìn thấy mặt trời. Tôi thèm một chút không
khí bên ngoài, và ao ước được nhìn thấy một ngọn lá cây lay động để còn
biết được mình chưa bị cách biệt với sự sống, với cỏ cây, với mọi hơi
thở. Dù ao ước vậy, tôi vẫn chả trông thấy gì hết, căn nhà thờ tối lù
mù, một ngọn nến nhỏ bị che khuất sau một cái cột lớn. Oanh, cô em của
tôi đã bò tới tận góc nhà, nơi ngọn nến lung lay sáng.
Tôi phải dụi mắt hai ba lần mới
nhìn quen được mọi vật trong khu nhà thờ. Ông Võ Thành Minh đang ngồi
trên một cái ghế bông, trước mặt là một cái ghế thấp kê bàn máy đánh
chữ. Ông không đánh máy mà có vẻ ngồi ngẫm nghĩ. Oanh ghé sát mặt đọc gì
trên tờ giấy. Tôi cố nhìn ra phía cửa sổ, nhưng không thấy gì hết. Cánh
cửa sổ đóng kín mít. Tôi muốn bò lên ghê lắm nhưng tay má tôi vẫn túm
lấy vai áo sẵn sàng kéo tôi trở vào.
Có tiếng la thét ở ngoài. Tiếng
đập cửa khẩn cấp. Lúc này không đợi má tôi kéo nữa, người tôi chui xuống
hầm rất nhanh, rồi chui vào cái kẹt riêng dành cho tôi. Có cái ngách
nhỏ này, nếu họ rọi đèn pin xuống hầm cũng khó kiếm thấy tôi. Má tôi
nhất định bắt tôi trốn, không để họ trông thấy.
Có tiếng mở cửa ở bên trên, nhiều tiếng chân vào nhà. Con Oanh chui xuống, nó lết lại phía tôi, thì thầm:
“Họ vô đầy nhà.”
“Họ có hố cá nhân, vô mần chi?”
“Hết bắn rồi, họ vô nhà lục soát.”
Oanh nói chưa hết câu thì tiếng
chân đã đi tới miệng hầm. Một ánh đèn pin chiếu xuống, Oanh vói dúi tôi
vào vách, kéo mép chiếu trải hầm che lại rồi ngồi tựa lưng vào. Tiếng
người ở trên hầm vọng xuống:
“Lên hết trên nhà để kiểm soát.”
Tiếng ông Võ Thành Minh hết sức bình tĩnh:
“Cả nhà lên hết đi. Toàn đàn bà con nít mà sợ chi. Lẹ lên đi.”
Má tôi chui ra trước, rồi trẻ
con, người lớn, bà già đều lên theo. Oanh lên cuối cùng, ánh đèn pin
quét qua quét lại mấy lượt. Tim tôi như ngừng đập. Tiếng người trên hầm
dõng dạc:
“Còn ai nữa, lên hết đi.”
Giọng má tôi run run:
“Dạ hết rồi.”
Tiếng ông Võ Thành Minh:
“Không tin mấy anh cứ xuống mà soát. Sợ hơn thì bắn vào một loạt đạn cho ăn chắc.”
Tôi lạnh cả người, tay chân cố
giữ mà vẫn run lập cập. Nhỡ nó bắn vào thật thì làm sao. Tôi muốn kêu
thét lên nhưng tay tôi đã tự bịt kín lấy miệng mình.
“Má ơi, má ơi.”
Tiếng kêu thầm trong đầu tôi đầy rẫy tuyệt vọng. Nhưng tiếng cười trên miệng hầm đã giúp tôi yên tâm đôi chút:
“Thôi, đứng sắp hàng lại đi. Anh em ai đó mở giùm cửa sổ cho sáng.”
Tôi thở phào, nhưng ngực còn nặng
như bị đè bởi tảng đá nghìn cân. Chưa thoát đâu. Tôi nép sát vào ngách
hầm. Hơi đất lạnh ngấm vào người tôi buốt giá. Tiếng nhiều người trên
nhà lao xao.
“Ðàn bà con nít hết hả. Bà ni răng khóc dữ rứa?”
“Dạ, tui bị lạc mất chồng tui.”
“Ði họp hả?”
“Dạ chồng tui là ông giáo sư Hảo.”
Giọng ông Võ Thành Minh:
“Chồng chị ni đi lập mặt trận
Liên Minh Dân Tộc hay Hòa Bình hòa biếc chi đó mà không chịu đi đón vợ
con. Các đồng chí có gặp thì nhắn ông ta về rước vợ rước con để vinh
nhục cùng chịu chớ. Ông ham làm cách mệnh chi mà vợ con chết sống không
biết rứa.”
Giọng tên tổ trưởng nói có vẻ dịu hơn trước:
“A. Vậy ra gia đình này là của giải phóng rồi. Ðồng chí cả mà. Vậy có gì giúp đỡ cho quân giải phóng không?”
“Còn gì, chúng tôi đã đói từ mấy hôm nay rồi.”
“Còn gạo không?”
“Các ông tìm mà lấy.”
Tiếng một người khác nói:
“Báo cáo đồng chí tổ trưởng, ở góc kia hai bao gạo còn nguyên.”
“Anh ghi có mượn ở nhà này hai bao gạo. Ghi vào sổ về sau trả lại và tuyên dương công trạng với mặt trận.”
Im lặng vài giây, tôi nghe giọng quen thuộc đó nói tiếp:
“Còn hai cô này phải đi họp,
chiều nay hai giờ họp ở Chùa nghe. Ðàn ông xóm này phải đi học tập hết
rồi, phụ nữ cũng nên học tập đường lối của mặt trận.”
“Chúng nó sợ quá rút gân rồi mần răng đi.”
“À, còn cụ. Xin mời cụ đi gặp cấp chỉ huy chúng tôi.”
“Cấp chỉ huy mô?”
“Cấp chỉ huy vùng này. Tôi chỉ là tổ trưởng của nhóm ba anh em chúng tôi canh gác quanh khu vực nhà này.”
“Rứa hỉ!”
“Cụ đi với chúng tôi. Xin cụ mang theo mười lăm lon gạo.”
“Ðem gạo mần chi rứa?”
“Ðem gạo để ăn. Học tập trong ba hôm rồi về.”
“Cái chi mà phải học với tập?”
“Lấy cái bị hay cái túi mà đựng gạo. Ðem theo dư ra càng tốt.”
“Họp chi mới được chớ?”
“Học tập, đã nói là học tập mà. Mời ông đi theo.”
“Tao không đi.”
Giọng chắc nịch bất ngờ của ông
Minh làm tôi chưng hửng. Chắc từ hôm quân giải phóng tới Huế tới giờ
chưa ai dám nói một câu như thế. Tôi thầm lo cho tính mệnh ông. Thấy
không ai để ý đến chiếc hầm này nữa, tôi rời khỏi cái ngách nhỏ, ngồi
tựa vào thành hầm. Tôi không nhìn rõ mặt tên tổ trưởng nhưng tôi nghe
được tiếng hắn cười gằn:
“Ông làm chi cho địch?”
“Ðịch nào?”
“Mỹ Ngụy.”
Giọng ông Võ Thành Minh ngạo nghễ:
“Nói gì tầm bậy vậy! Tao mà theo
Mỹ, mi về hỏi ông Hồ Chí Minh nhà mi đã dám nói với tao giọng đó chưa.
Tao không đi nghe không. Muốn mời tao họp phải có giấy Hồ chủ tịch chớ
cái mặt trận giải phóng của tụi bây mà ăn nhằm gì. Tụi bây biết tao là
ai không?”
Có lẽ tên tổ trưởng nể ông già gân thật, tôi không nghe hắn nói thêm gì hết. Một giọng khác đỡ lời:
“Bác đi theo chúng cháu tới gặp cấp chỉ huy. Gần đây là bộ chỉ huy mà bác.”
“Không đi, muốn nói gì thì kêu
cấp chỉ huy của bay lại. Tao ở đây, đây là nhà thờ cụ Phan, tui bây lạ
chi mà không biết. Tao sẽ tuyệt thực, xuống ngồi dưới cầu Bến Ngự phản
đối lối giải phóng của tụi bay. Tao chống cả Mỹ, cả cộng sản.”
Tôi đợi một lúc mới nghe giọng ông nói tiếp:
“Còn bà Hảo, có nhắn chi cho chồng thì nhắn. Nên nhắn hắn về mang đi mà hưởng vinh quang nghe.”
Tiếng người đàn bà khóc sụt sùi.
Tiếng mấy người giải phóng chào và tiếng chân đi ra. Oanh và Trúc chui
xuống hầm trước. Nó ghé sát tai tôi:
“Sợ không?”
Tôi không trả lời, dĩ nhiên là
chúng đã đoán được tôi sợ hay không rồi. Dù tôi đã nghe hết cuộc đối đáp
ở trên nhưng tôi vẫn cứ bắt Oanh kể lại. Trúc cười nhỏ nói có tên giải
phóng mê chị Oanh, hắn nhìn chị chằm chằm. Mấy ngày rồi mà hắn lơ không
bắt chị Oanh đi học tập. Việt cộng mà cũng biết mê gái rứa tề.
Trúc cười. Má tôi mắng:
“Ðồ con quỷ sứ. Mi cười chi rứa? Chết tới nơi mà không lo.”
Như sực nhớ tới hoàn cảnh, Trúc nín bặt. Oanh kể cho tôi nghe chuyện ông Minh. Nó nói:
“Khi em lên em thấy ôn thắp đèn
đánh máy. Ôn viết thư gửi ông Hồ Chí Minh, gửi tổng thống Mỹ, yêu cầu
ngưng chiến. Ôn viết : Nhà thờ Phan tiên sinh ngày… tháng… năm… Khi tôi
viết thư này gửi tới các ông thì trên đầu tôi máy bay rền rĩ, súng đạn
gầm thét long trời lở đất, thành phố Huế chìm trong tiếng khóc than oán
hận… Ôn viết rồi ôn xé, ôn đọc cho em nghe, ôn nói ôn kêu gọi cả thế
giới nữa…”
“Lúc bình thường không kêu gọi, bây chừ gọi ai nghe…”
Oanh tin tưởng:
“Ê, đừng nói bậy. Ôn định kêu gọi thanh niên sinh viên xuống cầu ngồi tuyệt thực phản đối nữa.”
“Phản đối ai?”
“Thì phản đối chiến tranh là vô nhân đạo, là tàn ác, không có chính nghĩa nào ở chiến tranh hết.”
Câu nói của cô em gái thật bình
dị, ngớ ngẩn như làm tim tôi thắt lại. Mấy hôm nay thành phố có bao
nhiêu người chết, bao nhiêu kẻ bị thương. Xác chết sình thúi trong nhà,
phơi ngoài đường không ai chôn cất. Rồi những người đi học tập đợt đầu
chưa thấy ai về hết. Họ còn sống hay đã chết rồi? Tôi nghĩ mà thương cho
ông già thổi sáo bên bờ hồ Genève ngày nào. Ông phản đối việc chia da
chẻ thịt cắt đất nước Việt Nam. Nhưng rồi chỉ một mình ông, tiếng kêu
trở nên nhỏ bé. Bây giờ tiếng kêu ấy lại cất lên còn yếu ớt thêm biết
bao nhiêu nữa!
Một lúc sau tôi lại nghe tiếng
lóc cóc đánh máy. Suốt cả ngày, mặc bom đạn, mặc đói khát, ông vẫn cứ
ngồi bên bàn máy đánh chữ với ngọn nến mù mờ. Buổi chiều có mấy thanh
niên chạy tới trú ẩn, ông cùng với họ đào hầm.
Tiếng cuốc đất thình thịch, tiếng máy bay liệng trên bầu trời. Khi tiếng máy bay vừa đi xa thì lại tiếng đại bác câu tới.
Cứ mỗi lần nghe có tiếng máy bay
nào bay tới gần là súng trường, súng tiểu liên, đại liên lại bắn như mưa
lên bầu trời. Các anh giải phóng núp ở hố cá nhân kháo nhau là hạ được
nhiều máy bay lắm, nhưng kỳ thực tôi chả nghe tiếng động nào gần khu vực
tôi ở để có thể tưởng ra có một chiếc máy bay rớt.
Buổi tối, mặc bên ngoài súng bắn
như mưa, súng lớn nhỏ nhắm bắn máy bay, mặc trời mưa tí tách lạnh buốt,
mặc bom đạn, mặc hỏa châu, ông Minh gọi hết thanh niên lên nhà, ngồi
đánh đờn và ca hát. Tôi mặc má tôi năn nỉ khóc lóc cũng chui lên khỏi
hầm nhập bọn. Ông Minh thật giỏi, không biết ông thổi được nồi cơm từ
lúc nào. Ăn cơm với nước mắm kho mặn mà sao ngon thế, tưởng cả đời mình
chưa có bữa cơm nào ngon hơn. Giọng ông Minh vẫn tin tưởng:
“Mình cứ kêu gọi hòa bình, cứ kêu
gọi thế giới. Ngày mai tao viết thư gửi nữa. Tao tổ chức tuyệt thực
phản đối Mỹ, phản đối Việt cộng, đứa nào dám theo không?”
Mọi người ngồi nhìn nhau, nửa
muốn hưởng ứng vì thấy giọng ông đầy hăng hái, nửa muốn phì cười vì đầy
tính chất mỉa mai khôi hài. Còn tôi, lúc đó chỉ muốn được yên thân, quốc
gia hay cộng sản lúc này chả có tý nghĩa lý gì hết nếu tôi không sống
được.
Cả thành phố Huế đang dẫy chết,
đang kêu than. Cả thành phố bụi mù bom đạn. Vậy mà những buổi học tập
của các anh giải phóng, theo lời các em tôi kể lại thì không còn màn
trình diễn nào khôi hài tài tình hơn. Học tập về đường lối đảng, về hòa
bình trong lúc bên ngoài sân, sau vườn đầy tiếng kể tội, tiếng hô giết
bỏ, thủ tiêu, tiếng rú não nùng của người dân vô tội. Hắn làm công chức?
Hắn làm bồi sở Mỹ. Tội nặng chất ngất mây xanh. Giết. Một loạt súng,
những xác người dãy dụa với bao nhiêu tội lỗi mà không hiểu, không nhắm
mắt được.
Thấy chúng tôi tần ngần nhìn nhau, ông Minh lại nói:
“Tụi bây không đi, tao đi một mình. Tao đi đánh lại cái đơn.”
Nhưng rồi ông chưa đánh đơn lại
vội. Ông lại bày trò ca hát, đánh đờn. Sợ mà tới khi chết cũng chết. Cứ
ca hát, ngâm thơ cho đỡ sợ hãi.
Rồi ông lại đề nghị:
“Ðứa nào có ống sáo không? Tao thổi lại bài hồi xưa tao thổi bên bờ hồ Lơ Man ở hội nghị Giơ Neo.”
Chả có anh nào dám mò đi lấy ống
sáo cho ông thổi. Cả bọn ngồi sát góc tường dày nhất sát miệng hầm để
nhỡ có gì thì chui xuống hầm cho nhanh. Trời bên ngoài mưa rả rích,
chúng tôi ngồi sát nhau mà vẫn thấy lạnh run.
Ðại bác vẫn câu lên đều đều. Có tiếng anh chàng giải phóng trẻ tuổi hỏi vọng vào:
“Sao không chui xuống hầm mà đàn hát ồn ào thế? Ðịch nó biết nó thả bom xuống đó.”
Chỉ có ông Minh dám trả lời:
“Cả thành phố chỗ nào mà chẳng có bom đạn. Chú em có muốn sống mấy phút cuối cho vui thì quăng súng đi, vô đây ca hát chơi.”
Anh chàng giải phóng bên ngoài im
bặt. Mấy sinh viên kể chuyện thì thầm về anh chàng này, cho biết mấy
hôm nay hắn có vẻ trầm tư lắm. Chắc hắn đã nhìn thấy cảnh máu đổ thịt
rơi và động lòng chăng. Ông Minh cười:
“Con người cộng sản làm gì có
tình cảm. Chúng nó chỉ có mục đích là thắng, diệt, tiến tới. Tao ở với
chúng nó lâu rồi tao biết.”
Ông nói thêm:
“Phải nhìn nhận chúng nó tổ chức giỏi nhưng về mặt tình cảm thì bết lắm.”
“Vậy ông là người quốc gia rồi.”
“Tao không ủng hộ Mỹ, tao không chịu cộng sản. Tao chống lung tung hết.”
“Ông chống một mình.”
Dưới ánh nến, khuôn mặt ông Minh
rắn chắc lại và nổi lên nhiều đường nhăn, ông nhìn về phía bệ thờ cụ
Phan. Tiếng súng bên ngoài lại nổ. Họ tấn công chăng? Ðánh nhau chăng?
Thà đánh nhau khốc liệt đi để hoặc chúng tôi sống hoặc chết. Cứ ngồi
dưới hầm, nghe các em nghe mạ tôi kể lại những người chết bên ngoài tôi
như ngồi trên đống lửa đỏ. Tôi cũng không cần biết sự trốn tránh chui
nhủi như thế này có hèn không nữa.
Có tiếng động ở cửa hầm, bà Hảo lại bò ra nhìn ông Minh, khóc:
“Ôn ơi, đêm ni coi bộ dễ sợ quá.”
Một giọng thì thầm bên tai tôi:
“Không biết ông giáo sư của chúng ta lúc này đang làm gì. Chắc đang họp cách mệnh với cách miệng.”
“Ông mà bắt được mày chắc ông chả nhớ tình thầy trò nữa đâu.”
Ông Minh dỗ cho người đàn bà đi
xuống hầm. Tôi lần mò ra tới cửa nhìn ra ngoài bóng đêm. Bóng đêm nặng
nề dầy đặc những bí mật, những đe dọa chết chóc, u uất tử khí. Nhưng tôi
cũng hình dung ra được ở góc nào là cái bể nước, ở góc nào là hàng chè
tàu, góc nào là khóm mía. Những lá cây đen bóng lung linh như kêu gọi
tôi tưởng tượng đến đủ thứ. Giá lúc này tôi được hòa mình vào bầu trời
đêm, được đứng trước sân ngẩng mặt lên trời hứng những giọt mưa đầu xuân
mát rượi, ngọt lịm. Giá tôi được đi dạo trong khu vườn rộng này một
mình như những tối mới trước Tết đây, dạo trong vườn và ngửa mặt nhìn
bầu trời đen để tưởng tượng ra khuôn mặt người yêu.
Có tiếng động ở ngoài vườn. Tiếng
chân người di chuyển. Chắc các anh giải phóng đang liên lạc với nhau.
Khu vườn đất mịn màng trải đầy lá cây khô còn đâu nữa. Tất cả đã bị đào
xới thành những hầm hố, hoặc bị cày nát từ lâu vì những mảnh đạn. Một
thân cây nào đó trong vườn gẫy mắc qua mắt tôi. Cây vú sữa, cây mãng cầu
hay cây nhãn lồng gì đó. Tôi đoán ra sự không còn nguyên vẹn của khu
vườn, và ao ước một buổi sáng còn sống để đi ra vườn, đi ra cổng nhìn
con đường, nhà cửa quen thuộc.
“Ngày mai tao không thể ở nhà được nữa. Người chết nhiều rồi, tao phải đi tải thương, đi cứu trợ. Tụi bây đi với tao hí.”
Tôi không nghe tiếng một cậu nào
trả lời hết. Có mấy thanh niên ở trong nhà này, nhờ sự bướng bỉnh cứng
rắn của ông Minh mà chưa bị họ bắt đi. Tôi nghĩ tại vùng này vẫn còn ở
trong sự kiểm soát của họ, sinh mạng người dân còn chặt trong tay họ, họ
chưa ra tay đó thôi. Em tôi kể: họ đem rất nhiều người ở xóm khác về
rồi tuyên án thủ tiêu, xử tử ngay tại đây. Những xác chết được vùi lấp
vội vàng không có một tấm chiếu để gói.
Ðã đến giờ cú rúc. Tôi đi lùi
lại. Ông Minh nói thôi giải tán rồi thổi phựt ngọn đèn. Các thanh niên
sinh viên khác về hầm ngủ. Chỉ có ông Minh không chịu ngủ hầm. Tôi thận
trọng bò vào hầm, bò qua má tôi, các em tôi rồi nhiều chân người khác
nữa mới tới cái ngách hầm, nơi trú ẩn mà đối với tôi lúc này là an toàn
nhất. Tôi vừa mệt mỏi, vừa chán nản nên đặt mình xuống là ngủ ngay.
Sáng ngày ra, tôi nghe tiếng lao
xao trên miệng hầm. Mọi người đã ra ngoài hầm hết. Tôi định chui ra
nhưng má tôi la: Khoan đã. Trúc chui vào báo cho tôi biết từ sáng tới
giờ không thấy đại bác câu tới nữa. Quân giải phóng cũng rút lên phía
nghĩa địa, chỉ còn một số canh giữ từ dưới cầu lên khỏi dốc thôi.
Ông Minh nói chuyện rất lớn giọng:
“Chắc chúng nó đi tập hợp gì đó.”
Một lúc sau Trúc xới cho tôi một
bát cơm và dặn đừng có lên. Bên kia trường học, mấy thanh niên bị họ bắt
lên trên đó hết rồi. Tôi hỏi mấy thanh niên sinh viên bên kia hầm thì
sao. Trúc cho biết họ đã tản mát hết, ông Minh đã lo sẵn chỗ núp cho họ.
Tôi nghĩ tới tiếng đàn tiếng hát giữa trưa, giữa đêm. Mấy anh giải
phóng gác ở bên ngoài biết tê đi là bên trong nhà thờ có thanh niên trú
ẩn. Nhưng tôi cũng chẳng lo lắng lâu hơn nữa vì tôi nghe thấy tiếng lợn
kêu và tiếng mọi người lao xao. Một con lợn bị giết. Bữa cơm trưa này
chắc sẽ có món ăn ngon. Giữa lúc này mà có một miếng thịt lợn thì thật
là may mắn, món ăn cao lương mỹ vị sang trọng quá chừng.
Tôi nhấp nhỏm ở miệng hầm:
“Má, ai mần thịt heo rứa?”
“Khỉ, vô trong đi.”
“Thịt heo há má?”
“Bên nhà chị Tính, ôn Tôn mần heo đó. Chút nữa chia một ít kho để dành ăn.”
Tôi reo như trẻ con:
“Má nhớ lấy phần ít mỡ kho mặn nghe má.”
“Thôi khỉ, vô đi, chết đến nơi mà không lo, ăn với uống.”
Tuy nói vậy nhưng má tôi cũng lần
mò sang nhà bên cạnh để chia một phần thịt heo. Trưa hôm đó tôi nằm
dưới hầm ngửi mùi thịt kho thơm phức muốn ngạt cả mũi. Tôi quên hết mọi
khổ ải, mọi lo sợ. Cứ thế này chắc sắp yên ổn rồi. Từ sáng tới giờ thỉnh
thoảng có vài tiếng đại bác câu rất xa, như ở phía Trúc Lâm, Tây Thiên
gì đó. Xa lắm mà.
Nồi thịt như thấm mặn thật lâu,
sự chờ đợi làm tôi bồn chồn cả ruột gan nhưng cũng làm cho tôi thêm phần
sung sướng. Trúc hích tôi:
“Anh ngửi mùi thịt mê chưa? Em nghĩ tới lúc miếng thịt… ngon lắm hỉ?”
Tôi chưa kịp phát biểu ý kiến thì Oanh thò đầu vào:
“Ê, họ về đông lắm. Họ đào thêm hầm hố và chia giữ các ngã đường, các vườn.”
Trúc trầm ngâm:
“Sáng họ rút rồi mà.”
“Họ mang theo nhiều súng đạn lắm. Có cả xe bò chở đạn nữa. Ðậu ngoài ngõ mình a tề.”
Rồi giọng nó run run:
“Dễ sợ lắm anh ơi, khi hồi em
chui qua nhà ông Tôn coi chia thịt heo với má, thấy có con chó tha khúc
tay hay chân chi của trẻ con, nó gặm thịt sống. Thấy rứa em sợ thịt heo
quá trời.”
Trúc kêu lên:
“Dễ sợ.” Rồi nó co người lại: “Rứa mà chị cứ chạy qua ôn Tôn được.”
“Mô có. Tao sợ quá tao nhảy lùi
lại. Nghe tiếng động, tên lính giải phóng canh ở ngoài chạy vô bồng súng
định bắn. Tao sợ quá la lên. Hắn thấy con chó đang nằm gặm xương, hằm
hè nhìn, hắn nhăn răng cười rồi hỏi có muốn qua bên đó tui dẹp đường
cho. Tao sợ quá làm thinh. Hắn nói: Cô đừng sợ, chắc con chó tha ở đâu
đến đó. Rồi hắn cầm đá liệng con chó cong đuôi chạy mất, cái khúc thịt
đó còn ở nơi bụi đó, dễ sợ quá chừng.”
“Hắn noái chi với chị nữa khôn?”
“Hắn nhìn chị. Chị vừa sợ vừa dị.
Dị òm rứa thê. Rồi hắn noái: Cô sợ tui lắm hả? Tao phải noái: Dạ sợ chi
mà sợ. Không biết mần răng hắn cũng mần thinh luôn. Rồi lủi đi ra cửa
lại. Tao chạy một mạch vô nhà. Khi hồi má bắt tao xắt thịt heo để kho,
tao buồn mửa mấy lần.”
Oanh vừa nói vừa đưa tay che
miệng muốn oẹ. Mùi thịt kho vẫn bay vào quyện lấy mũi tôi, hết sức hấp
dẫn. Câu chuyện của Oanh chả làm tôi gớm sợ mùi thịt kho chút nào. Ðã
lâu rồi, không ngày nào tôi được ăn no, có ngày nhịn đói nữa.
Oanh cầm tay tôi nói:
“Anh nghe cho coi, họ đào hầm đó.”
Tôi nghe tiếng cuốc đất, tiếng
chân người đi lại. Tiếng mệ Khái nói đóng hết cửa ngõ. Tôi nghĩ thầm,
đóng kín cửa để che người nhưng đâu có che mùi thịt kho. Dám mấy anh
giải phóng vào thăm vì mùi thịt kho lắm. Tôi cũng không nghe tiếng ông
Minh nữa. Em tôi cho biết ông đã tải cái bị gạo leo xe đạp đi từ hồi
sáng rồi. Chúng nói ông đi phát gạo. Một lúc có tiếng người ở ngoài vọng
vào:
“Các mẹ giải phóng làm ơn tắt giùm bếp, sợ khói máy bay nó biết nó bắn.”
Má tôi cũng là mẹ giải phóng rồi
đó. Bếp tắt cái rụp nhưng mùi thịt kho đâu có tắt nổi. Tôi tưởng tượng
ra nhiều cái miệng đang nuốt nước bọt xuống cổ. Tôi lại ló đầu ra:
“Má, chín thịt rồi chớ má?”
“Khỉ, vô đi. Ðể cho nó thấm chút đã nào. Con Trúc mô rồi, ra lấy nồi cơm nguội khi hôm ra đây hâm lại mà ăn.”
Trúc vừa dợm dậy thì có tiếng hô to ở bên ngoài:
“Xuống hầm hết, máy bay tới.”
Khi tiếng hô vừa mới gióng lên
tôi vẫn thấy bầu trời êm tịnh, vậy mà liền đó đã có tiếng máy bay ào
tới, phút chốc đã ở trên đầu rồi lượn vòng. Chỉ mấy phút sau rốc két bắn
xuống như mưa. Mọi người tràn xuống hầm hết. Một con chó mực mắt xanh
lè cứ hầm hè muốn chui xuống hầm. Mệ Khái phải cầm con dao liệng kêu cái
kẻng, con chó mới chịu chạy ra lối khác.
Tiếng rốc két bắn như mưa, đạn
như đang trút xuống đầu chúng tôi vậy. Chúng tôi ôm chặt nhau, người này
sát vào người kia như tìm thêm ở nhau chút nương tựa. Có tiếng sụp đổ
phía trước, phía sau, có tiếng kêu khóc ở nhà bên cạnh, tiếng hô của các
anh giải phóng, cả tiếng thét lên như bị cắt họng nữa. Lúc nẫy, con heo
bị chọc tiết cũng kêu lên bi thảm như thế, sao tôi chả thấy gì cả.
Ầm một tiếng. Có nhiều miếng ngói
lở, rồi tiếng bụi cát rơi rào rào. Tiếng hô, tiếng gọi nhau của mấy anh
giải phóng ở ngoài vườn. Tôi nghĩ chắc họ có nhiều người bị thương lắm.
Một lát sau, tiếng súng dưới đất bắn trả kịch liệt. Tiếng đạn từ trên
trời trút xuống cấp bách hơn. Tôi chìm đi, tai ù, ngực như nghẹt thở và
cứ nằm bẹp dí ở góc hầm, tay chân không còn cất lên được nữa.
Ðộ hai phút sau thì tiếng súng
trên trời thưa dần mà máy bay cũng đi mất, chỉ còn tiếng súng dưới đất
bắn lên thì vẫn đì đẹt nổ thêm vài phút nữa, cho tới khi có lệnh
truyền:
“Ngưng.”
Tiếng ngưng đi từ góc vườn này
qua góc vườn khác, vang vang trên mặt đất và tiếng súng cũng tắt dần,
dồn về vài tiếng lẻ trước khi ngưng hẳn. Má tôi dặn không được đứa nào
trồi lên miệng hầm hết. Có tiếng đấm cửa:
“Có ai trong nhà ra công tác giùm.”
Tôi đoán chắc lại bắt đi khiêng
xác chết, xác bị thương. Má tôi ra dấu cho mọi người im lặng. Nhưng
không được, cánh cửa bị báng súng dọng mở toang, nhiều tiếng chân đi vô
nhà:
“Tất cả lên khỏi hầm hết.”
Má tôi lên trước, rồi tới mấy bà
già, mấy chị đàn bà ôm con. Trúc ở lại với tôi, còn Oanh cực chẳng đã
phải chuồi lên. Một bà già đưa cho nó đứa nhỏ mới đầy năm, mẹ nó đã chết
từ hôm tiếng súng đầu tiên nổ. Oanh bọc kín đứa nhỏ trong tấm khăn
bông, run rẩy lên khỏi miệng hầm. Tôi nghe tiếng đàn ông hỏi:
“Ai không có con dại?”
Hình như vài chị đàn bà phải đi. Có tiếng anh chàng giải phóng trẻ tuổi vẫn gác ngoài ngõ nói:
“Cô này mới đẻ dậy, đang yếu.”
Vậy là thoát được rồi. Hú hồn cho
con Oanh. Một lát sau tôi thấy nó bế đứa nhỏ xuống, tay chân nó vẫn như
còn run rẩy. Tôi đỡ đứa bé cho nó và mừng thầm là đứa nhỏ đã ngoan
ngoãn không khóc. Tôi nào ngờ nó thiếu sữa, đói lả, không còn sức để
khóc nữa. Bởi lẽ ấy, đêm đêm, nhiều khi tôi nghe tiếng trẻ khóc nhỏ, yếu
ớt như tiếng mèo kêu.
Tôi hỏi Oanh:
“Chúng nó bắt những ai?”
Giọng tôi hỏi thật nhỏ, nhưng
Oanh đưa tay ra dấu ngăn tôi lại. Tiếng chân đi ra khỏi nhà. Vừa lúc đó,
tôi nghe như có tiếng xe đạp đỗ ở ngoài sân, rồi giọng ông Minh vào gần
dần:
“Răng? Ở nhà có ai bị chi không? Tao lo quá.”
Tiếng người đàn bà vợ ông giáo sư Hảo khóc thút thít. Tiếng má tôi tường thuật lại chuyện nhà. Giọng ông Minh vẫn rổn rảng:
“Coi, xuống hầm hết đi, máy bay tới chừ đó. Các nơi nát hết rồi. Chắc quân bên này đang dàn trận vào thành phố.”
Tôi lắng tai nghe. Giọng ông Minh hơi nhỏ xuống:
“Tởm lắm. Tao đi từ dưới đường
lên đây mà gặp đầy xác chết. Tụi họ không rứa bây. Chết trong hố, chết
bên cạnh tường, chết nằm sấp mặt xuống đường. Tao đi từ ngoài ngõ vô đây
mà thấy đầy máu. Tao cứ kêu trời: Ôi thôi, xong rồi, ở nhà còn chi nữa.
Khi vô nhà, thấy tụi nó đi ra theo lối sau vườn. Răng, không có ai bị
thương chớ?”
Tôi ló đầu lên, hỏi:
“Ôn, tình hình bên ngoài ra răng?”
“Tao gặp bọn chỉ huy của chúng nó rồi.”
Ông cười, móc ra cái giấy:
“Nó rủ tao ghê lắm, nhưng tao bảo
tao chống lung tung hết. Tao không sợ bên nào. Mục đích của tao lúc này
là đi cứu thương, đi phát gạo, cứu được ai thì cứu. Cái thằng chỉ huy
vùng ni, nó có vẻ khôn lanh lắm. Nó cấp cho tao cái giấy đi đường, đi
trong vùng họ kiểm soát lúc mô cũng được. Ðây nì…”
Ông đưa cái giấy về phía tôi. Nhưng má tôi đã nạt:
“Thằng ni thiệt, xuống dưới nớ ngồi không mi? Thôi ôn ơi, hay ho chi giấy tờ quỉ nớ mà khoe. Có nó thêm mệt.”
Ông Minh cười đôn hậu:
“Tau đã noái tau là người quốc tế mà. Cộng sản cũng không làm chi được tau, tụi bây thấy khôn?”
Tôi tò mò muốn đọc tờ giấy đó lắm nhưng má tôi đã nhìn tôi gằm gằm. Sợ bà buồn tôi vội chui xuống hầm. Oanh lại thò đầu lên:
“Ôn mần rằng mà tải thương đó ôn?”
“Tau đặt họ lên xe đạp đẩy đi.
Nhà thương bỏ hoang rồi, tau đưa đại họ vô mấy trạm cứu thương bắt băng
bó. À này Oanh, mi tìm cho tau mấy thằng sinh viên y khoa. Quanh mấy nhà
này, tau biết tụi nó trốn thiếu chi. Mi đi liên lạc dùm hỉ?”
“Ông nội con cũng không dám. Ra ngoài cho bị đạn chết hả?”
“Con ni nhát quá, thôi để tau lo.”
Tiếng má tôi bỗng la lên thảng thốt:
“Thôi rồi…”
“Chi rứa?”
“Thôi rồi, chết rồi…”
Giọng Oanh hốt hoảng:
“Chi rứa má?”
“Trách thịt kho…”
Tôi không dằn được, tranh với Oanh thò đầu lên khỏi miệng hầm:
“Răng má?”
“Ðổ bể hết rồi, còn chi nữa…”
Tôi nhìn lại phía bếp dầu, ngay
trên trần nhà, một mảng ngói bị vỡ, trách thịt bằng đất cũng vỡ, những
miếng thịt trộn lẫn với gạch cát nằm lăn lóc. Từ nãy giờ mãi căng thẳng
vì nhiều biến cố dồn dập, tôi cũng quên mất hẳn nồi thịt kho. Ðến bây
giờ thì thôi hết rồi. Thấy mấy mẹ con tôi tiếc ngẩn ngơ, ông Minh cười:
“Ôi, tiếc chi mấy chút đó. Tau có hái về mấy trái su đây nì. Tau lên thấu trên rẫy chớ chơi mô.”
“Ôn lên thấu trên đó. Trời, trên đó ra răng ôn?”
“Thì ai vẫn ở yên nhà đó. Họ đóng
hẳn trong nhà dân à nghe. Có mấy cái nhà dưới độn bỏ không, tau thấy
mấy dàn su ngon quá. Tau hái được nhiều lắm, phát hết rồi, còn mấy trái
đứa mô lấy thì lấy.”
Oanh reo lên:
“Ðẹp quá. Trái su đẹp quá.”
Tôi chả thấy trái su đẹp đẽ gì.
Nồi thịt đã vỡ, nhưng mùi thịt kho vẫn còn phảng phất. Tôi nuốt nước
miếng và buồn bã chui xuống.
“Anh tiếc nồi thịt lắm hả?”
“Ờ.”
“Em thì chỉ thích yên cho rồi. Mấy bữa, họ nói chỉ ở chơi với dân một tuần lễ, răng họ ở lâu rứa?”
“Ai biết đâu đó, con nhỏ này thật tin người.”
Oanh lại nói tiếp:
“Mấy ngày đầu, mấy cô cán bộ tập
xe đạp vui quá, mà họ chả biết chi hết anh hí, đồng đội của họ chết rần
rần mà họ cứ giỡn hớt vui chơi như không. Mấy hôm đầu, mấy cô nói với em
sẽ tổ chức văn nghệ liên hoan nữa, rồi họ tổ chức chi mô!”
“Bắn nhau như mưa rứa mà liên hoan chi.”
“Mà họ xử tử người ghê quá anh.
Em thấy họ bắn hai học sinh hay sinh viên chi đó trong vườn bác Bốn tề.
Ðể em kể cho nghe. Chính cái tổ trong vườn mình bắn chứ ai. Em nghe cái
thằng nhỏ nhỏ ngoài cổng hay nhìn em đó, nó noái có xử thì để cấp chỉ
huy hay tòa án nhân dân xử, đừng có thủ tiêu. Mấy tên kia nói đồng chí
chỉ có tinh thần chủ bại. Rồi họ bắn. Trời ơi, em nhắm mắt.”
Oanh nói gì thì nói, tôi vẫn còn
tiếc nồi thịt kho. Gần tuần lễ ăn kham khổ bữa đói bữa no, bao tử tôi
như đã teo lại. Tôi nằm mọp xuống chiếu miệng sùi bọt mép. Cơn đói lại
kéo tới hành hạ làm tôi khổ sở điêu đứng. Con gái nhịn đói thật tài,
Oanh và Trúc bữa ăn bữa không mà vẫn tỉnh như sáo sậu. Còn tôi sắp phải
thiếp đi rồi đây.
Buổi chiều, khi tỉnh dậy, thấy
xung quanh mình vắng ngắt. Mọi người đã bỏ tôi để tản cư đi hết chỗ khác
rồi phải không? Tôi hốt hoảng đưa tay sờ soạng, phải lâu lắm tôi mới
nhìn thấy chút ánh sáng từ miệng hầm hắt vào, lần lần tôi nhìn rõ bàn
tay tôi. Nhưng tôi chưa dám lên tiếng gọi hay bò ra miệng hầm mà yên
lặng nghe ngóng. Hình như trên nhà có tiếng bát đũa khua rổn rảng, nhưng
không có một tiếng người. Cả tiếng động ngoài vườn ngoài sân cũng vắng
nữa. Cố gắng mãi để tập trung thính giác, tôi mới nhận ra tiếng va chạm
của đũa bát, chắc cả nhà đang ăn cơm ở trên hầm. Sao không ai đánh thức
tôi dậy? Sao cả nhà nỡ để tôi cùng quẫn với cơn đói lả. Không, tôi phải
bò lên để cho cả nhà biết là tôi được quyền góp mặt trong bữa cơm gia
đình. Tôi mệt lả nhưng cố gượng để bò lên miệng hầm. Tiếng va chạm bát
đũa, tiếng nhai nuốt chứng tỏ những kẻ đang ăn uống hết sức thô lỗ. Chắc
đã yên rồi và cả nhà đang sung sướng với bữa cơm no nê. Tôi cố bám vào
hai bên mép thành đất, ló đầu ra ngoài.
Tôi có nằm mơ chăng? Tôi còn sống
hay đã chết đói? Không, tôi không phải là con ma đói, tôi còn sống đàng
hoàng mà. Mâm cơm nào bày ra với những khuôn mặt lạ hoắc vậy? Tôi mở
lớn mắt nhìn rồi ngã rơi đánh bịch xuống đáy hầm. Tiếng động của chính
mình làm tôi sợ hãi tột độ. Họ đã nghe, họ sẽ vào lôi cổ tôi ra và một
phát súng sẽ nổ. Cơn đói của tôi tiêu tan đâu hết. Mâm cơm đúng là chén
bát của gia đình tôi, nhưng tất cả gia đình tôi và những người trú ẩn
trong nhà thờ đang ngồi ở góc nhà, ủ rũ, lo sợ. Năm sáu anh giải phóng
đang ngồi ăn cơm ngon lành, không ai nói với ai một lời, họ ăn hối hả
như người sắp chết đói vớ được bữa cơm. Tôi nằm lặng đi một lúc không
thấy động tĩnh gì thì lại hồn trở lại. Nhưng vừa lúc đó, tiếng máy bay
lại ào đến, rồi đại bác câu tới. Tiếng chân của mấy anh giải phóng chạy
ra khỏi nhà: Cám ơn mẹ giải phóng. Tiếng một người đàn ông vọng vào rồi
chìm trong tiếng đạn rốc kết bắt đầu bắn xuống. Mọi người tràn vào hầm.
Trúc lấn gần lại phía tôi:
“Anh mô rồi?”
Tôi trả lời yếu ớt. Oanh nhét cho tôi nắm cơm vắt nói:
“Khi hồi xới cơm cho họ, em lén vắt một vắt dấu trong áo cho anh nì.”
Tôi không còn đủ sức để đưa tay
ra cầm nữa. Trúc rứt từng miếng cơm đút vào miệng, tôi nhai nuốt vội
vàng cùng đống nước bọt còn đầy ứ trong miệng. Dù sao một vắt cơm nhỏ
lúc này đối với tôi cũng quý hơn mọi món ăn cao lương mỹ vị ở trên đời.
Má tôi lầm bầm:
“Ðang dọn cơm định xuống đánh thức con dậy ăn thì họ vô. May mà con chưa lên. Rứa là phải mời, họ ăn liền.”
Oanh kêu nhỏ:
“Ăn rồi cám ơn rối rít, mẹ giải phóng tốt, chị giải phóng tốt, tốt hoài kiểu này chắc chết quá.”
Nhưng Trúc bênh:
“Thì ở mô cũng có người tốt người xấu. Cái anh giải phóng trẻ tuổi chả đem cho mình chục lon gạo là chi. Anh lấy mô rứa hè?”
Không ai trả lời thắc mắc cho Trúc. Rốc kết như ném ngay trên đầu. Má tôi đoán chừng:
“Bắn ở đây chắc đạn trút xuống ở Bến Ngự.”
“Chắc dưới chợ.”
“Dưới đường rầy.”
“Xì, hơi mô mà cãi, tới phiên Từ Ðàm bây chừ đó.”
“Dưới cầu họ vẫn còn đóng. Khi
trưa tui thấy mấy nhà đi tản cư bị họ đuổi lên vừa chạy vừa khóc. Xóm
mình có nhiều người bị thương lắm nghe.”
“Ôn Minh đi mô hỉ?”
“Ôn lại đi phát gạo, đi tải thương rồi.”
“Cái ôn chi thiệt khùng, thời buổi ni, ai có thân nấy lo.”
Tôi nằm im nghe máu thấm trong
từng mạch nhỏ. Mắt tôi đã hết hoa, tay chân tôi đã hết run rẩy. Tôi bớt
sợ rốc kết hơn, nhưng đồng thời tôi cũng hiểu rằng mọi thứ chết súng
đạn, hay chết đói khát đều kinh khủng như nhau. Mà gạo trong nhà, mấy
anh giải phóng đã mượn khuân đi hết. Tình trạng này kéo dài thêm vài
tuần nữa chắc là chúng tôi chết đói hết. Má tôi than thầm với một bà
bạn:
“Thời buổi như ri mà ôn Minh còn vác về mấy cậu sinh viên. Có đàn ông trong nhà phiền ghê lắm.”
Chắc má tôi lại lo sợ cho tôi.
Mọi khi, tôi giận má tôi ghê lắm nếu nghe má tôi phàn nàn như thế, nhưng
lúc này, tôi thấy bà nói hợp lý. Oanh thì thầm:
“Ôn đem mấy anh nớ về để đi băng bó cứu thương.”
Tôi càu nhàu:
“Họ bắt giết hết cho coi.”
Oanh tin tưởng:
“Ôn có giấy của mặt trận để đi đường mà. Còn ôn thì khỏi sợ đi.”
Ðúng lúc đó, có tiếng đập cửa.
Không biết ai đập cửa mà tim mọi người như ngừng đập. Tiếng rốc kết bên
ngoài vẫn ròn rã như mưa. Tiếng đạn từ dưới đất bắn lên vẫn rào rào.
Phía này chóc chóc, phía kia tạch tạch. Ðủ các cỡ súng chĩa lên trời.
Tiếng đập cửa càng gấp rút hơn, rồi có tiếng la nữa, nhưng chúng tôi
không thể nào nhận ra tiếng của ai. Oanh nhấp nhỏm:
“Hay ôn Minh về.”
“Suỵt đừng noái. Kệ ai thì ai. Im hết đi, trời ơi.”
Tiếng đập cửa vẫn liên tục, rồi có tiếng dộng cửa thình thịch. Trúc cương quyết:
“Ôn Minh về rồi đó, chắc chắn mà.”
Không nói thêm một tiếng, nó tuôn
chạy ra khỏi hầm. Má tôi níu theo mà không kịp. Bà chỉ biết kêu trời
kêu đất. Tiếng mở cửa rồi tiếng chân hai ba người kéo vào, rồi tiếng
Trúc kêu rú lên. Tôi hốt hoảng chụp vai má tôi:
“Chết rồi.”
Má tôi vùng chạy ra khỏi hầm quên hết mọi nguy hiểm. Nhưng cùng lúc đó, tôi nghe tiếng ôn Minh:
“Mau đem thuốc, đem băng ra đây.”
Tiếng Trúc:
“Mần chi còn băng. Kêu mấy anh y khoa hỉ?”
“Mau lên.”
Nhiều người nữa đi ra khỏi hầm.
Tôi cũng tò mò ngóc đầu lên miệng hầm để nhìn. Trong ánh sáng lờ mờ hắt
từ ngoài bầu trời thảm đạm vào, tôi nhìn thấy hai người đàn ông máu me
bê bết. Một người mắt còn mở lờ đờ, một người mắt khép như đã chết rồi,
anh ta để lộ một mảnh đầu trắng hếu như lòi não.
Tôi hỏi Trúc:
“Ai đó?”
Trúc lắc đầu. Mặt nó tái xanh.
Nhưng rồi nó cũng phụ với mọi người băng bó cho hai kẻ bị thương. Máu
chảy đọng vũng giữa nhà. Trúc vừa che mặt vừa xé cái áo cánh trắng để
làm băng. Ngoài đường, ngoài vườn lại có nhiều tiếng hét lớn. Chắc lại
có kẻ bị thương rồi.
Ôn Minh ngoắc tôi lên:
“Lên đây, mắc đánh nhau, họ không vô bắt mô mi sợ.”
Tôi lên đứng cạnh hai người đàn
ông bị thương. Tiếng rốc kết đã thưa dần, nhưng máy bay vẫn còn lượn
thêm nhiều vòng ở trên trời. Tiếng đạn dưới đất bắn lên cũng thưa thớt
hơn. Rồi một toán hàng xóm xông vô nhà, họ kêu khóc như ri:
“Nhà tui cháy rồi bà con ơi.”
“Thằng con tui chết không mang đi được.”
“Ôn Minh ơi, sang đem thằng con nhỏ của tôi qua với. Nó bị kẹt giữa đống gạch rồi.”
Ðám đông kêu khóc như ri. Má tôi
lại hỏi thăm tin tức bên ngoài. Ôn Minh giao hai người bị thương cho
chúng tôi rồi băng ra ngoài cửa. Tôi chỉ kịp kêu một tiếng:
“Ôn…”
Một loạt súng nổ ròn ngay đầu
cổng. Thôi rồi, chắc ôn Minh đã bị thương. Oanh đẩy cửa: Ôn ơi, ôn ơi.
Nó chạy ra nhưng má tôi đã ngăn kịp. Tiếng ôn Minh nạt nộ ai ở đầu ngõ.
Oanh vừa quay vào thì có tiếng đẩy cửa. Người lính giải phóng trẻ tuổi
gác trước cổng nhà đi vào. Hắn ôm một cánh tay. Má tôi vội đẩy tôi xuống
hầm trước khi hắn nhìn ra kịp.
“Răng rứa, ôn.”
“Cháu bị thương. Mẹ giải phóng cho cháu xin chút băng băng lại.”
Oanh nhanh nhẩu:
“Hết băng. Mấy hôm ni áo xé băng còn không đủ.”
“Coi giùm còn chút thuốc nào không.”
Oanh cay chua:
“Vậy các đồng chí cứu thương mô
rồi. Các cô nữ cán bộ cứu thương mô rồi. Mấy ngày ni tụi tui chờ họ tới
để xin thuốc mà chẳng thấy họ mô hết.”
Tôi không nhìn mặt anh giải phóng, nhưng biết hắn đang xúc động hoặc đau đớn lắm vì giọng hắn run run:
“Tôi bị nhẹ, có kẻ bị nặng hơn tôi.”
Vừa lúc đó tôi nghe giọng ôn Minh. Ôn bế vào một đứa bé thì phải, tôi nghe giọng trẻ con khóc.
“Con Oanh, con Trúc, lấy áo ra mần băng mau lên.”
Tiếng chân Oanh chạy đi. Tiếng ôn Minh nói:
“Ủa, đồng chí cũng bị thương hả? Vô đây chi vậy?”
“Xin ông một chút thuốc, xin miếng vải băng lại.”
“Nặng hay nhẹ?”
“Nhẹ thôi mà.”
“Khỏi, lấy vôi mà bôi vô cũng sát
trùng rồi. Mần chi có thuốc, còn chút thuốc để cứu người khẩn cấp. Bình
vôi nơi góc nhà a tề.”
Vẫn giọng ôn Minh:
“Nơi góc nhà có đồng chí của anh
đó. Tôi đã băng bó xong, anh coi sáng yên thì đem họ về bộ chỉ huy để
chăm sóc. Coi khó sống đó.”
Thì ra hai người ôn Minh vừa vác
về, có một người là Việt cộng. Ôn Minh không phân biệt gì hết, ông chỉ
cứu người bị thương. Tôi nghe giọng anh lính trẻ cố thản nhiên nhưng che
giấu nhiều cảm động:
“Cám ơn cụ. Bác và Đảng sẽ nhớ ơn cụ.”
“Tao hả? Tao không cần Đảng,
không cần Bác. Tao chỉ biết hắn là người, hắn đau thì tao cứu. Mả cha nó
bắn nhau, giết nhau, chỉ có dân khổ.”
Anh lính giải phóng e dè:
“Trong khu nầy có nhiều loại cán bộ, cụ không nên ra ngoài nhiều, lỡ họ hiểu lầm thì phiền lắm.”
“Tao hả? Tao người quốc tế mà. Ông Hồ cũng phải nể tao, ông tổng thống Mỹ cũng nể tao, vì tao có chính nghĩa.”
Ôn vẫn tiếp tục cười gằn. Tôi không nghe tên lính giải phóng nói thêm gì hết.
Trúc bò xuống cạnh tôi:
“Hết bắn nhau rồi anh.”
“Ừ.”
“Chết bất loạn. Ðầu ngõ mình cũng có tề. Anh sợ khôn?”
“Tao thấy chi mà sợ.”
“Chắc mình phải tản cư. Ở đây mần răng cũng chết.”
Tôi không ừ hử. Tôi lắng nghe tiếng động trên miệng hầm. Tiếng mấy người bị thương rên hừ hừ. Tiếng người đàn ông lạ yếu ớt:
“Ðồng chí ở tổ nào?”
“Tổ bốn chín.”
“Ðem tôi về bộ chỉ huy được không. Tôi muốn gặp người quen để nhắn ra Bắc.”
“Ðồng chí nhắn đi, tôi gửi giúp cho.”
Giọng người đàn ông yếu hơn:
“Không, tôi chưa chết. Tôi chưa thể chết được. Ðem tôi về… Tôi muốn…”
Tiếng nói cắt đứt nửa chừng.
Ngoài cửa, có nhiều tiếng chân rồi tiếng người lao xao. Tải thương.
Giọng ôn Minh: Có cứu mấy người đang bị thương không, tui gửi với.
“Không, chỉ tải thương quân giải phóng.”
Tiếng đại bác lại câu lên. Nhưng
công việc tải thương vẫn tiếp tục. Thanh niên thiếu nữ bị bắt đi làm
công tác. May mắn làm sao, Oanh và Trúc vẫn trốn được. Ôn Minh nhất định
không đi, hình như ôn có đưa cái giấy di chuyển trong vùng kiểm soát
của quân giải phóng ra dọa. Một lát họ rút đi hết, ôn Minh ra lệnh cho
mọi người mới đến tị nạn tìm chỗ dựng hầm. Hết chỗ đào xuống đất, họ
dựng hầm nổi. Những cánh cửa được tháo xuống.
Chúng tôi cũng nhất định sửa sang
lại căn hầm. Mặc tiếng máy bay, mặc đại bác, trẻ con người lớn ra sân
đào đất đem vào đổ cho đầy trên hầm, càng dày càng tốt. Có mấy người bị
thương chết, những xác này được đem ra sân chôn, nhưng cứ vừa ra đào là
máy bay đến, thấy bóng người dưới đất là rốc kết bắn xuống. Mọi người
chạy tán loạn. Mấy anh giải phóng trong các hố cá nhân nguyền rủa om
sòm. Họ nổi sùng bắn luôn mấy tràng đạn băng qua đầu đám người đang chạy
tán loạn. Không ai nghĩ tới việc chôn xác chết nữa, và cũng không ai
còn đủ sức sợ sống bên cạnh những xác người đang bốc mùi, dù có thể chết
vì nhiễm độc.
Anh lính giải phóng trẻ đã được
băng bó cánh tay. Hắn vẫn gác trước cổng. Ít khi vào nhà, vẻ mặt nghiêm
trang. Tôi cảm tưởng cũng nhờ hắn mà Oanh với Trúc khỏi đi tải thương,
khiêng đạn.
Quả như lời Oanh đoán, mấy ngày
sau không ngày nào là không có máy bay, rốc kết bắn xuống như mưa. Ðại
bác mỗi ngày mỗi nhiều. Mấy hôm đầu, buổi sáng, mọi người còn lên được
miệng hầm để lấy đồ hoặc chạy ra xách nước. Về sau không ai dám ra ngoài
sân, bò lên miệng hầm đã là một điều quá can đảm. Cứ tình trạng này,
trong vài hôm nữa, chúng tôi sẽ hết nước và thức ăn khô cũng sẽ hết. Tội
nghiệp má tôi, bình thường bà là người gặp chuyện gì cũng quýnh quáng,
sợ vỡ mật, vậy mà đến lúc tuyệt vọng bà lại can đảm hơn ai hết. Mặc bom,
mặc đạn, má tôi cứ chuồi lên miệng hầm tìm gạo, nấu cơm. Nhiều mảnh đại
bác văng vào tường, nhiều mảnh bom chơm rơi xuống mái ngói, chui tọt
vào nhà. Má tôi vừa run vừa lết vô hầm. Nhưng rồi sau đó lại bò ra. Má
tôi chỉ còn biết sống phút nào hay phút đó để tận lực lo cho con cái.
Ôn Minh đi suốt ngày, thỉnh
thoảng ghé về với một ít thức ăn khô chia đều cho các hầm. Ngoài việc
tiếp cứu cho mọi người, ôn cũng không quên những người trú ngụ trong
ngôi nhà thờ cụ Phan.
Nhiều đêm, chúng tôi bàn đến
chuyện tản cư. Má tôi sang hầm bên cạnh, có gia đình ông hiệu trưởng.
Ông này ngày đầu đã dám liều lĩnh chở hai đứa con nhỏ và cô em gái từ An
Cựu trở về Từ Ðàm. Vợ ông bị kẹt ở đây. Ông suốt ngày cũng chui trong
hầm không dám ra ngoài, sợ bị bắt. Mấy ngày đầu, các cô cán bộ hay vô
lân la thăm hỏi, nói chuyện với bà vợ. Gia đình này còn một nửa kẹt ở An
Cựu và em gái dám đi với ôn Minh, tìm đường dò về phía đó, nhưng không
đi lọt. Má tôi bàn với gia đình đó, liệu có cách nào tản cư không. Nhưng
cũng như chúng tôi, họ cũng đang ở thế tuyệt vọng. Người vợ ôm đứa con
nhỏ khóc rấm rứt. Người chồng hết lo cho số phận mình, lại lo cho bà mẹ
và một số người thân kẹt lại ở An Cựu. Tin tức ôn Minh đem về mỗi ngày
một bi quan hơn.
Nhiều đêm, tôi đã nằm mơ thấy
mình có mặt trong đoàn người tản cư. Ðể tìm một sự sống, chúng tôi cầm
chặt áo nhau, đi từng đoàn dài. Chúng tôi qua cầu. Xác chết còn sình
thúi đầy đường. Phía bên kia là quân đội Việt Nam Cộng Hòa, phía bên này
là giải phóng. Không ai ngăn cản chúng tôi hết. Chúng tôi đi giữa súng
đạn, giữa tiếng la thét, rồi cây cầu sập, cả đoàn người theo nhau rớt
hết xuống dưới giòng sông. Nhưng cũng không thoát được, dưới lòng sông
có bao nhiêu chiếc miệng đỏ hoét của thủy quái há ra, chực nuốt cả đoàn
người vào bụng. Tôi hốt hoảng hét lên rồi thức giấc. Mặc dù trời bên
ngoài lạnh buốt, cả người tôi mồ hôi vã ra như tắm. Mồ hôi vì sợ hãi, vì
mệt và cũng có lẽ vì đói nữa. Nhiều lúc, tôi như đứa trẻ nhỏ đưa ngón
tay vào miệng và nút. Tôi nút hoài trong bóng đêm, thấy ngón tay của
mình nhạt dần mùi vị. Mùi vị đó tôi biết, mồ hôi và đất bẩn trộn lẫn.
Một ngày rồi một ngày nữa trôi
qua. Tai chúng tôi ù đi vì súng, mắt mờ đi vì đói và đầu óc tê liệt vì
những tiếng nổ dội ình ình, chung quanh. Nhưng lạ lùng, chúng tôi vẫn
chưa ai chết cả. Gạo đã cạn, ôn Minh đem đâu về được mấy bịch cơm khô
chia đều cho mỗi gia đình một ít. Chúng tôi nhai cơm khô mà cũng phải
hết sức dè xẻn. Khát nước quá, một vài người ra sân lấy nước ở bể cạn.
Một vài người chạy không kịp bị mảnh đạn ghim vào người, nhưng may thay,
không một ai chết hết.
Chúng tôi không còn ai nhắc tới chuyện tản cư nữa. Ra khỏi miệng hầm là có thể chết rồi, huống chi ra tới sân, tới đường.
Nhưng rồi có một buổi sáng, không
biết buổi sáng ngày thứ mười mấy nữa, có tiếng gọi tên tôi ngoài cửa.
Mới đầu má tôi ghì đầu tôi xuống, bịt miệng không cho tôi thưa. Nhưng về
sau, Oanh nhận ra được tiếng của Bảo, một người em con chú, mò qua nhà
tôi được. Oanh lên mở cửa rồi lôi Bảo vô hầm, Bảo nói:
“Răng không chạy đi, họ đi hết rồi mà.”
“Răng mi gan rứa. Ðại bác câu như mưa rứa mà qua đây được.”
“Thì mình cứ đi liều. Nì, trốn không?”
“Mần răng trốn?”
“Ở đây rồi nó cũng bắt đi. Ði với tôi.”
“Ði mô?”
“Mình đi trong vườn, tụi hắn không biết. Mình đi ngã chùa rồi vòng qua phía lầu Ðua ra. Mình về dưới. Chắc được mà.”
Má tôi run lẩy bẩy:
“Không được. Ðừng có mạo hiểm.”
Nhưng tôi bỗng lóe lên một ý định. Có ở đây thì cũng sẽ chết, liều đi như thế, may ra còn đường sống. Tôi dặn nhỏ Bảo:
“Ðược, đợi tao với.”
Tôi an ủi má tôi gần nửa tiếng bà
mới chịu để cho đi. Nhưng khi tôi lên miệng hầm với Bảo thì nghe tiếng
má tôi khóc thảm thiết như đưa đám ma. Tôi rợn cả người. Bên ngoài là
ánh sáng, nhưng tôi có cảm tưởng như bóng tử thần cũng lảng vảng ở đó,
đang nô giỡn, thông đồng với những tiếng nổ, những tràng đạn bắn lẻ tẻ
khắp vùng. Tiếng khóc của má tôi làm đầu gối tôi muốn xụm xuống. Tôi
muốn lao lại vào hầm, nằm gục bên má tôi để có chết cùng chết có sống
cùng sống. Nhưng Bảo đã kéo tay tôi. Cánh cửa hé mở và chúng tôi lách ra
ngoài. Ánh sáng làm tôi chói mắt. Nhưng tôi đứng sững lại, nơi chiếc bể
cạn, cây mai đã gẫy hết nhánh, chắc một quả đại bác đã rơi gần đâu đó,
nhưng những cánh hoa vàng vẫn tiếp tục, bên cạnh những cành gẫy, những
gạch ngói, những bông mai vàng như những đốm hy vọng gây cho lòng tôi
bao tình cảm thiết tha, ham sống.
“Coi chừng!”
Ầm. Một tiếng nổ thật gần. Bảo
kéo tôi nằm xuống. Rồi tôi bị Bảo kéo bật dậy, tôi đang chạy theo Bảo
hay bị Bảo lôi đi cũng vậy. Khi ngoảnh lại, ngã ba đường Chùa và nhà thờ
cụ Phan đã bị che khuất. Nước mắt tôi trào ra. Vài giọt mưa lất phất
lạnh buốt bám vào mặt. Bảo vừa lôi kéo tôi vừa thở:
“Mau lên.”
“Ngã mô?”
“Lầu Ðua ra.”
Tôi không còn thì giờ mà ngắm cỏ
cây, nhà cửa đường sá nữa, đại bác câu tới càng dày. Tiếng nổ ình đàng
trước, đàng sau, bên hông. Cứ chạy một quãng, cả hai lại nằm xuống. Nằm
xuống rồi đứng dậy tiếp tục chạy. Tôi không biết mặt mũi tôi ra sao,
nhưng mặt mũi Bảo thì tôi không còn nhìn ra nữa. Quần áo chúng tôi bị
đất cát, bụi gai xước rách từng đường dài. Tôi vừa chạy vừa kêu lên:
“Ði là chết. Chắc chết.”
Lầu Ðua ra đã hiện ra. Chúng tôi
chạy bừa tới, tôi vấp phải nhiều xác chết, nhiều lúc suýt bổ nhào. Chạy
còn cách lầu Ðua ra vài chục thước, chúng tôi lại bị bao vây vào giữa
tiếng súng lớn nhỏ. Hai bên nổ súng giao chiến. Cố gắng mãi chúng tôi
mới vào được lầu Ðua ra. Mắt cá chân chúng tôi ngập máu. Trong nhà toàn
xác người. Xác mới có cũ có, xác quốc gia có, việt cộng có. Ngay ở trước
nhà, tôi nhìn thấy xác hai người Mỹ trương to bằng con bò. Có điều lạ
lùng là hai xác người Mỹ mặc đồ đen như đồ cán bộ xây dựng nông thôn.
Nhưng tôi chưa kịp tìm hiểu thêm thì Bảo đã lôi tuột tôi vào trong. Vừa
lúc đó có tiếng súng bắn tới. Bảo nhào vào một góc, người Bảo nhuộm đầy
máu tươi máu khô. Tôi cũng lăn một vòng và nằm đằng sau mấy xác chết đã
sình hôi. Tôi lấy tay che kín mắt, đạn bắn vèo vèo đi qua đầu. Hai bên
giao tranh thật ác liệt một hồi rồi lại im. Nhiều tiếng chân đi vào lầu
Ðua ra. Tôi nghe có giọng nói:
“Thấy có hai tên chạy vô đây mà.”
“Ðồng chí có thấy rõ ràng không đấy?”
“Chắc chắn. Hai tên còn nhỏ. Chắc là liên lạc viên của Mỹ Ngụy. Chúng vừa vô thì súng nổ.”
Tim tôi như ngưng đập. Tôi nằm
sấp mặt xuống vũng máu khô đầy ruồi nhặng. Mặc, tôi cần đám xác chết này
che chở. Có tiếng chân bước qua mấy xác người, rồi tiếng cười gằn:
“Hừ, mấy tuổi ranh đã phản quốc.”
Một tiếng súng nổ. Tôi nghe tiếng
Bảo la lên. Vai tôi bỗng nhiên cũng đau nhói. Tôi còn kịp nghe một
tràng đạn quét ngang mình trước khi ngất đi nữa.
“Bây giờ ông đi đâu?”
“Tui cũng không biết nữa. Tui chạy đại.”
Người con trai vừa kể câu chuyện trên nhìn ra phía đường sắt. Tôi hỏi tiếp:
“Anh được tin tức chi trên Từ Ðàm không?”
“Tui bị thương ở lầu Ðua ra,
tưởng họ bắt được. May mà tui ngất đi họ tưởng tui chết. Khi tui tỉnh
dậy thì Bảo, bạn tui đã bị họ bắt đi rồi. Những xác chết còn ngổn ngang
nhưng nơi cửa có treo cờ giải phóng. Tui phải cố gắng mãi mới bò ra khỏi
những xác chết. Tui thấy bốn bề im lặng, bên quốc gia cũng không có ai,
mà cộng sản cũng không có ai. Tui lần mò xuống Phú Cam. Nhà cửa bỏ
trống, dân chúng chạy hết rồi, tui chỉ gặp toàn người chết. Tui theo lối
đường rầy mà về đây.”
Tôi tưởng gặp người con trai này ở Từ Ðàm về, sẽ biết được tin tức gia đình anh tôi ở trên đó, nhưng rồi cũng mù tịt.
Tôi khuyên:
“Giờ anh nên kiếm xóm nào còn người mà ở với họ. Chúng tôi sắp tản cư nữa rồi.”
“Chắc tui qua bên nhà thờ. Nghe nói bên nớ họ tỵ nạn đông lắm.”
“Ý đừng qua, họ lục soát bắt hết rồi.”
“Thôi tui cứ chạy đại. Nhưng tui phải ở trong thành phố, gia đình tui còn mắc kẹt ở trên nớ. Hai đứa em gái tui nữa.”
“Còn ôn Minh ra răng?” Má tôi hỏi.
“Dạ cháu không biết gì nữa.”
Chúng tôi nhìn theo người con
trai đi trở lui phía đường rầy. Cả đoạn đường vắng tanh không có bóng cả
một con vật. Anh đi tới đằng xa rồi mà không quay lại. Tôi hốt hoảng
khi nghe tiếng nổ gần mạn đó. Tôi kêu lên, nhưng người con trai đã đi
xuống một cái dốc ngắn và khuất sau những bụi cây rậm rạp.
Má tôi thở dài:
“Ở đây chắc chết. Mình phải chạy, trong xóm chạy hết rồi.”
Chú tôi chen vào:
“Họ chạy về phía dưới Phú Lương, nghe nói dưới đó yên lắm.”
“Phú Lương là phía nào?”
Chưa ai kịp trả lời thì tiếng súng đã tới gần. Tiếng xe chạy rần rần ở phía quốc lộ.
Thái reo lên:
“Quân mình tiến vô thành phố tiếp viện đó.”
Bé rành rẽ:
“Cứ ngày tới, đêm rút về Phú Bài. Ðêm họ lại về chiếm, thành thử như không.”
Má tôi khoát tay:
“Thì vô hầm đã rồi tính chi thì tính.”
Một lát sau thấy có người gồng gánh chạy vô nhà. Thu bò lên hầm rồi kêu:
“Chú Ðịch, không đi được hả?”
“Sang bên kiểu mẫu mà đường không đi được. Bắn nhau dữ quá.”
“Chú, chú định đi mô?”
“Về Phú Lương.”
Sắp xếp cho gia đình ngồi vào một
góc nhà, người đàn ông chủ gia đình hàng xóm chui xuống hầm kể chuyện.
Ông ta nói rằng ở bên thành nội họ hoàn toàn chiếm đóng. Có vài người
trốn về bên ni được, họ đi bằng đò, nhưng số đi chạy nạn liều lĩnh đó
chết hết hai phần ba, đi mười người may ra còn một hai người sống sót.
Ông cho biết đang đánh nhau ở Bưu điện. Má tôi hốt hoảng:
“Ðánh bưu điện rồi sắp đánh về bên ni, làm răng chừ hở trời!”
Vậy là đợi cho tiếng súng thưa
bớt, cả nhà chúng tôi chui lên khỏi miệng hầm bồng bế nhau đi chạy loạn.
Về nhà chú tôi mấy hôm, từ nhà chú tới nhà chúng tôi cũng ở trong khu
vực An Cựu, cách nhau có mấy trăm thước mà chúng tôi không dám về qua
nhà thăm. Mấy ngày liền ở trong hầm tối, Thái phân chia mọi người lo
công việc. Lấy được ít gạo ít nước mắm trong nhà chú tôi thì Thái lãnh
những thứ đó. Má tôi vẫn khư khư giữ xách quần áo mà hết một nửa là quần
áo của ba tôi, khi chết không liệm hết được. Tôi giữ một xách nhỏ và
cái cặp đồ. Vợ Bé gánh một gánh đầy nồi niêu, bát đĩa, gạo cơm. Mỗi
người đều có việc đầy tay đầy chân hết và trẻ con thì được dặn dò là cứ
bấu theo áo người lớn mà chạy.
Chúng tôi chạy xuống ngả mù u.
Ban đầu ai nấy chạy hăng lắm vì tiếng đạn nổi lên ở đằng sau và tiếng
máy bay vào thành phố. Nhưng khi đã bỏ xa được tiếng động kinh hoàng đó
rồi, chân tôi cơ hồ bước không vững nữa. Má tôi ngồi bệt xuống đường.
Một thanh niên từ phía dưới phóng xe Honda đi lên. Thái vẫy lại:
“Anh đi mô rứa?”
“Nghe nói trên ni có nhiều đồng bào tản cư, tui đi lên coi có ai cần chi giúp đỡ.”
Thái vui vẻ:
“Chúng tôi đang cần giúp đỡ. Dưới đó yên không?”
“Yên chớ. Dưới nớ họ chỉ tràn vô ban đêm. Ban ngày ai lo chuyện nấy, có chi mô.”
Thái mừng rỡ:
“Vậy bạn chở bác tui một đoạn. Chở rồi bỏ nơi chợ Thùy Dương một, tụi tui xuống bây chừ.”
Má tôi vội vàng trèo lên đằng sau xe.
“Bác ôm cho chặt.”
Anh thanh niên phóng như bay, chỉ
một thoáng má tôi khuất dạng đằng xa. Tôi gắng gượng đứng dậy tiếp tục
theo Thái. Dọc đường, tôi gặp không biết bao nhiêu đoàn người đang đi
tản cư.
Họ bồng bế nhau, gồng gánh, vừa đi vừa chạy vừa ngoái lại nhìn về phía sau, thành phố đầy tiếng nổ lớn nhỏ.
Một người đàn bà vừa đi vừa khóc:
“Tui thoát được mình tui, tui chạy được tới đây rứa còn chồng con tui sống chết ra răng hả trời? Ra răng đây ông trời?”
Bà nhìn lui thành, nhìn lên ông
trời. Ông trời vẫn một màu chì, sẵn sàng chảy thành nước mà không đủ sức
chảy. Một chiếc xe bò khác đi lẹt đẹt sau một đám người khoảng chừng
mười mấy người. Chiếc xe bò do hai người đàn bà đẩy, trên xe có hai
người nằm, họ được đắp bằng chiếc chiếu cũ.
Tôi nhìn thấy bốn cái chân thõng
xuống, lòi ra ngoài chiếu, bốn chân đều dính bê bết máu. Chiếc xe không
thể đẩy nhanh hơn vì sức lực hai người đàn bà đã hầu kiệt. Một người đàn
ông trên vai vác một đứa nhỏ, đứa nhỏ bị thương máu ra gần hết, nét mặt
xanh xao đang gục trên vai người đàn ông, ánh mắt mở lờ đờ nhìn theo
đoàn người đang chạy đằng sau, như lấy hình ảnh để canh chừng sự sống.
Những giọt máu rơi vãi trên mặt đường, những bàn chân khác tràn tới làm
nhòe đi hoặc xóa bỏ. Tôi nhớ lại đoàn người cầm cờ trắng đi trong thành
phố đạn lửa, đoàn người từ Phủ Cam đi xuống, cha có sư có, người lành
lặn dìu người bị thương, người sống còn gắng gượng cổi áo mình đắp cho
người chết. Ðoàn người đó lưu lạc về đâu rồi, liệu họ có tìm được con
đường để về Phú Lương, Phú Bài như chúng tôi không?
Bất chợt tôi cũng quay lưng lại nhìn thành phố.
Tôi nhìn thấy những ống khói cao
mù. Tiếng súng xa dần nhưng hết sức khốc liệt. Tiếng đại bác nổ ình ình,
thỉnh thoảng có trái sai tọa độ rớt thật gần đoàn người chạy loạn. Họ
nằm cả xuống, còn tôi, tôi bị Thái xô ngã xuống đường:
“Chạy đi chớ chị.”
“Chạy thì chạy.”
Chạy. Phải chạy. Tìm một con đường thoát.
Chương 6: ĐI VỀ TRONG LỬA ĐẠN
Chúng tôi chạy qua mấy cánh đồng
bỏ không, ngập nước, qua vài khoảng đất trống cây cỏ mọc hoang vu thì
dẫn tới một xóm nhỏ. Vài mái nhà thưa thớt ven đường. Thái mừng rỡ kêu
lên:
“Có quân đội mình đóng đây rồi.”
Thấp thoáng sau đoàn người chạy
loạn, tôi nhận ra bóng một vài quân nhân đang đeo súng đứng lấp ló trước
một cổng rào. Thôi, thế là thoát nạn, chúng tôi đã đến vùng bình yên.
Má tôi trong một cái quán chạy ra:
“Má đây nì, má đây nì.”
Thái kéo tôi vào hàng hiên của
cái quán. Quán bỏ không, ở giữa quán một cái hầm cát to tướng, choán hết
cả gian nhà. Bên cạnh chiếc quán là một cái nhà gạch bỏ không, lính Mỹ
và lính Việt đang gác ở đó. Người lính Mỹ và hai anh lính Cộng Hòa đi
soát giấy từng người. Tôi không nhớ là cái thẻ căn cước để ở đâu nữa,
nhưng rồi cũng tìm ra.
Vợ Bé đặt gánh xuống, ngồi ôm đứa con nhỏ thở dốc:
“Thôi, sống rồi.”
Nhưng Thái và Bé vẫn có vẻ e dè
lắm. Một toán người dừng lại ở quán, họ khiêng theo một người đàn bà bị
thương, đạn phá tung cả nửa mảnh ngực, chỉ còn thoi thóp thở. Mấy anh
lính chạy tới, rồi một người Mỹ khác chạy tới dỡ chiếc chăn đắp kín
người đàn bà lắc đầu. Tuy nhiên người Mỹ cũng vội vã đi trở ra, nói cho
xe chở. Mấy người lính Mỹ khác lắc đầu, đưa tay ra dấu tuyệt vọng. Chiếc
xe bò chở hai người bị thương cũng đã tới nơi. Một người đã chết, một
người ngắc ngoải. Người đàn bà vật mình vật mẩy khóc lóc. Bà ôm lấy xác
chết, bà bò lê dưới đất:
“Ông ơi, con chết, cháu chết, tui còn mình ông, ông cũng bỏ tui ông đi.”
Người đàn bà cùng đẩy xe bò với người kia cũng khóc:
“Ông ơi, ông khoan chết, ông chết răng cho đành ông ơi.”
Bà ta mở chiếu, sờ tay vào đầu kẻ hấp hối, mở banh đôi mắt lờ đờ đã khép kín, cứng lại:
“Đừng ông ơi, ông đừng bỏ tui.”
Hai tiếng khóc, một của người
tuyệt vọng, một của người còn bám lấy chút hy vọng mong manh bật lên,
người này cố gào lớn hơn người kia. Cuối cùng, một trong hai người đàn
bà chạy tới cầm tay một trong mấy người lính đứng coi cùng mấy người Mỹ,
lạy lục:
“Lạy anh, anh mần ơn chở chồng tôi xuống dưới Phú Bài.”
“Không có xe. Xe mô mà chạy qua đồng dưới nó là họ bắn liền. Chịu.”
“Cứu giùm chồng tôi ông ơi. ”
Bà ta lại nắm tay một người Mỹ. Người Mỹ lắc đầu. Thái cũng lăng xăng:
“Hay có thuốc chi đem rịt vết thương cho họ may ra…”
Người lính người Việt, như đã quen với không khí này lâu lắm:
“Ôi, công cốc. Không kịp mô mà làm…”
“Thì kệ…”
“Mà mần chi có thuốc. Thuốc tiên lúc ni cũng chịu…”
Người đàn bà xô người Mỹ ra rồi chạy lại chiếc xe. Bà dở chiếc chiếu, rồi trợn mắt, nghiến răng và ngã vật xuống:
“Thôi rồi…”
Bà đập đầu xuống đất, bà đập tay xuống đất, bà ngẩng mặt lên trời:
“Trời cao, đất dày nì, chồng tui… trời cao đất dày nì…”
Bà lăn lộn, rồi bà lại chồm dậy:
“Thôi đi, thôi đi đi mụ Tứ. Mình lên thành phố lại.”
Người đàn bà nọ đang khóc lóc muốn ngất đi, nghe tiếng gọi, lau giòng nước mắt:
“Đi lên phố hỉ?”
“Đi lên trên nớ chết chung với nhà với cửa, với chồng với con luôn. Sống mần chi nữa trời.”
Mọi người đổ lại khuyên can.
Nhưng không làm lay chuyển được lòng hai người đàn bà đã tuyệt vọng đến
cùng cực. Họ nhìn về phía súng nổ, lửa cháy, chỉ tay la hét:
“Cháy hết. Cháy hết đi. Tui căm gan tím ruột rồi đây. Trời ơi là trời.”
“Đi đi. Họ không thương mình mô. Ai mà thương mình lúc ni, hả trời…”
Ông trời cũng đã động lòng, sụt sùi. Những hạt mưa bay lất phất, bầu trời lam chì đã chảy nước.
Hai người đàn bà vừa đẩy xe trở
lại thành phố vừa khóc lóc. Họ không nhìn lui nhưng tiếng khóc của họ
còn quyện mãi trong làn mưa, trong không khí căng tràn buồn thảm. Chiếc
xe bò xa dần, hai bóng người ỳ ạch đẩy xe nhỏ dần trên đường dài, tiến
mãi với vùng lửa đạn. Một người lính nói theo:
“Mấy mụ đó điên mất rồi.”
Không ai phê bình gì nữa. Hai người đàn ông khiêng cái cáng có người bị thương chợt hỏi một người lính:
“Trong làng có trạm cứu thương không?”
“Chở vô đi, có dân vệ trong nớ.”
Hai người đàn ông vội vã đứng dậy khiêng cáng đi. Một đứa nhỏ chạy lúp xúp theo. Một người đàn ông nói:
“Mai, đi cháu.”
Thằng nhỏ không trả lời, nó cắm cúi chạy. Một giọng đàn bà cất lên:
“Chắc con của người đàn bà đó.”
“Thằng nhỏ chưa biết gì hết, tội ghê.”
Thái họp cả gia đình lại bàn
chuyện ăn ở. Vợ chồng Bé nói sẽ đi bộ xuống Phù Lương nhưng Thái ngăn
lại. Trời chiều rồi, đi cũng không kịp nữa. Đoàn người dừng chân bên
quán cũng đã tản mát vào trong xóm hết. Tôi hỏi Thái đây là đâu, Thái
nói vô trong một chút nữa là thôn Thủy Dương Hạ. Vợ chồng Bé điều đình
với chủ quán xin ở đậu một hôm. Người chủ quán nói:
“Ở đây thì nằm ngoài hè chớ hầm chật rồi.”
Bé sực nhớ có người quen. Thái nói:
“Em cũng có người quen, thôi mình chia ra làm hai để bớt phiền họ phần nào.”
Thái có ông cậu, ông anh của má
nó. Vậy là má tôi, chú tôi, tôi với Thái tách ra để đến nhà cậu Giáo.
Vừa thấy mặt chúng tôi, cậu Giáo đã chạy ào ra:
“Trời đất ơi, răng chạy được về dưới ni rồi. Nam mô A Di Đà Phật. Phước đức may mắn quá. Vô đây, vô đây đã chị…”
Má tôi bật khóc:
“Tưởng chết hết rồi chớ mô nữa anh ơi. Chuyến ni là hết rồi…”
“Ôi người còn là được. Chị vô đây, vô đây đã…”
Tôi hỏi:
“Cậu, dưới ni yên không?”
“Ôi, có chi mà không yên. Mấy bữa
ni, họ về dưới ni biết cơ man mô mà noái cho hết. Họ chạy ngang đây rồi
họ về Phù Lương hết. Về dưới Phù Lương, Phú Bài nghe yên lắm.”
Má tôi lại đổi ý:
“Hay mình về Phù Lương.”
Thái can:
“Không được, phải ở đây để dò tin
tức của anh Lễ, mần răng cũng có người ở Từ Đàm về. Họ về tới là mình
chận hỏi thăm liền. Bác để con.”
Chúng tôi vừa ngồi yên ở bộ phản
thì bỗng có tiếng nổ ình long trời lở đất. Không ai bảo ai, má tôi, chú
tôi, tôi và Thái cũng nhào xuống đất. Nhưng kìa, mọi người vẫn ngồi im.
Cậu Giáo cười:
“Chi rứa. Trên đồi họ bắn đi đó mà.”
Tôi chợt hiểu, ngọn núi phía
trong ở bên kia đường là nơi đặt đại bác bắn vào thành phố. Những quả
đại bác bắn đi ở đây đã gây bao nhiêu chết chóc ở trong thành phố kia.
Nhưng tôi cũng hiểu là không còn làm thế nào hơn được. Tôi leo lên phản
gỗ ngồi mà vẫn chưa hết run. Một vài tiếng súng bắn lẻ tẻ trong xóm. Cậu
Giáo nói dân vệ đi tuần họ bắn. Tôi hỏi ở đây Việt cộng có về tới nơi
không, mợ Giáo nói:
“Đêm họ về hoài, mà kệ họ, mình ở trong nhà, đêm đừng mở cửa. Họ đi ngoài vườn kệ họ.”
“Họ có soát không?”
“Ở xóm dưới họ có về bắt, ở đây thì không. Đây gần đồn, có lính gác mà sợ chi.”
Nhưng cậu Giáo cẩn thận:
“Kể ra mình cũng phải để tâm chớ. Đêm tuyệt đối đừng có nói chuyện, cựa mình chi hết. Họ vô đó.”
Thái đề nghị đào thêm hầm. Tối
hôm đó, mọi người lăng xăng sửa lại hầm. Nhà dựng được thêm một cái hầm
nổi nữa. Trời chạng vạng là cậu Giáo bắt mọi người không được ra sân hay
lấp ló ngoài cửa. Ngoài đường không còn một bóng người đi lại, kể cả
lính Việt và Mỹ cũng rút vào những nơi an toàn. Tôi bỗng linh cảm như
sắp có chuyện gì xảy ra. Giữa cảnh yên lặng như đang lắng lòng chờ đợi
một chuyện gì đó.
Nhưng đêm đầu tiên ngủ ở Thủy
Dương Hạ không có chuyện gì xảy ra hết. Sáng sớm hôm sau, ngủ dậy, tôi
nghe tiếng chim hót. Tôi lần ra sân rửa mặt súc miệng, rồi cùng với
người con dâu của cậu Giáo đi ra ngõ coi tình hình. Mọi sinh hoạt vẫn
bình thường, trước cửa nhà, bên kia đường, nơi đình, chợ vẫn đông. Nhưng
sự đông đúc có một vẻ gì khác thường. Lài kéo tôi sang phía chợ, nơi
hàng bán cháo lòng, người đứng người ngồi, họ ăn uống xô bồ. Bên cạnh
đoàn người đang ngồi đứng đó, còn những đống đồ cao ngất, những thúng
gióng. Hình như họ mới tản cư về sáng nay. Tôi lại hỏi thăm. Nhưng ai
cũng chỉ biết chuyện người đó. Nhiều người ở An Cựu, nhiều người ở tận
dốc cầu Nam Giao, nhưng họ cũng chả cho tôi biết gì hơn ngoài những tin
tức đã nhận được. Một người nói cho tôi biết là ở trên kia, còn nhiều
người bị thương. Lài kéo tôi bảo lên coi. Cô nàng chưa bị chạy loạn, từ
hôm Tết đến nay, ở Thủy Dương Hạ yên ổn quá, chả biết sợ là gì. Nhưng
tôi thì khác, một tiếng súng, một tiếng động lạ cũng làm tôi giật mình.
Má tôi đứng ở trong sân, thấy chúng tôi đi xa thì gọi lại bảo đừng có
đi. Tôi nói vài câu cho má tôi an tâm. Câu mà má tôi bằng lòng nhất là
khi tôi nói may ra ở trên đó có người ở Từ Đàm về.
Trời vẫn mưa bay, nếu không phải
chạy loạn, những ngày đầu xuân mưa phùn thế này thật tuyệt diệu. Nhưng
lúc này tôi không còn đủ sức để ngắm phong cảnh nữa. Những đoàn người từ
Huế tản cư về vẫn là cảnh chính đập vào mắt tôi. Tôi nôn nao, gặp ai
cũng hỏi thăm dù biết là những câu trả lời của họ giống nhau hết.
“Bác ở mô về đó?”
“Ở An Cựu.”
“Bến Ngự.”
“Ở cầu Nam Giao.”
“Trên đó ra răng rồi chị? rồi mệ? rồi bác? rồi anh?”
“Tan nát hết. Tan hết rồi.”
Câu nói chạy vút theo những bước chân. Đoàn người nào cũng vừa đi vừa chạy như sợ tiếng súng sẽ theo kịp. Lài kéo tay tôi:
“Thôi đi, hỏi ai cũng như nhau hết.”
Tôi đi theo Lài, nhưng hễ gặp là
hỏi. Kẻ trả lời, kẻ không buồn mở miệng. Kệ, tôi như nhiễm một thói quen
khó bỏ và dù những câu trả lời rất giống nhau mà mỗi lần nghe tôi vẫn
còn bỡ ngỡ, lạ lùng như khám phá thêm một điều lạ nữa.
Chúng tôi đi qua một khoảng đất
trống, cái quán nhỏ và khu đồn binh hiện ra. Ở đây thật là một cảnh hỗn
độn, người ngồi người nằm la liệt bên đường, trong sân, trước quán. Mấy
anh lính, mấy anh dân vệ lăng xăng soát giấy người này, hỏi thăm người
nọ. Mấy người Mỹ đứng ngắm đoàn người rồi nhe răng cười vô duyên, chả
hợp tình hợp cảnh chút nào. Những người bị thương được sắp một nơi và đã
có mấy y tá trong vùng ra băng bó. Hỏi thăm mới biết là đoàn người này
từ nhiều nơi đổ về. Họ cho biết cầu Tràng Tiền đã sập, cầu An Cựu cũng
đã sập. Có người ở bên phố thoát được nhờ mạo hiểm đi đò. Mỗi chuyến đò
chở một người sang sông phải trả trên năm ngàn đồng.
Nhờ hỏi thăm những người mới về
sáng nay, mà tôi biết Huế đã đánh nhau khắp nơi, bên phía Quốc gia chưa
chuyển quân mà mới bắn đại bác và thả bom. Máy bay liệng suốt ngày. Máy
bay còn kêu gọi dân chúng cố dồn về phía hữu ngạn để thoát tay Việt cộng
nữa. Tôi được biết là ở trường Đồng Khánh, Quốc Học và trường Kiểu Mẩu
đã trở thành những nơi tạm cư cho đồng bào. Họ ở những nơi này cũng như
đùa giỡn với tử thần vì những trái đại bác bất chừng hoặc bị kẹp giữa
hai phe đánh nhau, ngày nào cũng có người chết. Tôi cố hỏi thăm tin tức
vùng anh tôi ở, nhưng họ lắc đầu hoặc cố mò đoán trả lời thì cũng càng
bi quan hơn, chả hạn như:
“Trên đó nát hết rồi, thành bình địa rồi.”
Có người còn nói y như mình đã chứng kiến tận mắt:
“Trên đó thì chỉ có Việt cộng chớ
dân thì còn ai nữa. Nội đại bác bắn ngày đêm, mười mấy ngày nay cũng đủ
chết rồi, đừng nói súng đạn, đừng nói chuyện họ đấu tố. Tui ở Bến Ngự
mà thấy mùi hôi bốc xuống nì. Chó nó lên tha cả cánh tay, cả khúc chân
còn đầy thịt, rùng rợn lắm.”
Một người còn thêm:
“Trên nớ chết không ai chôn, không còn cái nhà mô nguyên vẹn. Mấy hôm trước có người trốn về nói cho tui nghe rứa đó.”
Thôi, như vậy tôi còn hy vọng gì
gia đình anh tôi còn sống nữa. Cả cô em gái mà khi ba tôi từ giã cõi
đời, mắt vẫn dán chặt vào khuôn mặt nó như muốn gởi gắm những người ở
lại. Mấy đứa cháu nhỏ nữa, mấy năm nay tôi mới về, bận việc tang chưa
kịp bế kịp bồng.
Nước mắt tôi muốn trào ra, và
lòng tôi không còn chút hy vọng nào nữa. Nhưng lúc đó, tôi lại nghe một
giọng khác trả lời một người nào đó đang hỏi.
“Trên Từ Đàm hả? Cũng có người
thoát chớ. Họ đi lên ngả Tây Thiên, trên đó yên lắm, nhưng khổ là ở đó
lại đầy quân giải phóng. Bộ chỉ huy của họ mà. Nhiều người mắc kẹt nhưng
mần răng chẳng có người thoát được.”
“Bà đừng có lo. Tui ở dưới dốc mà cũng thoát được nì, cái nhà của tui không còn hòn gạch mô còn nguyên hết.”
Tôi lại hy vọng:
“Nhất định là gia đình anh tôi sẽ thoát được.”
Nhưng nghĩ tới bà chị dâu yếu
đuối, một bầy cháu nhỏ với đứa em gái thơ dại, tôi lại lo lắng. Ông anh
tôi cũng yếu đuối lắm, cuối năm, cái tang lớn làm anh tôi chết đi sống
lại mấy lần. Cả mấy ngày đám, anh tôi không ăn được một bát cơm và hôm
đưa đám tang ba tôi, anh đã ngất xỉu trước mộ.
Thấy tôi đứng lặng người, Lài kéo tay tôi:
“Thôi mình về đi, ở đây trông ớn quá trời.”
Giữa đường tôi gặp vợ chống Bé,
nó nói là nó ở lại đây đến ngày mai nó sẽ đi xuống Phù Lương, ở đây mà
yên ổn gì. Tôi không trả lời. Thật ra, tôi cũng không còn có thể đoán ra
nơi nào yên ổn hơn nơi nào nữa.
Má tôi đợi tôi ở đầu cổng, bà hỏi:
“Có tin gì không?”
Tôi nói cho má tôi yên lòng:
“Có người cho biết trên Từ Đàm họ tản cư lên Tây Thiên, Trúc Lâm nhiều lắm.”
“Rứa anh con răng không tản cư, đi lên Trúc Lâm rồi vòng ngả núi Ngự Bình về An Cựu được chớ.”
“Chắc anh còn kẹt chuyện chi đó.”
Má tôi thắc mắc:
“Người ta tản cư hết, răng nó chưa đi.”
Rồi bà nhất định ở lại đây để chờ. Khi vào nhà, mợ Giáo mua cho tôi một tô cháo lòng.
Tô cháo lòng nóng hổi, thơm phức, nhưng khi nuốt miếng cháo vào cổ họng, tôi lại thấy đắng ngắt.
Lúc này mà tôi còn muốn ăn ngon,
muốn sung sướng, quả tôi là một người ích kỷ. Tôi đang nhớ con tôi,
chồng tôi. Tôi đang lo cho anh chị tôi, em gái tôi cùng lũ cháu nhỏ. Tôi
có thật được sống rồi không? Và sống có mỗi mình.
Nước mắt tôi trào ra. Lài hỏi:
“Răng không ăn đi, nóng há. Ừ, tô của mình nhiều tiêu quá, ăn nóng chảy cả nước mắt đây nì.”
Lài lại cười. Tôi quay đi dấu đôi giòng lệ. Má tôi vẫn còn ngồi ngẩn ngơ trước tô cháo. Tôi lau nước mắt nói:
“Ăn đi má.”
Má tôi nói:
“Con ăn đi con. Tội nghiệp con quá, mười mấy ngày nhịn đói nhịn khát.”
Tôi chớp mắt, màn nước mỏng nhòa
dần và tôi nhìn thấy rõ khuôn mặt má tôi. Bà đang nhìn tôi chằm chặp.
Bát cháo còn đặt trước mặt và làn khói đã mỏng dần, sắp nguội lạnh. Mấy
miếng huyết heo nổi lều bều.
Tôi bỗng rùng mình, miếng huyết heo giống những vết máu bầm mà tôi đã nhìn thấy. Tôi đẩy tô cháo ra xa. Má tôi ôm mặt òa khóc:
“Mình thoát về đây ăn sung sướng, còn con cháu ra răng hở trời?”
Má tôi lại kêu trời. Không biết đã bao người nhớ tới ông trời để mà kêu trong những ngày biến loạn. Lài an ủi:
“Thôi bác, bác có khổ sở thì chuyện đã xảy ra. Còn có may rủi mà bác.”
Thái đã ăn hết tô cháo của nó. Nó lại đẩy tô cháo về phía tôi:
“Ăn đi chị. Có mà ăn, người ta chết về súng đạn, chết đói đầy đường.”
Tôi cố nuốt vài muỗng cháo cho má
tôi và Thái vui lòng. Nhưng mỗi miếng cháo nuốt vào cổ, tôi nuốt theo
cả sự xót xa bất nhẫn. Lúc ở ngoài đường, tôi đã nhìn thấy một đứa bé
nhìn chằm chằm vào bà hàng cháo, nó đòi ăn nhưng bà mẹ cứ gạt đi, bế
chạy về phía con đường dài. Đứa bé chòi đạp hai chân và khóc nhưng tiếng
nó đã khản đặc, không còn ra hơi nữa.
Mợ Giáo kể chuyện ngóng được ở những người chạy loạn cho cả nhà nghe.
Cậu Giáo lo lắng:
“Không biết mình có lấy lại Huế được không. Trên đó mất thì dưới ni mình cũng không sống nổi!”
Mợ Giáo nguýt dài:
“Cái miệng của ông coi chừng đó.
Túi qua họ về họ bắt đi mấy người đó tề. Có một hai người chỉ ở trên Huế
về trốn họ cũng bắt. Người ta điềm chỉ đó nghe, cứ tin mà chết khi mô
không biết.”
Má tôi lo lắng:
“Rứa mình ở nơi ni không được rồi.”
Thái tin tưởng:
“Bác cứ yên trí đi, họ không biết mình là ai mô. Chạy đi mô cũng rứa hết, ở mô cũng có họ rồi.”
Thái cố làm cho má tôi yên trí mà
ở lại đây, chớ đọc qua đôi mắt nó tôi hiểu là nó đã quá mệt mỏi, liều
đến đâu hay đó. Cậu Giáo mắng nó ăn mặc sạch sẽ, biểu lấy quần áo nhà
quê mà mặc. Mợ Giáo cũng đưa cho tôi bộ đồ đen rộng thùng thình. Má tôi
dặn tôi phải bối tóc kiểu Huế lên cho cao, lỡ đêm họ có vào hỏi thì nói
là dân làm rẫy. Tôi soi người trong tấm kiếng và bỗng thấy mình xa lạ
hẳn, tôi nhìn tôi cũng không còn nhận được nét quen thuộc nữa.
Từ giờ phút đó cho tới trưa
chiều, tôi không rời mắt khỏi đường cái. Những đoàn người chạy loạn về
càng lúc càng đông. Có hỏi họ chỉ khoát tay chỏ lại đàng sau với một câu
nói vội vàng: Đánh nhau sau nớ, chết hết. Đến trưa chiều thì tôi thấy
có người chở cả xác chết trên xe đạp mà chạy về.
Một gia đình ông bác sĩ ở đâu
dưới dốc Nam Giao chạy về được Thủy Dương Hạ, họ đem theo được một chiếc
xe Honda để tải đồ. Mấy cô con gái mặt không còn hột máu, ngơ ngơ ngác
ngác ngồi nghỉ chân bên lề đường. Ông bác sĩ gọi gánh cháo lòng, mỗi
người ăn tới bốn năm bát, vừa ăn vừa thở, nét mặt đang khổ đau rạng rỡ
dần.
Một gia đình khác cũng chạy về
tới đây thì kiệt sức, họ dọn dẹp một góc đình để ở tạm qua đêm. Bà mẹ
lên cơn suyễn, chiều hôm đó bà chết. Người ta bu lại coi đông như kiến.
Xác người đàn bà to béo nằm chình ình trên chiếc chiếu, mắt trợn ngược,
hai tay còn nắm chặt gỡ không ra. Người chồng ngồi bên xác vợ thở ra thở
vô, lâu lâu lại nhìn về phía thành phố Huế, những đụn khói cao ngất
đang đùn mãi lên bầu trời màu chì như chiếc lưỡi xám của con quái vật.
Xế chiều họ dọn đi đâu mất, khi tôi trở ra thì thấy nơi góc đình chỉ còn
bỏ lại có chiếc chiếu. Tức thì một gia đình khác thay ngay vào chỗ đó.
Chiếc chiếu thành nơi nằm ngồi của cả một gia đình mười mấy mạng người.
Lài kể cho tôi nghe một chuyện đã trông thấy. Hắn nói, vẻ mặt vừa cảm động vừa tức cười:
“Hồi chiều có một cô gái mặc đồ
cao bồi, ôm cái áo măng tô mà khóc sướt mướt. Cô ta đi vô xóm, giơ áo
măng tô ra đổi lon gạo mà không ai đổi. Cô khóc. Mình hỏi chuyện cô nói
cái áo măng tô của bồ cô mua bên Mỹ, gửi về tặng. Cô đói quá, muốn đổi
lon gạo mà không ai đổi. Mình định vô lấy gạo đổi mà mạ mình không cho.
Nói để cái áo nớ trong nhà lỡ họ vô họ nói mình thân Mỹ, họ bắn luôn. Cô
nớ đi gạ hoài, vừa khóc vừa năn nỉ mà chả ai đổi hết.”
Thời buổi này cả vàng bạc, châu
báu, ngọc ngà cũng không quý giá gì hơn, miếng đất còn có ích để chôn
xác chết chớ vàng bạc đâu có no được. Hột gạo lúc này là hột châu, quý
giá hơn tất cả mọi thứ trên đời. Mợ Giáo đã dặn dò là nấu cơm phải cho
nhiều nước để ăn mau no và nhớ hà tiện gạo.
Ngay chiều hôm đó, Thái đi vận
động bà con mua hoặc xin mỗi nhà năm ba lon, nó kiếm được gần nửa bao
gạo. Thấy Thái vác gạo về, mắt má tôi sáng rỡ:
“Thằng ni tài quá.”
Thái vất bao gạo xuống đất:
“Ăn hết chừng ni mà chưa yên là chết đói luôn. Không ai dám cho hay bán thêm một hột thóc.”
Dì Vạn của Thái chạy tới hỏi:
“Có ai mua vàng không? Ngoài đường, đoàn người tản cư về, họ bán một lượng vàng có mấy trăm bạc hoặc đổi lấy gạo.”
Mợ Giáo cười cay đắng:
“Một cục vàng đổi một hột gạo cũng không được. Có mà điên.”
Thái nhìn làn mưa bụi, than thở:
“Mưa ri khó đánh lắm. Bên mình có hơi cay nhưng mưa như ri làm răng mà thả được, nước mưa sẽ làm trôi hết.”
Cậu Giáo lắc đầu:
“Thôi, có người ta có mình, mi than thở làm chi.”
Mấy đứa con nít bỗng từ ngoài
đường chạy ùa vào, mặt mày hớt hơ hớt hải. Rồi tiếng cả một đoàn xe rầm
rộ kéo tới. Tôi nhìn ra đã thấy một đoàn xe Mỹ chạy từ phía Phú Bài lên.
Nhiều người Mỹ nhảy xuống xe, nằm sát hai bên đường và bắn chỉ thiên
ròn rã. Họ bắn cả vào rẫy, vào núi. Cậu Giáo hét mọi người vô hầm. Tất
cả các cửa ngõ đều được đóng chặt lại.
Tiếng súng nổ như bắp rang từng
loạt rồi xa dần. Đoàn xe rần rật chạy qua, có nhiều người chạy vào nhà,
không kịp nằm mọp ngoài sân nơi chiếc bể cạn đợi đoàn xe chạy qua hết,
tiếng súng xa dần mới đập cửa rầm rầm. Má tôi thì thầm:
“Má thấy ở nơi ni cũng không yên chi hết. Răng mà má lo quá con ơi.”
Má tôi lại có ý định đi tản cư
nữa. Lần này thì chính má tôi đề nghị. Nhưng tôi đổi ý. Tôi biết là có
chạy đi đâu thì tình cảnh cũng chả khá hơn. Má tôi làm thinh.
Ngoài đường đã hoàn toàn vắng vẻ.
Bóng tối ập xuống rất nhanh. Mưa bụi dày dần và không khí lạnh toát. Má
tôi ngồi bó gối trong góc phản gỗ, nhìn ra ngoài bầu trời đang đen dần.
Bữa cơm hồi chiều tôi ăn được lưng một bát, còn má tôi ăn xong một bát
thì lại khóc, những giọt nước mắt lăn xuống bát cơm và má tôi vội vàng
bỏ đũa.
Hai chiếc hầm nổi đầy nhóc người,
không có chỗ cựa quậy nữa. Tôi muốn qua bên o U ngủ nhờ, nhưng không
dám bước ra sân. May quá, Hiền gõ cửa và gọi. Tôi theo Hiền qua nhà bên
cạnh. Hiền là một sinh viên mỹ thuật, bà con bên ngoại của Thái. Căn nhà
của Hiền ở khuất mặt đường hơn và đã đào được cái hầm sâu xuống nhà khá
rộng. Hiền đốt ngọn đèn chỉ cho tôi coi mấy bức tranh mới vẽ. Nhưng tôi
chả thưởng thức được gì, chả nhận được gì, đầu óc tôi căng thẳng tột
độ. Tôi đang lo sợ nay mai tiếng súng sẽ tới đây, và chắc chúng tôi
không còn sức để chạy nữa.
Hiền nói:
“Có mấy thanh niên tìm chị, họ hỏi em mà không biết ý chị ra răng!”
Tôi mỉm cười: Thôi, em tha cho
chị, bây giờ mặt mũi chị thế này, quần áo rách bươm thế này. Để một dịp
khác, nếu còn được sống. Thủy Dương Hạ là nơi chị ghi ơn trong những
ngày chạy loạn. Tôi nhớ tới những hột vịt lộn Hiền bỏ trong túi giấm dúi
đưa cho tôi ăn, tôi nhớ một vài khuôn mặt trẻ nhìn tôi nửa thương hại
nửa buồn cười. Phải, tôi buồn cười lắm. Nhưng điều đó đâu có quan trọng
gì, miễn là tôi sống được.
Đêm đó, tôi không nằm hầm mà nằm
nơi chiếc giường rộng với o U, với cô con dâu của o U và đứa cháu nhỏ.
Trời lạnh buốt, tôi trùm chăn kín đầu. Chiếc áo măng tô của ba tôi, tôi
vẫn mang kè kè bên mình, kể cả lúc ngủ.
Thôn xóm im vắng một cách khác
thường, không có cả tiếng chó sủa. Không có một tiếng súng nhỏ. Chỉ có
tiếng đại bác trên ngọn đồi nhỏ bắn đi đều đều và tiếng ình ình một nơi
xa vọng lại. Nơi xa đó là thành phố Huế, là Thành Nội, Từ Đàm, An Cựu,
Nam Giao… Mỗi tiếng ình như xoáy tim tôi, tôi biết rằng, khi tôi được
nằm yên ổn ở nơi đây thì trong thành phố đó, bao nhiêu người đang chết
súng chết đạn, chết đói chết khát. Bao nhiều lồng ngực muốn vỡ tung, bao
nhiêu giọt nước mắt hòa lẫn với máu.
Thao thức mãi rồi tôi cũng thiếp
đi. Tôi chìm vào một cơn mơ dữ dội. Tôi thấy tôi chạy loạn cùng khắp các
ngả đường trong thành phố. Những khuôn mặt các anh giải phóng như những
người khổng lồ, luôn luôn muốn nuốt chửng tôi. Những trái đạn rơi đằng
sau lưng, rơi đằng trước mặt. Và tôi cứ chạy, y hệt như những cảnh tôi
sống qua. Sau lưng tôi những xác chết bật tiếng khóc đuổi theo, cả những
bàn tay, khúc chân cũng chạy theo níu nữa. Dưới chân tôi máu chảy như
suối. Nào xác Việt cộng, xác trẻ em, xác lính, xác Mỹ, xác bà già nằm
ngổn ngang bít kín đường. Mặc, tôi bước qua xác họ và chạy tới đằng
trước. Nhưng tôi bị kẹt giữa hai đụn khói khổng lồ. Trước mặt tôi cháy,
sau lưng tôi cháy. Những đoàn người chạy loạn xuôi ngược, đạp bừa lên
nhau. Tôi nhận ra trong đoàn người có cả đoàn người cầm cờ trắng chạy
qua sông một ngày nào. Có cả má tôi, em Thái, anh Lễ, bé Hà chạy tít
đằng xa và bỏ cách tôi.
Ở bên này cầu, một anh lính giải
phóng bắc tay làm loa: Đồng bào hãy ở trong nhà, đừng ra đường. Ở bên
kia, một anh lính quốc gia gào lớn: Hãy về phía hữu ngạn. Tản cư về phía
hữu ngạn. Tôi không còn nhận ra phương hướng nào nữa. Nơi nào là hữu
ngạn? Nơi nào là tả ngạn? Những dòng máu đã chảy ra tới bờ sông và mặt
nước lạnh buốt có những làn chỉ hồng. Đống khói đằng sau lớn dần, đống
khói trước mặt lớn dần. Khói bao bọc tôi, che kín mắt tôi, rồi những
tiếng súng lớn nhỏ bắt đầu thi nhau nổ. Đoàn người kêu khóc, kẻ vượt
chạy, người ngã xuống. Tôi cũng chạy theo. Nhưng không kịp nữa rồi. Một
tiếng nổ lớn. Cả thành phố nổ tung theo. Người tôi như tan trong những
mảnh gạch cát. Tôi còn kịp nghe tiếng kêu của tôi rú lên, bay vút lên
bầu trời màu chì xậm.
Có bàn tay kéo tôi dúi xuống đất:
Chạy vô hầm. Mau lên. Tôi chợt tỉnh. Một tiếng nổ rất gần rung chuyển
cả căn nhà, mấy cánh cửa sổ bị bật tung cứ đánh ra đập vào liên tiếp.
Tôi lăn tròn dưới đất mấy vòng thì tới miệng hầm.
Có lẽ tôi là người xuống hầm chậm
nhất. Một tiếng nổ nữa tiếp theo. Mái nhà kêu rạt rạt như muôn ngàn
mảnh vụn đang trút xuống trên mái tôn. Thì ra tiếng nổ trong cơn mơ của
tôi kéo đổ một thành phố trùng hợp với tiếng nổ giữa đêm nơi làng quê
này. Bàn tay ai bên sườn tôi run lập cập. Một tràng súng nhỏ nổi lên
khắp nơi. Họ đánh nhau tới nơi rồi. Tôi nắm chặt lấy tay o U. Tay o U
cũng run lập cập. Tôi nghĩ tới má tôi, chú tôi và Thái ở bên nhà cậu
Giáo. Chắc má tôi cũng đang run lên như chúng tôi ở đây. Giọng Hiền nói
nhỏ:
“Chắc đánh nhau rồi.”
Có tiếng đập cửa. Mọi người im
lặng, nín thở. O U bỗng càu nhàu: Tổ cha con chó, nó ra sân rồi. Tiếng
con chó sủa lên từng hồi, tiếng súng nổ lẻ tẻ rồi tiếng chân chạy khắp
vườn. Tôi nằm rạp xuống sát mặt hầm. Họ đi lùng bắt dân làng rồi. Số
phận tôi rồi sẽ ra sao? Tôi nhớ tới lời Hiền bảo lúc tối là có mấy thanh
niên đã nhìn ra tôi. Không, tôi đã sợ quá rồi nghi ngờ bậy, không thể
ai còn đủ sức để hại ai lúc này. Tuy vậy, lòng tôi không xua đuổi hết sự
ngờ vực.
Tiếng chân chạy ngang vườn rầm
rầm rồi có tiếng hú, tiếng gọi nhau: Khai hỏa rồi. Quới ở đầu non. Lục ở
cuối sông. Tiếng hô bắn. Đó là những ám hiệu. Nhưng không biết họ có
soát nhà không. Đó là mối quan tâm nhất của tôi lúc này. Tiếng chân dừng
lại ở sân. Rồi tiếng chân lại chạy đi. Tiếng hô xa dần rồi im lặng hẳn.
Lúc này những tiếng súng lại nổi lên. Tiếng Hiền gắt gỏng một mình:
“Đợi đi hết mới bắn. Thiệt đồ ngu.”
Một lát sau, có tiếng dân vệ la
hét ngoài đường: Đuổi theo, anh em ơi. Nhưng chỉ mấy phút sau lại hoàn
toàn im lặng. O U bắt chúng tôi ngồi suốt đêm dưới hầm, không cho lên
nhà ngủ nữa.
Sáng sớm, tôi chạy sang nhà cậu
Giáo trong lúc chưa có một nhà nào hé cửa. Tôi đập cửa thình thịch. Bên
trong nghe ngóng một hồi rồi cánh cửa hé ra chỉ vừa một người lách vô
rồi gài chặt lại ngay. Mọi người vẫn còn ở trong hầm. Má tôi đưa tay ôm
chặt lấy tôi khóc vùi.
Thái thì thầm:
“Đêm qua bác lo cho chị quá, bác khóc cả đêm.”
Tôi ôm chặt má tôi hơn và không
biết nói một lời nào để má tôi yên lòng. Chắc má tôi chẳng còn phút nào
yên lòng nữa. Thái chỉ cánh cửa sổ bay mất từ bao giờ:
“Túi qua nổ mấy tiếng, mấy cái cửa bay hết rồi.”
Tiếng dì Vạn:
“Thì bom nó rơi đâu sát nhà mình
nì. Tao nghe một cái rạt, tưởng cái hầm bay luôn. Tao cứ ôm cái đầu,
tưởng cái đầu cũng tiêu luôn rồi.”
Mợ Giáo gắt:
“Dì răng hay noái bậy rứa thê.”
Túc, con trai cậu Giáo, đùa:
“Bay đầu còn hai chưn còn chạy được mà dì.”
“Nói răng mà nói tào lao tứ đế. Ở nơi súng đạn mà cái miệng chạch chạch.”
Một lát sau thấy không có gì lạ
và ngoài đường đã có người đi. Cậu Giáo mở cửa. Một mảnh bom nằm chình
ình ở trước sân. Mọi người chạy ra coi ngó một hồi. Thái đi ra đường một
lúc rồi về cho biết là tối hôm qua Việt cộng đã giật cái cầu vực nơi
cống. Nhưng giật luôn hai ba quả mìn mà không sập hẳn, chỉ lủng một lỗ
lớn, xe không đi được nhưng đi bộ và xe gắn máy qua được.
Thái nói thêm:
“Túi qua họ về làng nhưng rồi rút đi hết. Chắc họ tưởng cầu sập rồi.”
Ngoài ngõ có tiếng gọi. Chúng tôi nhìn ra. Vợ chồng con cái Bé đang gánh gồng bồng bế nhau đứng ở đó.
Tôi chạy ra:
“Đi mô vậy?”
“Đi xuống Phù Lương, ở đây không yên rồi.”
“Xa không?”
“Xa, người ta đi được mình đi được chớ.”
“Biết ở dưới đó có yên không?”
“Người ta đi rần rần.”
Bé nói:
“Hỏi bác với chị có đi thì đi, không tụi em đi.”
Thái lắc đầu:
“Ở mô cũng rứa, biết mô ra răng mà đi.”
“Anh xuống dưới nớ, anh tìm đồn lính trình diện luôn. Tức quá.”
Thái làm thinh một lúc, suy nghĩ rồi hỏi:
“Anh có tin tức chi không?”
“Nghe nói thằng đồn trưởng của mi bị cắt cổ rồi. Cô cán bộ chạy về nói lại.”
Thấy Thái yên lặng, Bé tiếp:
“Mi ở đây răng họ cũng về lùng họ bắt. Họ biết là nhiều người tản cư về đây rồi.”
Má tôi đã ra tới nơi. Chú tôi đòi
đi theo vợ chồng Bé. Thế là gia đình tôi lại chia thêm một lần nữa.
Thái đứng nhìn vợ chồng Bé đi khuất khỏi cầu vực, thở dài:
“Mình vô đi bác.”
“Thái nhất định ở đây?”
Thái mím môi:
“Ở đây.”
Má tôi rưng rưng nước mắt:
“Dù răng đi nữa, ở nơi ni cũng gần An Cựu. Không biết trên ra răng rồi…”
Tôi biết má tôi đang nhớ tới căn
nhà, tới bàn thờ ba tôi và ngôi mộ mới trên núi Tam Thái. Hôm đi tản cư
xuống Thủy Dương Hạ, ngang qua đồng, má tôi nhìn lên phía núi hoài.
Nhưng cũng như tôi, má tôi không thể phân biệt được mộ nào là mộ ba tôi.
Nơi sườn núi là khu vực của người chết, và ngôi mộ nào cũng giống nhau
như hệt.
Mấy ngày đầu ở Thủy Dương Hạ thật
yên ổn. Nhưng từ hôm bắt đầu có tiếng nổ ở cầu vực thì ban đêm đại bác
lại câu tới làng này. Tối nào chúng tôi cũng chui vào hầm thật sớm. Qua
đêm thứ hai thì mấy tiếng nổ tiếp nữa, cầu vực hư hại hoàn toàn. Ban
ngày Mỹ lên làm cầu, nhưng ban đêm thì họ rút về hết, nhường phần cho
mấy anh giải phóng. Đến ngày sau nữa thì trong làng đã có vài nhà bị
trúng đạn đại bác. Sáng nào cũng nghe người ta bàn tán xôn xao về những
trái đại bác bắn ra ngoài sông, rơi vào nhà dân cư. Một hai nhà đã bị
trọn. Ban đêm các anh giải phóng về lục soát bắt dân. Phía cầu vực đã bị
chận lại, lính canh gác không cho dân đi về Phù Lương nữa. Chúng tôi bị
kẹt ở Thủy Dương Hạ và lại chờ đợi sự rủi may.
Một vài người trên Huế tản cư về
cho biết là ở An Cựu đã được giải tỏa. Quân Mỹ và lính quốc gia đã chiếm
đóng, làm chủ hoàn toàn. Vài người trở lên để chở của nhưng họ trở về
khóc lóc thảm thiết. Nhà cửa nào không bị sập thì cửa đã bị mở tan hoang
và đồ đạc không còn gì hết. Cầu An Cựu đã bị giật sập ngay khoảng giữa,
sự qua lại hết sức khó khăn. Má tôi hỏi thăm kỹ càng lắm, họ cho biết
tuy đã giải tỏa được, nhưng lính quốc gia và Mỹ chỉ lên có ban ngày, ban
đêm rút trở lại Phú Bài hết. Trong làng lại có tin giặc sắp tới đây, ở
trên phố thua, thế nào họ cũng rút về quê. Người ta sửa soạn để tản cư.
Má tôi và Thái quyết định trở lại An Cựu.
Mấy ngày liền, tôi nhìn thấy
những đoàn xe chở đầy xác chết và binh sĩ bị thương chạy trở về, qua
làng. Nhưng người ta vẫn ùn ùn kéo nhau trở lại Huế.
Nhưng đồng thời, cũng có đoàn
người ùn ùn từ Huế kéo về. Kẻ chạy lên, người chạy xuống. Má tôi cho
Thái đi dò đường trước. Nó đi khoảng chừng nửa buổi thì trở về:
“Nhiều người về An Cựu rồi bác. Mình về đi.”
Vậy là chúng tôi sửa soạn lên An
Cựu. Má tôi dặn dò cậu Giáo nếu ở đây đại bác dữ quá thì lên trên đó. Mợ
Giáo chia thêm cho má tôi ít gạo: Dù răng đi nữa ở dưới ni cũng còn có
thóc, giã ra mà ăn, trên nớ kẹt là chết đói. Mợ Giáo, cậu Giáo và cả nhà
đưa chúng tôi ra một khoảng đường rồi mới trở lui. Thấy nhiều đoàn
người gồng gánh kéo nhau về Phù Lương, má tôi lại do dự. Thái phải nói
mãi má tôi mới thở dài: Thì thôi cũng đành. Thái nói ở lại Thủy Dương Hạ
hết sức nguy hiểm, nó nghe phong thanh: đêm, Việt cộng đã vô xóm bắt
những thanh niên đi.
Tôi thấy hơi yên tâm khi thấy có
nhiều người đi trở lên, họ mang theo những thúng, gióng không. Tôi hỏi,
họ cho biết là quân Quốc gia đã chiếm An Cựu họ đang kiểm soát trên đó,
lên xem còn chi thì chở đi không bị trộm cắp lấy hết.
Tiếng đại bác vẫn nổ ình ình nơi phía thành Huế. Mặt má tôi tái xanh, môi bà run rẩy:
“Mần răng chừ, trên đó còn bắn nhau.”
Thái quả quyết:
“An Cựu về phía ta rồi, đại bác bắn lên miệt Bến Ngự, Từ Đàm.”
Quả đúng như lời Thái nói, lên
tới Mù U, tôi nhìn thấy bóng những quân nhân thấp thoáng. Họ vác súng đi
thành từng hàng, hoặc lẻ tẻ đứng gác ở hai bên đường. Lên tới đồn
Trường Bia thì tôi càng vững lòng hơn nữa. Lính ở trong đồn rất nhiều.
Phía ngoài, họ đứng gác cẩn thận lắm. Khi chúng tôi đi ngang qua, bắt
gặp những tia mắt họ nhìn, tôi muốn cười mà không cười nổi. Tôi chắc họ
cũng thế, những đôi mắt nhìn chúng tôi cho tới khi chúng tôi đi xa. Một
vài nhà hai bên đường hé cửa. Vài người thò đầu ra hỏi:
“Về lại hả?”
Má tôi gật gật đầu, hỏi lại:
“Yên chưa?”
“Ồ, được rồi. Đào hầm trốn đạn. May rủi biết mô bác ơi.”
Một tiếng nổ lớn như xé rách màng tai. Chúng tôi vội vã nằm dạt xuống đường.
Một tiếng nói trong sân nhà nào nói vọng ra:
“Đạn mình bắn đó. Sau đồn Trường Bia bắn đi mà.”
Tôi đứng dậy, ngượng nghịu phủi đất rồi kéo má tôi đứng dậy theo. Bà nhìn quanh nhìn quất:
“Vắng quá, chưa có mấy người về.”
Rồi bà hỏi một đầu người trong một cửa nhà vừa ló ra:
“Mới về?”
“Không, tui ở nơi ni từ mấy bữa ni.”
“Không can chi hả?”
Người đàn bà thò đầu ra nhiều hơn, giơ hai ngón tay rồi chỉ về phía góc sân:
“Chết hai người.”
Tôi nhìn theo tay người đàn bà
chỉ. Hai nấm mộ đất đắp sơ sài nơi góc sân lạnh lẽo không có một que
hương. Tôi kéo chặt hai vạt áo măng tô rồi quay mặt đi nơi khác. Người
đàn bà vẻ mặt choắt lại, không biết sự khắc khổ từ lâu hay mới biến đổi
khuôn mặt bà ta. Nhưng bà không có vẻ gì bi thảm hết. Tôi rùng mình,
mười mấy ngày rồi, họ chừng như đã quen với máu, với sự chết chóc bi
thương.
Gần đến nhà, chân tay tôi run rẩy
quá. Tôi vừa mừng vừa sợ. Tôi tỏ ý lo lắng ngôi nhà đã đổ nát, không
còn toàn vẹn nữa. Hôm đi xuống Thủy Dương tránh nạn, ngang qua đường
cái, tôi đã cố nhìn vào ngôi nhà, nhưng đạn đằng sau lưng như xô tôi
chạy tới, và những hàng cây loáng thoáng che khuất khu vườn. Trong những
ngày ở Thủy Dương, biết đâu ngôi nhà đã sập. Người ta chả đồn đãi vài
câu chuyện hết sức thương tâm và khôi hài là gì. Đoàn quân Mỹ lên An Cựu
thấy ngôi nhà nào còn nguyên lành hoặc tình nghi là bắn bừa vào, bất kể
bên trong có người hay không. Hoặc họ tràn vào nhà, đứng ở miệng hầm mà
bắn tràn vào hầm. Họ sợ Việt cộng núp trong đó. Càng gần nhà, chân tôi
càng bước mau hơn. Thái và má tôi cũng thế. Khi đi thì gia đình tôi thật
đông, khi về chỉ còn má tôi, tôi với Thái. Dì Vạn với cô con gái đang
sửa soạn, nói sẽ lên sau. Vợ chồng Bé về Phù Lương rồi. Thu cũng bỏ đi
theo.
Khi sắp bước vô ngõ, khu vườn của
chúng tôi khuất ở đằng sau một khu nhà khác và con ngõ đi vào dẫn tới
cổng trồng hoa cẩn và chè tàu, tôi bỗng nghe tiếng gọi đằng sau. Thì ra
chú tôi đang tất tả đi theo. Vợ chồng Bé bàn tính như thế nào mà bỏ ông ở
lại. Tôi đẩy cánh cổng sắt khép hờ. Ngôi nhà bỗng bừng sáng lên như
chào mừng chúng tôi với những dấu hiệu mới mẻ. Mái ngói bị trụt hoặc
lủng lỗ vì đạn rốc két, vì bom chơm. Trước nhà, bức tường nứt một khoảng
lớn và những cánh cửa sổ bị sức dội của bom đạn mở toang hoang. Tuy
vậy, hai cánh cửa chính vẫn đóng. Thái nhảy lên thềm trước tiên. Nó đặt
bao gạo xuống, quay lại nhìn má tôi rồi móc túi lấy chìa khóa. Tôi thấy
tay nó run rẩy và mặt nó tái đi. Cánh cửa mở, ánh sáng tràn vào căn nhà.
Những đèn nến thắp dở, những liễn đối, những bông hoa cườm đập vào mắt
tôi. Tôi chạy ào vào nhà, gục đầu nơi bàn thờ ba tôi. Má tôi ngồi bệt
xuống đất cất tiếng khóc. Và Thái, tuy đã theo công giáo và rửa tội từ
lâu, nó vẫn tìm hương thắp lên bàn thờ ba tôi ở gian trên, rồi cầm nắm
hương còn lại thắp các lư hương ông bà, những người thân đã chết. Tôi
nhìn lên bàn thờ ba tôi, tấm ảnh phủ vải đỏ cùng tất cả lư trầm, bàn nến
đều phủ một lớp bụi dày. Mắt tôi chợt bắt gặp những lỗ thủng trên mái
nhà và má tôi đang gọi Thái, tay cầm một mảnh bom hay đạn gì đó, sần
sùi, xám ngoét màu kẽm.
Một lát, chúng tôi đi lục soát
xem có mất mát gì không. May quá, những thứ chúng tôi bỏ lại đều còn
nguyên, chỉ những thứ đem đi mới mất. Thái quả quyết là chưa ai vô nhà.
Kể ra cũng chả ai thèm vào ngôi nhà này làm gì, ba tôi vừa mới chết
xong, khu nhà lại bỏ hoang không người ở từ lâu, hôm đám ba tôi xong,
liễn đen trắng hoa cườm, vàng hương đầy nhà, trông vào như một khu nhà
mồ. Nếu ai lạc vào khung cảnh tang tóc, tiêu điều thế này, chắc cũng
hoảng lắm. Nhưng vì đây là nhà chúng tôi, nơi kia là bàn thờ tổ tiên,
nơi nọ là bàn thờ vừa thiết riêng cho ba tôi, tôi mới có được cảm giác
ấm cúng và bình yên như thế này.
Má tôi bảo đóng bớt cửa sổ lại,
cửa lớn cứ khóa bên ngoài trừ khi có việc gì cần đi ra ngoài, để họ lầm
tưởng là nhà bỏ không. Tôi nhìn ra cửa sổ quan sát xung quanh hàng xóm.
Bên khuôn tịnh độ Nam An thật vắng vẻ, những nhà xung quanh đó cũng thật
vắng vẻ. Nhưng một lát, tôi thấy một ông già đi ra trước sân, dừng lại
nơi cột cờ thường treo cờ Phật giáo khi lễ lạc, ông đứng ngó ra con
đường vắng vẻ, hai tay chắp sau lưng. Tôi muốn gọi ông già hỏi chuyện
nhưng má tôi đã kéo tôi trở vào. Thái nói:
“Mình phải làm hầm lại. Hầm này có chắc chi mô.”
Hai chị em tôi cùng với ông chú
phụ nhau sửa lại hầm. Ngay chiều hôm đó, Túc và Lài từ dưới Thủy Dương
Hạ lên. Túc cho biết dưới đó không yên và lên đây ở tạm. Một lát Hiền
cũng đi xe Honda vào. May thay, chúng tôi vừa bỏ Thủy Dương đúng lúc.
Cũng trong chiều hôm đó vợ chồng Bé trở lại nữa. Đi giữa đường chúng nó
đã bị chặn lại, nghe đâu dưới xa kia có xe bị bắn và tấn công, đoàn xe
Mỹ bị kẹt lại, đêm nay chưa chắc đã về dưới Phú Bài được. Nhờ đông
người, chúng tôi mở cửa bếp. Dưới bếp, hồi trước ba tôi có cho một ông
giáo viên thuê. Hôm Tết, vợ chồng con cái về quê ăn Tết và khóa cửa lại.
Dưới bếp có sẵn một cái hầm nổi bằng bao cát, chúng tôi khuân tạm lên
nhà làm một cái hầm nổi ở phía sau bàn thờ. Thái vừa làm vừa hỏi tôi có
thấy chi lạ không. Tôi nói không. Thái nói khi hồi đi vô nhà, ngay qua
cổng nhà đằng trước xây mặt ra hẻm vô nhà chúng tôi, Thái thấy nơi nhà
đằng trước có một ngôi mộ trước sân. Trên mộ có nén hương và một nải
chuối xanh. Tôi nhớ lại nhà hàng xóm đằng trước đã bị đạn và bốc cháy
ngay sáng mồng hai, có mấy người bị thương chắc một người đã chết. Thái
nói nhỏ:
“Bác gái đằng trước chết chôn ở đó. Họ đi mô hết rồi, nhà bỏ không.”
“Còn mấy người bị thương nữa mà.”
Thái lắc đầu nói: Em chịu. Thái
cũng như tôi, làm sao biết thêm gì hơn nữa. Chúng tôi lại lăng xăng làm
hầm. Ở trước khuôn có hiệu đồ mộc, Thái ra khiêng được mấy tấm ván khá
tốt, đem vào kê hầm.
Chiếc hầm coi cũng tạm được, nó
chia làm hai ngăn. Ngăn trong dành cho má tôi và mấy chị em. Ngăn ngoài
dành cho đàn ông. May thay, nhà tôi vừa xong đám ma, có rất nhiều đèn
cầy, thắp tới mấy tháng chắc cũng không hết. Thái lại tìm ra một thùng
dầu hỏa. Ba tôi dạo còn sống vẫn ưa tích trữ đồ, ông sắp về hưu và định
dùng khu vườn cùng nhà thờ họ này làm nơi an dưỡng tuổi già.
Chiều tối hôm đó, chúng tôi ăn
cơm rất ngon. Cơm gạo giã tay, ăn với thịt kho mặn. Món ăn này do mợ
Giáo đài thọ từ lúc còn ở dưới Thủy Dương. Chúng tôi ăn thật nhiều cơm.
Vì làm việc mệt và đói nữa, chắc má tôi phải nhường mất một nửa phần của
bà.
Đêm đến, trước khi gài cửa ngõ
cẩn thận và chui vào hầm, dì Vạn đốt hương trên bàn thờ ba tôi, lâm râm
khấn nguyện. Rồi đi ra sân thắp hương vái bốn phương. Cây mai nơi bể
nước vẫn còn lơ thơ mấy bông, dì đem hương cắm ở gốc cây mai đó. Chúng
tôi nằm đất, lèn sát nhau mà vẫn không đủ chỗ. Lài với Túc không chịu
nằm hầm, trải chiếu nằm ngoài nhà. Má tôi lo lắng bàn tính chuyện những
ngày sắp đến. Dì Vạn càu nhàu nói, dù sao đi xuống dưới Phù Lương vẫn
yên hơn là ở đây. Nhưng má tôi nói chạy đông chạy tây đã hết rồi, giờ về
đây có chết cũng không còn tiếc chi nữa. Ở đây còn mong được biết tin
con cháu.
Vợ chồng Bé và chú tôi thì lên
nhà của họ phía trên đường rầy từ chiều. Bé cho biết trên đó người ta về
cũng đông lắm rồi. Nhiều gia đình khi chạy còn nguyên lành, khi về
thiếu mất vài mạng. Họ đã chết dọc đường. Má tôi dặn: ban đêm ai gọi cửa
đừng mở. Thái khôn khéo ra ngoài khóa cửa lại rồi leo cửa sổ mà vào. Nó
nghĩ rằng làm như thế có ai gọi họ tưởng là nhà bỏ không. Mà đúng như
vậy, nửa đêm có nhiều tiếng súng nổ nhỏ, rồi tiếng chân đi ngoài vườn.
Tiếng chân đi mạnh bạo không thèm dấu diếm gì hết. Tiếng chân dừng lại ở
trước cửa nhà rồi có tiếng gõ cửa. Tiếng đàn ông nói:
“Có ai không. Mở cửa. Mở cửa.”
Có tiếng khác gắt:
“Đồng chí chỉ hoài công, tối nào cũng gõ. Họ bỏ nhà hoang mà.”
“Khu vực này người ta về đông lắm rồi. Biết đâu chủ nhà đã về.”
“Nhưng nhà này có tên trong danh sách không đã chớ?”
“Có tên, nhưng ông già làm công chức đó đã chết rồi.”
“Vậy thì thôi. Con cháu họ ở kệ họ. Tôi đoán chắc chưa có ai về đâu. Nhà này ai mà dám ở.”
Tiếng chân xa dần. Có tiếng chó
sủa trong xóm ra. Một lát có tiếng đại bác nổ gần. Lài chui tọt vào hầm.
Chúng tôi phải ngồi dậy mới đủ chỗ. Tiếng đại bác rơi đều đều, xa có,
gần có. Có tiếng quá gần, dội tức ngực làm chúng tôi co rúm người lại.
Lài nắm tay tôi hỏi: Vân ngồi mô. Đây nì. Ở nơi ni dễ sợ rứa hỉ. Tiếng
dì Vạn nói:
“Im đi, đừng có rì rào.”
Xa xa tiếng súng lại nổ ran. Đánh
nhau ở đâu có vẻ lớn lắm. Chúng tôi thao thức lo lắng một vài giờ rồi
cũng mệt quá ngủ thiếp đi.
Sáng ngày, dì Vạn dậy trước nhất.
Dì ngóng ở cửa nghe động tĩnh rồi mới mở hé cửa. Ngoài đường vắng ngắt,
nhìn nhà nào cũng hoang vắng đến dễ sợ. Thái chui ra sân trước tiên,
rồi tới tôi, tới Lài. Buổi sáng trời vẫn lất phất mưa và lá cây trong
vườn xanh một cách kỳ lạ. Qua những đám mây lam sà thấp, tôi bỗng hình
dung được phía sau một bầu trời xanh lơ và ánh mặt trời rực rỡ. Má tôi,
dì Vạn cũng chạy ra: Nam mô A Di Đà Phật, một đêm yên ổn đã qua. Dì Vạn
chấp tay vái bốn phương trời. Chúng tôi nhìn nhau, mừng mừng tủi tủi.
Lâu nay chúng tôi vẫn sát nhau kề cận bên những nguy hiểm mà không nhìn
thấy nhau hay sao mà bây giờ, đứng trước sân lại mừng tủi như sau bao
ngày gian nguy mới gặp nhau, thấy nhau vẫn còn lành lặn.
Nhưng cơn mừng tủi chưa dứt,
ngoài quốc lộ, một đoàn xe Mỹ chạy từ Phú Bài lên, súng bắn rát vào hai
bên ruộng. Chúng tôi không ai bảo ai đều chạy vào nhà đóng chặt cửa.
Đoàn xe Mỹ qua một lúc thì Thái lại nói:
“Có lính mình lên.”
Nó đứng bên cánh cửa sổ hé mở và nhìn ra ngoài. Má tôi nói:
“Phải sửa lại cái hầm. Thằng Thái nhớ đào thêm đất đổ lên cho dày nghe.”
Mặc dù cố gắng hy vọng nhưng
chúng tôi chưa thấy dấu hiệu gì chứng tỏ mình là người sẽ sống sót trong
thành phố này, sau biến cố.
Đêm thứ nhất trở lại thành phố,
mặc dù có tiếng đại bác, có tiếng súng nổ ran ở xa xa, chúng tôi vẫn còn
được ngủ yên được mấy tiếng đồng hồ trong chiếc hầm chật hẹp.
Không may cho chúng tôi, chiếc
hầm được sửa sang mới ba bốn hôm thì người thuê căn nhà bếp là một giáo
viên tiểu học dạy trường An Cựu trở về.
Thấy cửa bếp bị mở tung, ông có
vẻ không bằng lòng. Ông vội vàng bỏ hết đồ đạc vào mấy cái giỏ lớn, ngỏ ý
đòi mấy bao cát lại để xây hầm đưa vợ con về tạm trú, xong ông ta lại
lên xe Honda đi mất. Sáng sớm hôm sau chúng tôi lại dỡ hầm, mang bao cát
xuống bếp trả lại, rồi cùng nhau làm tạm một cái hầm mới không lấy gì
làm kiên cố lắm. Người thuê căn nhà bếp trở về sửa sang lại cái hầm,
nhưng ông chỉ đưa vợ con về có một hôm để lo thu dọn chở đồ đi nơi khác.
Chiếc hầm dưới bếp bỏ không, Thái lại mò xuống lấy thêm bao cát lên
chất cho dày.
Mấy ngày sau, quốc lộ một nối vào
An Cựu có vẻ tấp nập hơn trước, người tản cư đi, người hồi cư về có vẻ
đông đúc hơn. Một vài gia đình tạm trú lại một buổi hoặc một ngày nơi
sạp mộc, rồi họ lại tiếp tục đi về Phù Lương, Phú Bài.
Mỗi ngày, vợ chồng Bé xuống cho
chúng tôi ít tin tức. Nào đêm qua Việt cộng về đầy ở ngoẹo Hàng Xay. Nào
sáng nay quân mình đi gỡ cờ treo trước đồn vận tải. Hoặc: Bác ơi, sắp
đánh tới nơi rồi. Họ sắp đánh chiếm lại An Cựu.
Tôi không thể nào hiểu được việc
gì sẽ xảy ra nữa. Nhưng khu vực An Cựu thì có vẻ bình yên hơn. Một hai
ngày đầu, chúng tôi không thấy gì lạ, nhưng vợ chồng Lài thì đêm nào
cũng nghe tiếng chân đi qua vườn. Vài ba hôm, Hiền, Lài và Túc về dưới
Phù Lương. Nhiều gia đình tản cư về dưới đó vì nghe dưới Phù Lương, Phú
Bài có lập trại tỵ nạn. Vợ chồng Bé gan lì ở lại cho tới một hôm có mấy
quả đại bác không hiểu vì tính sai tọa độ hay cố ý rơi trúng vùng An Cựu
vào đêm khuya. Lúc đó chúng tôi đang nằm trong hầm, mỗi người đều bị
dội bật lên và túm chặt lấy nhau. Hai ba tiếng nổ liên tiếp thật gần rồi
im lặng hẳn. Sáng ra Thái đi ngóng tình hình, thấy ngoài đường người ta
khiêng mấy người bị thương đặt bên đường, tìm cách đưa đi bệnh viện Mỹ.
Gần chín giờ sáng, một đoàn xe lính đi lên, nhưng không chiếc nào dừng
lại. Rồi tới mười giờ, những người lính biệt động quân, nhảy dù, từ dưới
Phú Bài đi bộ lên. Không có phương tiện nào nữa, mấy người bị thương đã
chết. Hai căn nhà hoàn toàn hư hại, mái tôn của nhà trúng đạn văng tuốt
ra tận sau đường rầy. Rồi đêm hôm sau lại nổ nữa, lần này xa hơn một
chút, và sáng hôm sau, vợ chồng Bé hớt hơ hớt hải bế bồng nhau xuống nhà
chúng tôi:
“Không ở được rồi. Lính mình ở
Sài Gòn ra, đánh lớn lắm. Đang chiếm lại nhà bưu điện. Dân dồn về hết
nơi trường kiểu mẫu. Đêm qua bom chơm rơi trên xóm con, mấy cái nhà nữa
bị sập.”
Má tôi thở dài. Thái lo lắng:
“Có ai bị thương không?”
“Không, may người ta đều ở hầm hết. Đêm qua anh tưởng nguy rồi chớ.”
Và không đợi hỏi ý kiến ai, vợ chồng Bé, Thu cùng mấy đứa nhỏ gồng gánh, bồng bế đưa nhau về Phù Lương.
Má tôi thấy tình hình gay go quá,
nửa muốn đi nửa muốn không. Má tôi vẫn ngóng đợi tin tức ở Nam Giao, Từ
Đàm. Nhưng có được chút tin tức nào thì chỉ toàn là những tin tức làm
chúng tôi thêm tuyệt vọng.
Trong những ngày trước, dân chúng
Huế chết vì đại bác, vì bom máy bay, vì bị đấu tố, điểm chỉ. Chúng tôi ở
An Cựu, coi như giáp với ngoại ô thành phố, có chạy loạn thì cũng chạy
vì sợ bị Việt cộng bắt, hoặc bị trúng đạn chết oan. Nhưng lần này, ác
chiến đã diễn ra khắp cùng thành phố. Một vài nơi quân quốc gia đã chiếm
lại được, những lá cờ giải phóng đã được gỡ xuống. Ở đồn Trường Bia đã
thấy thấp thoáng lính ra vào, nhưng ở đồn vận tải vẫn bỏ không. Cầu An
Cựu ban ngày được Mỹ lên canh gác và sửa chữa. Phải nối xong mấy cái
cầu, quân đội mới dàn qua bên phố được. Phía bên hữu ngạn mới chỉ yên ổn
có mấy vùng. Tin tức đưa về thành nội, phố Trần Hưng Đạo vẫn do họ
chiếm giữ. Ở Nam Giao, Bến Ngự, Từ Đàm vẫn là nơi họ đóng quân.
Chúng tôi về lại thành phố đúng
lúc phe quốc gia cố giành lại từng tấc đất thật là một trò đùa nguy
hiểm. Nhưng chạy thoát thân một mình để một nửa gia đình bị kẹt lại, quả
trong lòng chúng tôi không ai muốn thế.
Giữa lúc chúng tôi được trú ngụ ở
một phần đất tương đối ít nguy hiểm thì thành phố Huế rơi vào lúc ngập
súng đạn, máu đổ. Và nhờ có một người thoát từ phố về, chúng tôi biết
được những tin tức kinh hoàng bên kia sông Hương.
Một buổi sáng, Thái thấy một đoàn
xe đi lên, tới cầu rẽ lên phía Phú Cam, rồi rất nhiều đoàn lính dù,
biệt động quân đi bộ từ dưới Phú Bài lên. Một lúc sau lại thấy Mỹ tới
sửa tiếp cầu An Cựu. Thái kêu tôi ra đường:
“Người ta đi lại nhiều rồi chị.”
Má tôi dặn:
“Đừng có ra đường nghe tụi bây. Quân mình lên là sắp đánh nhau lớn rồi đó.”
Quả như lời má tôi đoán. Chỉ
chừng nửa tiếng đồng hồ sau khi đoàn lính đi qua, là tiếng súng lớn nhỏ
nổi lên ở miệt Phú Cam, Bến Ngự. Và một số dân chúng bồng bế nhau chạy
loạn về An Cựu để xuống Phù Lương.
“Đánh nhau lớn rồi.”
Má tôi kêu chúng tôi chui vào hầm hết. Nhưng gần tới trưa chúng tôi mới nhớ ra là nhà chưa có gì ăn, chỉ còn ít gạo.
Thái nói:
“Hồi nãy con thấy dưới Mù U có bán thịt heo. Dưới đó với chỗ mình ở yên rồi, thuộc vùng quốc gia rồi.”
Má tôi làm thinh. Thái lại nói:
“Để con với chị Vân đi mua thịt. Họ bắn nhau ở trên Bến Ngự lận mà bác.”
Tôi cũng muốn ra đường coi tình hình nên nói vô giúp Thái:
“Con với nó chạy ra mua một chút về liền mà má.”
Má tôi thở dài:
“Ừ, mà đi mau nghe.”
Tôi theo Thái chui ra khỏi hầm. Má tôi dặn:
“Tránh đạn mà đi nghe con.”
Câu nói của má tôi làm tôi vừa
thương vừa buồn cười. Làm sao tránh đạn được. Nhưng tôi cứ dạ cho má tôi
yên lòng. Tôi với Thái không đi xuống Mù U mà rủ nhau đi ra thẳng phía
cầu An Cựu.
Thiệt chúng tôi đã gan cùng mình. Ngoài đường không có một người đi, lính Mỹ lính Việt xuôi ngược tíu tít chuyển quân.
Họ chả buồn chú ý tới chúng tôi
nữa. Chúng tôi ra tới cầu An Cựu, thấy cầu nổi đang được công binh Mỹ
làm gần xong, chúng tôi không dám đi đường cái mà vòng lối sau đi theo
con đường nhỏ sau ruộng mà về nhà. Nhiều hố bom đào những hầm lớn, trời
mưa, nước đọng thành từng vũng. Ngang qua một khu vườn bỏ không, chúng
tôi nghe thấy tiếng động sau một bụi tre.
Thái kéo tôi:
“Đi nhanh chị.”
Tôi tò mò ngoái lại nhìn qua
những nhánh tre thưa, tôi nhìn thấy những ngôi mộ đất đắp vội vàng, ở
trên mộ cắm thẻ kiểm tra và cạnh đó, một chiếc hầm cá nhân, một xác lính
Bắc Việt đang nằm vắt nửa trên nửa dưới miệng hầm, không biết bị thương
hay đã chết, cạnh đó một hố bom và những cành cây khô, những nhánh tre
ngã gãy tả tơi. Qua mấy ngôi vườn bỏ hoang, chúng tôi tới một thửa ruộng
nhỏ vuông vắn, ruộng bỏ không và nước lúp xúp. Tôi không biết đường nên
cứ đi sau Thái. Có tiếng máy bay tới gần, Thái kéo tôi nằm mẹp xuống
đường, đợi cho máy bay khuất mới tiếp tục đứng lên đi lần về nhà. Khi
tôi đứng dậy, tôi bỗng nghe tiếng rên rỉ. Tôi dừng lại thì Thái đã kéo
tay tôi: Đi chị. Thái nói nhỏ:
“Bọn họ bị thương, không khéo họ bắn mình. Đi ngả tắt ni thiệt dại hết sức.”
Thái cầm chặt tay tôi và lôi tôi
đi theo nó. Nhưng tiếng rên một lúc một rõ và một van nài hơn. Cứu tôi
với. Cứu tôi với. Cứu tôi với. Tôi không thể làm ngơ được, rõ ràng là
tiếng người sắp chết. Tôi nhìn quanh quất và chợt nhận ra một thanh niên
đang gục bên một chiếc hố nông, hình như người ta đào rồi bỏ dở nửa
chừng, hay một miếng bom nào cày lên cũng nên. Thanh niên mặc một chiếc
áo măng tô màu xám, dính đầy máu. Thái nhìn thấy và nó biết không phải
quân giải phóng. Tôi kéo Thái lại gần:
“Chắc là sinh viên hay học sinh chi đây.”
Chúng tôi đã đứng bên cạnh. Hình
như nhận ra tiếng chân người, khuôn mặt bê bết đất ngẩng lên, một giòng
máu rỉ chảy bên mép. Thanh niên đưa tay ôm ngực và muốn gục xuống. Thái
vội nhảy xuống hố đỡ thanh niên dậy:
“Tôi chết mất,” người thanh niên rên rỉ.
“Anh ở mô tới?”
Thái cúi tai sát người thanh niên. Anh ta cố gắng đưa tay chỉ về phía, phía trước là những vườn cây. Tôi không hiểu. Thái hỏi:
“Anh ở bên phố thoát sang?”
Thanh niên gật đầu.
Vừa lúc đó lại có tiếng máy bay
tới gần. Lần này hình như tới mấy chiếc và bay liệng ngay trên đầu chúng
tôi. Người thanh niên ra dấu chúng tôi nên lánh đi và cho biết Việt
cộng còn ẩn núp trong nhiều khu vườn nơi này nên Thái đưa tay ra dấu cho
tôi đi trước rồi dìu thanh niên đứng lên. Tiếng máy bay như sắp hạ
xuống trên đầu, Thái hét lớn:
“Chạy vô nhà trước mặt.”
Tôi chạy thẳng vào chiếc ngõ mở
sẵn, Thái đã tới sát lưng. Chúng tôi bước qua mấy bực thềm là vào nhà.
Căn nhà bỏ không, có một hầm cát nhưng Thái vừa nhìn vào đã bụm miệng
lùi lại:
“Có người chết.”
Tôi định chạy ra nhưng bên ngoài
đã có tiếng súng nổ. Một loạt đạn trên máy bay bắn xuống. Tiếng rốc két
như rơi ngay trên đỉnh đầu. Thái đành kéo tôi chạy xuống bếp, ở đây có
chiếc bể cạn. Thái đặt thanh niên ngồi dựa nơi bể nước rồi kéo tôi bắt
nằm sấp xuống đất.
“Đừng có ngẩng đầu lên. Có đạn ngoài vườn đó.”
Tôi nằm sát xuống đất, hai tay ôm
lấy đầu. Thái bình tĩnh hơn, nó xé áo lau vết thương cho thanh niên và
băng bó lại. Người thanh niên đã bớt sợ và tỉnh táo hơn. Anh cho biết
anh ta tên là Khâm, ở trong thành nội. Anh đã thoát được bằng cách giả
làm đàn bà, chạy theo đoàn người tràn ra cửa thành và vét hết tiền đem
theo để thuê một chuyến đò qua sông. Anh mở hé chiếc áo măng tô ra, bên
trong là vạt áo dài màu xanh nhuộm đầy máu. Chiếc khăn trùm trên đầu đã
rơi mất tự bao giờ.
Tiếng máy bay vẫn lượn vòng, mặc
tiếng đạn từ dưới đất bắn lên như mưa, và cứ mỗi vòng tròn lượn trở lại
là những loạt rốc két bắn xuống xối xả. Tim chúng tôi đập liên hồi. Chắc
giờ này má tôi ở nhà lo lắng lắm, theo phương hướng thì tôi đoán ở phía
nhà tôi không việc gì, mé này gần Phủ Cam. Nằm ở nơi đây tôi thấy bấp
bênh quá, có thể trúng đạn bất cứ lúc nào. Tôi nghĩ tới chiếc hầm ở trên
nhà nhưng Thái cho biết là có người chết. Tôi tò mò hỏi Thái:
“Em thấy gì trong hầm vậy?”
“Có một người chết ở trong đó. Dễ
sợ lắm, em nhìn vô thấy một người nằm ngửa, tay chân khô queo, hai mắt
như còn mở và hướng về miệng hầm. Bên cạnh đó có những vũng máu đặc, em
nhìn thấy mấy con chuột đang chạy lui chạy tới lăng xăng, có con đang
ngậm vào đầu ngón tay ngón chân của xác chết.”
Tôi rùng mình, muốn bỏ ngôi nhà
chạy ra ngay. Nhưng bên ngoài lúc này đầy rẫy sự nguy hiểm. Tiếng súng
dưới đất nhỏ dần rồi rút về miệt xa hơn. Hình như họ đã bỏ những hố cá
nhân để chạy thoát khi tiếng máy bay còn lượn vòng. Và khi tiếng máy bay
quành trở lại thì không còn nghe tiếng bắn trả ở xung quanh nơi chúng
tôi núp nữa. Khâm có vẻ tỉnh táo hơn, anh đã tựa được lưng vào thành bể
cạn, Thái lấy cái lon múc nước ở bể cạn cho Khâm uống nhấp nháp. Anh ta
mất máu nhiều quá, khuôn mặt xanh lè và hai mắt sâu, chứng tỏ nhiều đêm
mất ngủ. Mặc dù tiếng đạn dưới đất không còn bắn lên nữa, nhưng máy bay
vẫn lượn vòng trên đầu, chúng tôi biết là chưa thể thoát ra khỏi ngôi
nhà này được. Khâm nói, giọng yếu ớt:
“Mấy ngày trước chỉ sợ bị giải
phóng bắt, xử tử. Chỉ sợ chết bom. Nhưng lúc này sao tự nhiên tôi chẳng
sợ gì nữa. Tan nát hết rồi.”
Và Khâm bắt đầu kể cho chúng tôi nghe về cuộc chạy trốn của Khâm. Chuyện của những người kẹt ở bên kia dòng sông Hương.
Chương 7: CHUYỆN TỪ THÀNH NỘI
Không hiểu do một phép lạ nào mà ngôi nhà vẫn còn nguyên vẹn.
Chúng tôi sống chật hẹp trong
chiếc hầm đào sâu xuống đất, trên miệng hầm, xung quanh chất toàn bao
cát, như vậy là đã mười mấy hôm.
Chuyện gì? À, mấy ngày đầu. Mấy
ngày đầu thì đâu có gì kinh hoàng. Cũng như các vùng khác, đêm mồng một,
chúng tôi nằm lăn sát đất, chui cả xuống gầm giường vì tiếng súng bắn
khắp mọi phía. Sáng ngày ra là Việt cộng đã đầy nhà, đầy vườn. Họ đi lại
ngoài đường đông nghẹt. Ðồng phục à? Không. Họ vận đủ các thứ quần áo.
Có tốp mặc áo ka ki hẳn hoi, nhưng phần đông họ mặc quần đùi. Ðặc biệt
là người nào cũng có đeo băng màu nơi tay, hoặc quàng khăn nơi cổ.
Chuyện gì xảy ra vậy? Huế mất rồi sao?
Chúng tôi nhìn nhau dò hỏi, muốn
chạy qua hàng xóm hỏi thăm tin tức cũng không được nữa. Ai ở yên nhà
nấy. Và họ ra lịnh mỗi nhà phải tự đào hầm lấy bắt đầu tập chịu đựng
gian khổ để chiến thắng. Chúng tôi đã lấy được Huế, các nơi đang đánh
nhau, đợi toàn quốc chiếm được hết là thắng lợi. Quân giải phóng nói
vậy.
Mấy ngày đầu vui lắm. Họ nấu cơm,
ăn uống trong nhà chúng tôi. Nghe nói họ sẽ tổ chức liên hoan nữa. Rồi
họ chở đâu tới thiệt nhiều mứt bánh, nhất là bánh tét, và họ ăn uống lu
bù. Ăn như chưa bao giờ được ăn.
Hôm đầu tiên tôi sợ lắm, gia đình
tôi cũng sợ cho tôi nữa. Tôi là con một, lỡ có chuyện gì chắc mạ tôi
không chịu nổi. Nhưng mấy ngày đầu thiệt êm thắm. Tôi còn được nghe họ
nói chuyện nữa chớ. Họ nói chuyện vui lắm. Em tôi hỏi cả chuyện ngoài
Bắc, họ nói đời sống ngoài Bắc no đủ. Nhưng nhiều anh cán binh Bắc Việt
nhìn mấy cô gái mặc quần ống chật, áo sơ mi hoa hòe thì tỏ vẻ ngạc
nhiên. Tôi nghe họ xì xào với nhau:
“Con gái ở trong này đẹp quá, ăn mặc đầy đủ quá.”
Mấy chị nữ cán bộ thì ghét ra
mặt. Bởi vậy, qua ngày thứ hai, các cô gái Huế trong thành nội biết được
sự không ưa thích đó và thay đổi lối ăn mặc liền. Mấy ngày đầu êm ru,
thỉnh thoảng lắm mới nghe tiếng súng nổ xa thiệt xa, đâu phía bên hữu
ngạn, mà tận vùng ngoại ô, không ai để ý nữa.
Có mấy nữ cán bộ vác xe của thiên
hạ ra tập. Nhiều nhà đã trốn ra Gia Hội được từ hôm đầu, ngay tờ mờ
sáng. Họ đi thật là dại, ban đầu chúng tôi nghĩ thế. Nhà họ bỏ không,
mấy cô nữ cán bộ tha hồ mà vào lục lọi. Vật mà các cô ưa thích nhất là
xe đạp và xe Honda. Nhìn thấy các cô cán bộ xăn áo xăn quần đến háng mà
tập xe đạp thì không nín cười được. Nhưng buồn cười mà đâu có dám cười,
chúng tôi lo sợ cho tương lai lắm. Chưa biết rồi sẽ ra sao. Mấy anh lính
Việt cộng có vẻ lạc quan. Toàn quốc thắng trận, đồng bào yên tâm. Họ
báo tin cho biết vậy. Và ở trong thành nội, chúng tôi ngạc nhiên thấy họ
tràn vào khơi khơi, tôi không thấy có vẻ gì là đụng độ, đổ máu cả. Chắc
tại tôi không ra khỏi nhà. Ngay từ sáng tinh sương ngày mồng hai, má
tôi đã đóng chặt cửa lại, chúng tôi chỉ được nhìn ra đường qua kẽ hở.
Nhưng dù qua một kẽ hở rất nhỏ,
tôi cũng nhìn thấy ngoài đường rất đông người đi lại. Các anh lính Việt
cộng đều mang băng xanh hoặc băng trắng nơi cánh tay áo.
Không khí đường phố thay đổi thật
đột ngột, bên cạnh những khuôn mặt lo lắng núp sau những cánh cửa, có
những bộ mặt tươi cười, ra chiều hết sức hớn hở. Nhà ông giáo Kê, một
người đàn ông đứng tuổi đã bỏ nhà đi tập kết hơn mười năm, bỗng xuất
hiện. Ông ta có một bà vợ hàng ngày đi bán chè và một cậu con trai
khoảng chừng 17, 18 tuổi. Sự xuất hiện của ông giáo Kê làm mọi người lo
lắng. Mạ tôi nói giọng run run:
“Thôi chết rồi, ông nớ về là ông biết hết trong vùng ni, thế nào ông cũng bắt bớ lung tung cho coi.”
Tuy lo vậy, nhưng nhân vật ông
giáo Kê cũng chưa làm cho chúng tôi kinh hoàng bằng hai căn nhà ngay ở
đầu đường Nguyễn Hiệu bỗng trở thành nơi ra vào tấp nập của các anh cán
binh Việt cộng. Người ta đồn với nhau có hai nữ sinh viên là cán bộ nằm
vùng. Hai cô ở ngay căn nhà đầu đường, có người trông thấy hai cô mặc
quần tây, áo sơ mi, đội nón lá đi đi lại lại trên đường, lưng đeo súng
lục kiểu Tiệp Khắc. Tôi không biết được tên của các cô, nhưng người ta
cho biết hai cô là sinh viên trước ở Sài Gòn. Tôi đoán một vài tên trong
số bạn cũ quen thuộc, nhưng chưa có gì làm bằng cớ chắc chắn.
Cũng nơi đường Nguyễn Hiệu, một
ông thợ mã trước theo Việt cộng, đã trở về hồi chánh nay trở thành cán
bộ nằm vùng. Người ta lo nhất là bộ mặt này. Anh ở đây đã lâu, và thế
nào anh cũng lập công, chỉ điểm một số thường dân. Má tôi lo lắng hỏi
tôi có làm chi cho ông ta thù oán không. Tôi suy nghĩ mãi không tìm ra
chuyện gì, tuy nhiên tôi cũng không an tâm. Mấy ngày liền tôi không dám
ra đường. Má tôi hễ thấy mặt tôi ló nhìn ra khe cửa là lôi lại, kéo tuốt
vô trong buồng, đóng cửa kín mít.
Nhưng mấy ngày qua, tôi chưa thấy
chuyện gì lạ xẩy ra, ngoài việc các người lính Việt cộng vào từng nhà
bắt đi học tập. Tôi lại được mạ tôi đem dấu trên trần nhà. Con em gái
tôi phải đi học tập. Khi về, nó cho biết là lớp học được tổ chức ở nhà
ông giáo Kê. Tôi hỏi học những gì, nó cho biết là người ta yêu cầu các
cô vào từng ban, ban cổ động, ban cứu thương, ban tiếp tế. Tôi hỏi nó
chọn ban gì thì nó chỉ cười lắc đầu:
“Em run bất chết. À, em có gặp…”
Tôi hỏi nó gặp ai thì nó làm
thinh, mặt lộ vẻ sợ hãi. Tôi gạn hỏi thêm mấy lần, nó vẫn không dám nói.
Nó còn tiết lộ cho tôi biết là thanh niên sinh viên bị bắt đi học tập
đông lắm.
Cả ngày hôm đó, tôi không ăn cơm
được, tôi cảm thấy cổ họng khô đắng. Hình như tôi sắp cảm nặng. Câu nói
nửa úp nửa mở của đứa em gái làm tôi không an tâm. Tối hôm đó, tôi rời
khỏi trần nhà xuống đất nằm, tôi hỏi lại nó. Lần này giọng nó run run
như sắp khóc:
“Em gặp cô Ðoan, cô Ðoan ở đầu đường mình đó anh.”
“Hai cô lận mà?”
“Thì cô Ðoan với cô Kim ở đối diện nhà nhau đó.”
“Nó có nhìn ra em không?”
“Có, nó hỏi anh đi mô mà không
tới học tập, em nói anh đi về quê hôm hăm tám Tết. Nó cười, nói ngày
mồng một nó gặp anh đi ra cửa Ðông Ba với anh Hạo, anh Toàn. Em lo
quá.”
“Rồi em trả lời răng?”
“Em làm thinh.”
“Nó nói chi nữa không?”
“Có, nó khuyên em nên gia nhập
mặt trận liên minh, hòa bình chi đó. Em cứ làm thinh. Nó nói em giúp nó
được. Nó hẹn sẽ gặp em sau.”
“Em thấy thầy Ðóa đi họp không?”
“Em không thấy thầy mô hết.”
“Còn ông giáo Kê về ra răng?”
“Ông giáo Kê diễn thuyết hăng
lắm. Em sợ quá chả nghe gì hết, mà có nghe cũng không hiểu. Anh nì, ông
đi tập kết về râu dài tới ngực, coi dễ sợ quá. À anh, em thấy hình như
có anh Ðắc nữa.”
“Ðắc?”
Tôi kêu lên sửng sốt. Thôi chết
rồi, Ðắc đã trở về. Nhưng tôi không tin Ðắc có thể là một người cộng sản
được. Ngày trước, tôi cũng có chân trong nhóm tranh đấu với Ðắc. Ðắc
thường tâm sự là anh không thể chấp nhận cộng sản. Rồi một thời gian
sau, vì bị theo dõi, ruồng bắt, Ðắc trốn đi.
Có người nói Ðắc với Ðoan với
Ngọc cùng trốn một lượt. Lần này Ðắc trở về, chắc Ngọc và Phan cũng trở
về rồi. Tôi thầm lo ngại, ngày trước Phủ có một cô nhân tình cũng ở
trong thành nội này, sau khi Phủ đi ít lâu, cô tình nhân đã vội thay
lòng đổi dạ theo một người khác. Ngoài việc bị khổ sở vì trốn tránh, Phủ
còn mất luôn người yêu nữa. Lần này nếu trở về, chắc Phủ sẽ đau khổ ghê
lắm. Liệu chuyện gì sẽ xảy ra? Tôi hỏi gặng mãi em gái tôi có nhìn thấy
Phủ không. Có ai nhìn thấy Phủ không? Nó quả quyết là nó không thấy, cả
bạn bè của nó đi họp cũng nói không thấy. Tôi hơi yên tâm và mừng thầm
cho kẻ phản bội. Nếu Phủ trở về, thêm một mối thù hận nữa, cô bé thay
lòng kia chắc cũng không tránh được hậu quả thương tâm. Nhưng em gái tôi
cười gượng:
“Anh tưởng về tới Phủ mới biết răng! Em tin là Phủ không chấp nhận mô. Nhưng Phủ và Ngọc không có mặt ở nội thành.”
Tôi không khỏi bùi ngùi nhớ lại
bạn bè cũ. Dù Ðắc, dù Ngọc, dù Phủ có bỏ đi, có theo lý tưởng nào nữa,
dù thù nghịch với tôi, tôi cũng vẫn còn giữ những kỷ niệm về họ. Tôi tự
tin tôi, tôi tin bạn bè. Trước đây, Ðắc đã bị dồn đến bước đường cùng,
phải trốn theo bên kia, nhưng sự có mặt của Ðắc không còn làm tôi lo sợ
nữa, mà nghĩ tới Ðắc, tôi bỗng cảm thấy yên ổn hơn một chút. Tôi định
bụng là phải gặp cho được Ðắc. Tôi không tin là có chuyện gì sứt mẻ
trong tình bè bạn. Ngày hôm nay, hay ngày mai, thế nào tôi cũng có dịp
gặp lại Ðắc. Tôi phải gặp. Tôi hỏi em gái:
“Em có nói chuyện với anh Ðắc không?”
“Em thấy một người giống như anh Ðắc thôi chớ em chưa dám nhìn. Anh ấy đeo băng xanh, có súng nữa.”
“Em coi bộ anh ra răng?”
“Có vẻ trầm ngâm chớ không hách
dịch như mấy tên cán bộ nằm vùng khác. Anh biết xóm mình chán chi cán bộ
nằm vùng, rứa mà mình biết chi mô.”
Tôi hỏi tiếp:
“Rứa họ học tập cái chi?”
“Thì như anh nằm trên nhà khi mai
anh nghe đó. Họ tới nhà họ nói mời đi họp, em định trốn nhưng cô Ðoan
cô đứng đầu ngõ gọi ngay tên em nên phải đi. Họ nói đi họp mà họ còn bắt
học tập nữa. Rồi họ diễn thuyết, tuyên truyền về thắng lợi.”
“Họ tuyên truyền răng?” Tôi nôn nao.
“Họ nói chiến thắng lấy được Huế
là nhờ sự đóng góp của nhân dân. Vậy các trẻ em về nhà tìm những khúc
tre, khúc gậy ngắn rồi sơn đen, khi mô nghe tiếng máy bay quân Mỹ ngụy
tới thì đem ra chĩa lên trời để bọn Mỹ ngụy tưởng là súng, phải khiếp
đảm trước tinh thần chống đế quốc, tay sai của nhân dân Huế. Họ còn nói
là đồng bào đừng để cho một tên Mỹ ngụy, một tên Việt gian nào trốn
trong nhà. Gặp trường hợp đó phải báo cáo cho giải phóng biết ngay.”
Tôi kinh hoàng:
“Việc xúi con nít sơn khúc tre giả làm súng có thiệt há?”
“Em nghe rõ ràng nì. Họ còn tuyên
truyền nhiều lắm. Nì anh, trước khi họp, các anh giải phóng còn đọc
khẩu hiệu, rồi đến 7 nhiệm vụ của đảng viên, rồi lời của “bác” Hồ, em
nhớ như ri thì phải: Trung với đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng
hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Họ
hô lớn mà hô nhiều lần, em bất thuộc làu.”
Tôi gắt: Kệ xác họ. Tôi đâu cần
phải biết, phải nghe những khẩu hiệu trung thành với bác với đảng. Chính
những người lính Bắc Việt đi vô Nam, họ thuộc làu những khẩu hiệu đó,
nhưng chắc cũng có người không hiểu tại sao phải trung thành, phải
chết.
Nhưng lời tuyên truyền đó đã gây
một hậu quả tai hại. Về sau, khi các trận đánh diễn ra, không hiểu vì
những tiếng súng ở các hố cá nhân bắn lên, hay vì những dùi, gậy của các
em nhỏ bị bắt ra chĩa lên trời mà máy bay bắn xuống như xối xả.
Suốt đêm đó, tôi không ngủ được.
Sáng ngày ra đã phải lên trần nhà nằm. Em gái tôi vẫn chạy qua hàng xóm
dò tin tức, nhưng tôi không dám chường mặt xuống nhà chớ đừng nói ra
đường. Tôi sợ họ biết mặt. Nhất là ông thợ mã hồi xưa là Việt cộng, nay
về hồi chánh đã trở thành một cán bộ nằm vùng. Ông không ưa bọn sinh
viên như tôi. Rồi còn nhà ông giáo Kê nữa, cả cậu con mười bảy mười tám
chi đó, ít khi nói chuyện với tôi đàng hoàng. Em gái tôi đã nói dối là
tôi bị kẹt lại ở dưới quê, tôi sợ em tôi mang vạ vì sự có mặt của tôi
nữa.
Ngay sáng hôm đó, trước nhà tôi,
sau vườn tôi nghe có tiếng cuốc đất. Rồi một lúc sau có tiếng lao xao
dưới nhà. Tôi nín thở nằm yên nghe ngóng. Một giọng nói đàn ông lớn
tuổi, giọng Quảng Bình thì phải, và hình như nói chuyện với mạ tôi:
“Mẹ phải cho đào hầm. Chúng ta
còn phải đương đầu với rất nhiều khó khăn. Quân Mỹ ngụy có thể đem máy
bay tới thả bom để giết nhân dân. Nhưng không sao, chúng sẽ thất bại
nặng nề.”
Tiếng chân đi rảo quanh nhà. Tiếng mạ tôi năn nỉ:
“Dạ nhà tui đơn chiếc, ba chúng nó khuất núi lâu rồi, chúng tui mạ góa con côi… Dạ, bánh tét trong nhà làm… Dạ bánh cúng…”
“Ở ngoài Bắc nhân dân ta ăn Tết vui lắm.”
“Dạ.”
“Năm nay, Bác cho chúng tôi được vào đây ăn Tết với nhân dân trong này. Gặp các mẹ, các chị, chúng tôi sung sướng lắm.”
“Dạ.”
“À, tôi quên, giá gạo của bọn Mỹ ngụy bán bao nhiêu một bao?”
“Dạ, mỗi tạ mấy nghìn, ba nghìn có, hai nghìn có.”
“Bọn Mỹ ngụy bán cắt cổ, uống máu nhân dân. Ðợi khi giải phóng xong, gạo chỉ bán năm trăm đồng một tạ.”
“Dạ.”
“Nhà mẹ có ai giúp đỡ đào hầm không?”
“Dạ mạ con tui đào. Ngoài tui với
con nhỏ, với thằng con trai lên mười ni còn mấy đứa cháu. Còn có bà dì,
bà ngoại. Dạ không dám làm phiền mấy ông.”
Tiếng chân đi vào phía bàn thờ. Tôi đoán ra bước chân mạ tôi vội vã như muốn ngăn lại:
“Dạ mấy hôm nơi bàn thờ dọn rồi.”
Giọng đàn ông cười giả lả:
“Không, mẹ cứ việc cúng chớ.”
“Dạ, cúng… Mà mấy hôm ni ai còn
lòng dạ mô mà cúng. Hôm mồng một tưởng chết rồi, nhờ ơn ông bà… Dạ thưa ở
trong nớ không có chi hết. Dạ có bánh, bánh tét. Dạ mời, mời ông… à
mời… đồng chí.”
“Cám ơn mẹ. Nhân dân miền Nam tốt với giải phóng quá. Chúng con hết sức ghi ơn mẹ giải phóng…”
Tiếng chân đi ra khỏi nhà rồi xa
dần. Ðợi một lúc tôi ló đầu xuống, tấm cạc tông che miệng trần nhà vừa
hé ra, tôi đã thấy mặt mạ tôi nhìn lên, hai tay bà chấp trước ngực:
“Tui lạy ông, ông ở trên đó cho tui nhờ. Chúng vừa vơ vét hết bánh trái rồi.”
Tôi sợ má tôi lo lắng, vội rụt
đầu lên và kéo miếng cạc tông lại. Suốt ngày hôm đó, tôi nằm bẹp trên
trần nhà. Ðợi lúc nào thật vắng, em gái tôi đưa cơm lên hoặc rót cho ly
nước lạnh.
Mấy hôm sau, họ ít vào nhà, có lẽ
họ không còn hồ nghi gì gia đình chúng tôi nữa. Cô em gái tôi vẫn cứ
phải đi họp, đi học tập. Nó về mách với tôi:
“Ðúng anh Ðắc anh ơi.”
“Nó có nhìn ra em không?”
“Có. Anh cười nói: Con Hường em Khâm đây phải không? Mới đây mà lớn quá hí.” Em nhớ ngày trước anh Ðắc hay xoa đầu em lắm.
“Vậy em có sợ không?”
“Không, anh hiền lắm anh ơi. Anh hỏi thăm anh, rồi hỏi thăm mạ nữa. Anh nói rảnh anh tới thăm mạ.”
“Trời ơi, em có khai anh trốn trong nhà không?”
Hường cười:
“Em mô có dại. Anh ấy cũng không
hỏi riết bắt bí em chi hết. Anh chỉ nói: Khâm có sao không? Em nói dạ
không. Rồi em nhớ ra nói liền:
Tại anh Khâm về mắc kẹt dưới nhà
quê. Anh hỏi quê ở Bao Vinh phải không? Em gật đầu, anh hơi giật mình.
Anh có vẻ lo sợ cho anh nữa.”
Tôi cảm động và tự thẹn thầm. Thì
ra Ðắc vẫn còn là bạn tôi. Ðắc không hề thay đổi gì hết. Vậy tại sao
Ðắc trở về? Về với nhiệm vụ gì? Lòng tôi càng nôn nao muốn gặp Ðắc hơn.
Tôi ngỏ ý với Hường là muốn dự một buổi họp. Hường nói:
“Không được mô. Anh Ðắc thì hiền lành nhưng có mấy người khác dữ lắm. Họ nói chuyện hung hăng thiệt dễ sợ.”
Rồi Hường thì thầm vào tai tôi:
“Anh nì. Khi hồi ngang qua ngã ba em thấy ai như anh Tý. Anh ấy ôm áo quần như muốn đi trốn xuống đường Mai Thúc Loan.”
“Ủa, thằng Tý. Nó dám chạy trốn hả?”
“Không biết anh ơi. Nhưng em thấy hắn cũng đeo băng trắng nơi cánh tay. Hay là hắn cũng theo Việt cộng rồi.”
“Cái thằng đó dám lắm. Ai chớ nó thì việc chi mà không dám làm.”
Tôi hậm hực. Nhưng đồng thời cũng
lo sợ nữa. Nếu nó theo giải phóng, nó dám tìm bắt tôi hoặc điểm chỉ cho
bắt tôi lắm. Tôi nói với Hường:
“Em đừng có cho nó gặp, nó hỏi lôi thôi.”
Tôi sợ nó nhìn thấy em gái tôi
rồi nhớ ra tôi. Có thể vì nhiều việc, nó đang quên tôi cũng nên, nhưng
gặp mặt một ai liên quan tới tôi, có thể nhắc nó nhớ. Thường ngày tôi
không ưa nó, kể cả khi còn trong nhóm tranh đấu, tôi đã nhiều lần nói
với bạn bè:
“Thằng Tý không tin được. Nhưng nó dám có mặt trong đám quyết tử, nó đã lường lọc bao nhiêu anh em.”
Thấy tôi trầm ngâm, Hường vội nói:
“Em thấy anh Tý là em tránh liền, em sợ bất chết.”
“Em con gái việc chi mà sợ hắn?”
“Em sợ anh nớ bắt em. Em thấy mấy đứa bạn cùng đi họp với em thấy anh nớ là núp hết.”
Tôi cười, cố trấn an con bé:
“Kệ nó, mình có mần chi mà sợ.”
“Anh không biết đó, dưới đường Ông Ích Khiêm, họ bắt hết rồi. Công chức, quân nhân bị bắt đi hết. Nhất là mấy người làm sở Mỹ.”
“Mình có làm sở Mỹ mô mà sợ. Cũng không công chức nữa mà.”
“Dưới nớ bị bắt thiệt nhiều. Nhiều người cũng có làm chi mô mà cứ bị bắt như thường.”
Ðúng như lời em gái tôi đoán, qua
ngày sau, xóm tôi ở, các thanh niên, công chức và quân nhân bị bắt đi
hết. Một vài người trốn chạy bị bắn tại chỗ. Nhà chúng tôi đã làm xong
được một cái hầm khá kiên cố bằng bao cát và những tấm ván lấy ở bộ ngựa
gỗ quý từ mấy đời để lại.
Tuy vậy, ban ngày tôi vẫn trốn
trên trần nhà, ban đêm mới dám xuống hầm ngủ. Tôi đã bắt đầu chán nản và
mệt mỏi. Giữa lúc đó thì mọi người hoảng hốt vì đại bác câu tới nơi.
Nằm áp tai xuống đất, tôi nghe tiếng rầm rì liên hồi như xe tăng chạy ở
đâu bên ngoài thành nội, đôi lúc tôi mơ hồ nghe tiếng máy bay.
Một vài nhà đã trúng đại bác.
Người ta cho biết đại bác trúng nhiều nhất là các bờ thành. Người ta còn
cho biết là lá cờ ở Phú Văn Lâu đã bị hạ xuống và treo cờ giải phóng
rồi. Nhưng khi đại bác câu tới thành nội, ai nấy đều hoảng sợ ra mặt.
Thêm những cuộc bắt bớ gắt gao của Việt cộng làm không khí càng kinh
hoàng hơn.
Một buổi tôi đang nằm trong hầm nhai mấy miếng bánh mì khô thì nghe phía đầu ngõ có tiếng chân rượt đuổi. Tiếng hô:
“Ðứng lại. Ðứng lại.”
Tiếng chân chạy vòng đằng sau
vườn chúng tôi. Tiếng chân đuổi rầm rập, có vẻ nhiều người và hối hả.
Một tiếng nổ, một tiếng kêu rú lên. Tôi bịt chặt hai tai lại. Mạ tôi ôm
chặt lấy Hường và mấy đứa em nhỏ của tôi đứa nằm sát xuống mặt hầm, đứa
ôm chân má tôi, đứa ôm chân Hường mếu máo.
Một lúc sau, tiếng chân từ ngoài vườn đi vào giữa sân. Tôi nghe tiếng lao xao:
“Tại nó chạy. Nó đúng là quân tay sai cho Mỹ ngụy.”
“Nó chết hẳn chưa đó?”
“Chưa chết rồi cũng chết. Mà có thiệt nó làm cho Mỹ không?”
“Nó làm cho Mỹ mà. Ngày thường tui thấy nó có nhiều đô la lắm.”
“Vậy thì đúng rồi.”
“Không có tui thì nó trốn được
rồi. Trong xóm ni ai chạy trốn đàng trời tui cũng biết. Tụi nó phải trả
nợ máu, phải không, thưa đồng chí tổ trưởng.”
“Ðồng chí tích cực lắm.”
Tôi nghe giọng người điểm chỉ
viên quen quen. Hình như bác ta ở đâu trong xóm trong. Hường cũng định
lên tiếng thì mạ tôi đã gắt nhỏ:
“Im đi, nó nghe nó vô chừ.”
Chúng tôi im lặng. Nhưng rồi có tiếng xô cửa rồi tiếng chân đi vào nhà:
“Nhà đi đâu vắng hết rồi. Chúng tôi mời lên có chút chuyện.”
Mạ tôi lật đật chui ra. Rồi Hường cũng chui ra.
“Dạ.”
“Có người mới bị bắn sau vườn.
Chúng tôi sẽ cho người tới đem chôn. Chúng tôi muốn dặn lại là đừng có
chứa chấp bọn Mỹ ngụy. Xin bác hãy giúp chúng tôi, tức là giúp đảng,
giúp nước nhà độc lập.”
Má tôi dạ dạ luôn miệng. Một giọng khác nói:
“Nhà này chỉ có mấy người đàn bà con nít mà.”
“Bởi vậy chúng tôi mới dặn. Ðể chúng vào, chúng giết cả nhà, chúng tôi không kịp cứu.”
Hường ngây thơ hỏi:
“Dạ thưa các anh, các anh vừa bắn ai đó?”
Giọng người điểm chỉ viên quen quen:
“Thằng cha Minh. Hồi chưa được giải phóng, nó hách nhất xóm nhà ta phải không? Cô xác nhận cho các đồng chí đàn anh đây biết.”
Tôi nghe Hường dạ rất nhỏ. Tiếng người điểm chỉ hỏi:
“Cậu Khâm mô không có ở nhà?”
Tim tôi đập mạnh. Thôi chết rồi,
hắn đã nhắc tới tôi. Tôi đoán không lầm, đúng là người nấu bún ở trong
xóm. Thường ngày hắn chỉ ở nhà xay bột làm bún, vợ hắn đem bán sỉ bán lẻ
cho bạn hàng. Hắn cũng ít nói chuyện với ai lắm. Giọng Hường cố thản
nhiên:
“Dạ anh cháu bị kẹt dưới Bao Vinh rồi. Hôm nớ xuống mừng ông bác rồi chưa kịp lên thì xảy ra…”
“Dưới đó thì khỏi lo, hoàn toàn thuộc về quân giải phóng và nhân dân rồi.”
Hường khôn khéo vuốt đuôi:
“Dạ thì ở đây cũng thuộc về giải phóng rồi.”
“Còn một chút trong sư đoàn nữa,
chưa thanh toán xong. Nhưng chúng sẽ chết đói hết bây chừ. Nay mai mình
có thêm quân tiếp quản từ Quảng Trị, từ Bắc vô nữa, lo chi.”
Hắn còn đứng ba hoa tán tụng dài dòng nữa rồi mới cùng mấy đồng chí đàn anh bỏ đi.
Tôi thở phào nhẹ nhõm, coi như là vừa mới may mắn thoát chết. Em gái tôi chui xuống hầm, nói nhỏ cho tôi nghe:
“Tên bán bún trong xóm đó anh. Hắn lì lì rứa mà ai ngờ.”
“Hắn bắn ai rứa?”
“Ông Minh. Ông chết rồi.”
“Hắn đi với ai?”
“Thì với mấy người Việt cộng chớ ai nữa. Khi đang nói chuyện, em thấy chị Ðoan và chị Kim đi ngoài đường.”
“Có thấy em không?”
“Có, họ có vẫy tay chào em nữa.”
“Em hết sợ chưa?”
“Sợ chớ hết chi được. Hồi hôm qua
họp, gặp em hai chị lì lì có chào hỏi chi mô. Anh nì, bữa ni có vẻ lùng
xét bắt bớ dữ lắm rồi đó. Anh cẩn thận một chút.”
“Người ta có số mạng cả mà em.”
“Gặp anh Ðắc, chắc anh không việc chi anh hí?”
Tôi thở ra, không mấy tin tưởng:
“Anh mần răng biết được.”
Má tôi đã trở vào:
“Ông Bèo bán bún mà Việt cộng đó tụi mi ơi.”
“Con nghe giọng nói con cũng đoán ra.”
“May mà nhà mình không thù oán chi với hắn.”
“Không thù oán mà hắn còn nợ mình
nữa chớ má,” Hường nói, “Hôm mụ vợ đẻ, hắn có tới vay mạ mấy trăm. Hôm
trước Tết mạ biểu con đi đòi, may con quên chớ không chừ sinh ra thù oán
rồi.”
Vừa lúc đó chúng tôi nghe nhà bên cạnh có tiếng đàn bà kêu khóc. Má tôi ra dấu chúng tôi yên lặng rồi lắng tai nghe”
“Bên nhà ông Bình.”
“Giọng bà Bình la đó chớ ai vô nữa.”
Hường cầm chặt tay tôi:
“Hình như họ bắt người.”
Tiếng la khóc nhà bên mỗi lúc một lớn:
“Lạy các ông, chồng tui vô tội, con tui đi học mà.”
Giọng đàn ông thản nhiên:
“Không can gì đâu mẹ. Mời bác với
anh đi họp rồi về mà… Ði họp rồi về, mẹ cứ an tâm. Chúng con tới đây là
để giải phóng Huế, chúng con nhờ sự giúp đỡ của nhân dân thành phố Huế
mà.”
Tiếng kêu khóc yếu dần. Một lát sau có tiếng đập cửa. Hường mở cửa thấy Tịnh đi vào, mặt mày tái mét:
“Tụi nó bắt anh Ðịnh đi rồi. Ba tui cũng bị bắt.”
Mạ tôi hỏi:
“Chừa cháu tính răng?”
“Mạ cháu nói cháu chạy sang đây nhờ bác cho cháu trốn đỡ. Bên nớ thế nào họ cũng trở lại bắt cháu đi.”
Má tôi thở dài sườn sượt:
“Thôi cũng được. Xuống dưới hầm đi.”
Tịnh đem tới cho tôi nhiều tin lạ
lắm. Nào ngoài cửa thành có nhiều Việt cộng chết vì trúng đạn đại bác,
bom chơm. Nào nghe ngoài Gia Hội đấu tố ghê lắm. Nào chuyện xử tử mấy
người nghi làm cho Mỹ rồi chôn xác trong mấy khu vườn phía đường dưới.
Tôi hỏi tại sao bác bên nhà đã già mà họ còn bắt đi. Tịnh cho biết là họ
vào trong nhà, cùng đi có ông Bèo làm bún trong xóm. Ông nói nhỏ gì đó
rồi mấy người giải phóng mời đi luôn. Lúc đó Tịnh trốn dưới bếp, chắc
ông Bèo quên Tịnh, không điểm chỉ.
Má tôi nói:
“May mà mình không thù oán chi.”
“Bên cháu hình như cha thù lắm.
Trước Tết cha tới vay tiền mạ cháu không cho. Cha vay mấy lần không có
trả. Với lại hồi cha say rượu chửi bóng chửi gió gì đó, anh Ðịnh cháu có
nói phải trái, chắc thằng cha nó thù rồi chừ nó hại.”
Tịnh lắng nghe tiếng khóc còn nỉ non bên nhà, nhăn mặt:
“Má cháu lạy nó mà cháu bất nóng mặt. Ước gì cháu có khẩu súng, cháu ria cho một tràng rồi cùng chết cũng cam.”
Tôi an ủi:
“Chắc không can chi mô, bác già rồi. Họ bắt đi rồi cũng thả về chớ can chi mà lo.”
“Dạ.”
“Dưới xóm nghe nói có nhà trúng bom rồi phải không?”
“Hình như rứa. Hồi nãy bên nhà
em, ông Bèo hăm dọa là nhà nào dung túng Mỹ ngụy dễ bị bom nhứt, vì họ
nghi là Việt cộng chiếm những nhà đó.”
“Nói như c. vậy mà cũng nói.”
Má tôi lầm bầm. Ðêm đó, tiếng đại
bác chưa tới khu tôi ở, nhưng thỉnh thoảng cũng có vài trái rơi lạc,
trúng vào một vài khu vườn, làm bay ngói, rung nhà. Ngoài đường, lính
Việt cộng đã bớt đi lại. Họ rút vào những hầm trú ẩn kiên cố. Nếu có gác
đường thì họ cũng đào những hố cá nhân.
Từ hôm đó, em gái tôi vẫn thường
bị mời đi họp, học rồi được thả về. Lần nào tôi cũng hỏi thăm về Ðắc.
Bữa nó nói có trông thấy, bữa nó nói không. Nhưng bỗng một hôm, tôi nghe
được giọng nói của Ðắc.
Hôm đó, trong lúc cả nhà đang ăn
cơm dưới hầm thì có tiếng gõ cửa. Má tôi lật đật bảo chúng tôi nằm sát
vào tận cùng hầm cát, rồi leo lên mở cửa. Hình như chỉ có một người và
má tôi chào hỏi, giọng hơi vui mừng:
“Ủa, cậu đó hả? Cậu về khi mô?”
Tôi hồi hộp chờ đợi giọng trả lời:
“Dạ, cháu về cùng với anh em ở khu vực nội thành ni mà.”
Tôi không nghe má tôi hỏi gì nữa. Im lặng một lát, giọng trẻ lại hỏi:
“Bác đã đào hầm chắc chắn chưa? Phải trường kỳ chống đỡ lâu đó bác. Tình hình coi bộ mệt rồi.”
“Dạ.”
“Trời, bác làm cháu dị quá. Cháu vẫn là thằng Ðắc như hồi trước mà bác. À, Khâm mô rồi?”
Má tôi giả vờ sụt sùi:
“Khổ lắm anh ơi. Nó đi từ hôm
mồng một, về dưới quê ở Bao Vinh rồi có thấy tăm hơi nó nữa mô. Tui đang
lo quá, sợ nó nóng ruột đi trở lên tìm dọc đường bị bắt bớ cũng nên.
Tui chỉ có mình nó, anh biết đó, nếu nó mệnh hệ nào thì tui sống không
nổi…”
Ðúng là Ðắc rồi. Tôi muốn lên hầm để gặp bạn, nhưng Hường đã nắm chặt tôi lại:
“Ðừng anh, anh điên đó hả?”
Giọng Ðắc:
“Bác đừng có lo. Ai có tội phải đền. Khâm với cháu vẫn là tình bạn…”
“Anh thương thì tui biết vậy, nhưng giữa đường giữa sá, nó đâu có gặp anh…”
Ðắc có vẻ trầm ngâm một lát, giọng hơi bớt tin tưởng:
“Chết có số mà bác. Cháu có số
chết thì đã chết từ lâu rồi. Bác đừng gọi cháu bằng anh nữa, cháu buồn
lắm. À, bác, nghe thằng Tịnh nó sang đây hả bác?”
Tôi giật mình. Tịnh nằm bên tôi mà run lập cập. May má tôi đỡ lời:
“Nó có sang rồi đi rồi. Nó đi họp rồi có về mô nữa.”
“Ủa, vậy ai giữ nó. Ðược, để cháu
hỏi rồi thả nó về. Cháu vừa gặp thằng Ðịnh anh nó. Thằng Ðịnh phải đi
học tập, chắc người ta sẽ đưa nó sang bên kia Gia Hội hoặc xuống dưới
bãi dâu.”
“Ði chi mà xa rứa.”
Ðắc không trả lời má tôi mà hỏi:
“Hường mô rồi bác?”
Má tôi không dám dấu:
“Em nó sợ quá suốt ngày chui trong hầm hoặc trốn dưới gầm giường, con nớ nó sợ súng đạn bất thần.”
“Bác gọi Hường lên đi, cháu chớ ai mô mà sợ.”
Sợ Ðắc xuống hầm, Hường vội vã bò lên khỏi miệng hầm. Tôi nghe tiếng Ðắc cười lớn:
“Bộ Hường tưởng tui lên núi rồi về thành cọp ăn thịt người răng mà nghe tiếng tui sợ dữ rứa?”
Hường cố gượng cười khổ sở:
“Em mô có sợ anh, nhưng mấy hôm ni em sợ chết quá.”
Ðắc ngồi nói chuyện với má và em
gái tôi rất lâu. Ðắc kể cho má tôi và Hường nghe những nỗi cực khổ trước
khi lên núi. Ðắc nói nửa khôi hài, nửa mỉa mai:
“Hồi cháu chỉ tranh đấu mà bị
bắt, bị đánh đập quá sức tưởng tượng. Bác biết không, chúng nó đập nát
cả hai bàn tay của cháu. Người cháu còn đầy thẹo, cháu chết đi sống lại.
Ân đền oán trả chớ bác. Cháu lên núi tầm sư học đạo, nay thành tài trở
về cho chúng biết mặt. Cháu không muốn hại ai, nhưng nợ máu phải trả chớ
bác.”
Không biết khuôn mặt má tôi ra sao mà Ðắc lại cười:
“Nói có rứa mà bác tái mét mặt.
Ðùa cho vui chứ cháu cũng bị ép buộc quá phải lên núi. Cháu đi mô cũng
không dứt được Huế. Cháu còn căm lắm bác ơi.”
Vừa lúc đó có tiếng chân nhiều
người đi vào. Tôi nghe nhiều tiếng nói chuyện và chính Ðắc kể lại vụ vừa
bắt người ở mấy nhà bên cạnh. Có giọng lè nhè:
“Thằng cha trốn tài thiệt, không có đồng chí Ðắc thì biết đâu mà kiếm cho ra.”
Một giọng khác cười:
“Tôi biết nó trốn dưới nệm giường. Thằng cha đó trong xóm ni ai mà lạ cái mặt hắn nữa chớ.”
Có lẽ một nhóm cán bộ nằm vùng.
Họ nói chuyện lớn tiếng và cười đùa vui vẻ. Tịnh hích vào tay tôi định
nói, nhưng tôi bịt miệng nó lại. Tôi sợ ở trên miệng hầm họ nghe tiếng.
Hường lại hỏi về Ngọc và Phủ. Ðắc trả lời:
“Có về hết. Phủ với Ngọc ở ngoài Gia Hội.”
“Em không nghe ai nói gặp hai anh nớ hết.”
“Hường thì có đi mô mà nghe, mà thấy. Con gái chi mà nhát quá trời.”
Rồi Ðắc nói với má tôi:
“Tiếc thằng Khâm nó kẹt dưới quê,
có nó, cháu bắt nó đi làm việc với cháu.” Rồi Ðắc chợt ngẫm nghĩ,
“Nhưng chắc cháu cũng không ép nó mô. Khi bác gặp nó, bác nói là cháu
với nó khi mô cũng là bạn.”
Ðắc ở lại nói chuyện lâu lắm. Ðắc
hỏi má tôi nhà còn đủ gạo ăn không. Rồi Ðắc hứa sẽ đem gạo tới tiếp tế
cho cả nhà. Thấy Ðắc vui vẻ, má tôi và Hường có vẻ bớt sợ hãi. Má tôi
hỏi thăm tình hình, ban đầu giọng Ðắc có vẻ khả quan, nhưng về sau sự
tin tưởng cũng có vẻ giảm sút. Ðắc dặn dò nên làm hầm cẩn thận, xóm
ngoài và xóm trong đã có nhiều nhà trúng đại bác. Ðắc còn cho biết quân
Mỹ đã tiến vào quốc lộ 1, ban ngày đã lên tới An Cựu. Nhưng Phủ Cam, Từ
Ðàm, Bến Ngự vẫn còn là khu vực của quân giải phóng. Má tôi không dằn
được than thở: Chắc dân chúng chết nhiều lắm. Tôi không nghe Ðắc trả lời
câu đó, và tiếng cười vui cũng im bặt một lúc lâu.
Trước khi về, Ðắc còn hứa là sẽ
trở lại thăm. Ðắc dặn dò Hường một vài điều nào đó mà tôi nghe không rõ.
Chỉ có tiếng Hường dạ nhịp. Ðắc và mấy người giải phóng, cán bộ vừa ra
khỏi nhà một lúc thì tiếng đại bác lại tiếp tục. Má tôi, Hường lại chui
xuống hầm. Hường kể lại chuyện vừa gặp Ðắc mặc dù tôi đã nghe gần hết.
Hường nói trong số tới nhà, có một người còn trẻ, đeo gương cận, chắc
cũng cán bộ nằm vùng. Má tôi dặn tôi phải cẩn thận vì Ðắc hẹn sẽ trở
lại. Bà nhắc tới chuyện Ðắc hứa là sẽ tiếp tế gạo và bảo Hường nếu cần
gì thì cứ tìm Ðắc tới. Tôi nghe và thấy cảm động. Thật ra không chủ
nghĩa nào, không lý tưởng nào chia rẽ tình người, tình bạn được. Tôi
nghĩ vậy cũng quá nông cạn chăng. Nhưng mấy ngày hôm sau thì Ðắc không
có thì giờ tới thăm chúng tôi nữa, mặc dù tôi biết nhiều lần Ðắc vẫn đi
ngang qua nhà.
Một lần tiếng đại bác vừa ngớt,
tiếng súng lớn nhỏ bên ngoài thành cũng đã đến lúc nghỉ xả hơi, tôi bỗng
nghe tiếng quát tháo ở ngoài đường. Em gái tôi đã dạn lắm, nó dám bò
lên hé cửa nhìn ra đường coi. Tôi nghe tiếng quen quen và nhận ra tiếng
của Ðắc. Hường ló đầu xuống hầm nói nhỏ:
“Chết cha. Anh Ðắc bắt gặp anh Tý rồi.”
Tôi chưa kịp hỏi thêm thì Hường đã trở lên, tiếp tục lén nhìn ra đường. Giọng của Ðắc vang từ phía ngoài:
“Các đồng chí để tôi xử tên này.
Ðể tôi quyền ưu tiên. Trước kia nó làm chúng tôi khổ sở điêu đứng bao
phen. Nó phải trả tội ác.”
Giọng Tý rên rỉ:
“Lạy anh tha cho em. Chừ em cũng
theo giải phóng rồi. Em đeo băng đây anh nì, anh, em đeo băng nì. Mấy
ngày hôm ni em hoạt động cho giải phóng, em điểm chỉ bắt nhiều tên Mỹ
ngụy rồi. Em xin lấy công chuộc tội.”
Ðắc cười gằn, giọng cay độc:
“Mày mà cũng biết ăn năn. Không, tao phải xử mày. Mày xuống đứng dưới cái hố tao hỏi tội.”
Có tiếng xô đẩy rồi tiếng kêu thét của Tý:
“Ối, lạy anh, xin anh tha cho em.”
“Tha cho mày. Hồi trước tao đã
lấy tình bạn xử với mày mà mày có tha cho tao mô. Tao bị bắt, bị tù tội,
bị đánh đập.” Ðắc cười gằn, khôi hài thêm: “Hừ, tao lên núi tầm sư học
đạo về đây, chuyến ni mi đừng có hòng.”
Giọng Tý như đang khóc:
“Em lạy anh, tha cho em. Em lạy anh, em biết lỗi rồi. Bởi rứa em theo giải phóng ngay từ đầu.”
“Mày có tài theo mau lắm. Vì rứa tao mới bị đánh đập giam cầm. Mày đứng xuống hố cong lưng xuống, nghe tao hỏi đây.”
“Ý, lạy anh, đừng bắn em chết. Em, em… ý trời, anh… anh…”
Ðắc bật cười ròn rã:
“Bắn mày? Không, mày đâu có được
chết mau lẹ rứa. Mày phải chết dần chết mòn, chết đau đớn khổ sở. Trong
đời tao, tao đã bị oan ức, chứ tao không muốn xử oan ức ai hết.”
Tôi rùng mình. Giọng Ðắc hằn học, quyết liệt lắm rồi. Tôi nghe một giọng người nào đó nói:
“Thôi đồng chí, nó đã ăn năn tội lỗi, đã về với giải phóng với nhân dân. Ðồng chí nên…”
“Nên gác lại hận thù riêng?
Không, hận thù riêng của tôi cũng là hận thù chung của bè bạn tôi nữa.
Các đồng chí xin đừng xía vô trường hợp này, xin đồng chí. Chỉ xin các
đồng chí trường hợp này mà thôi.”
Giọng Ðắc đột nhiên quát lớn:
“Ðứng yên đó. Tao chưa bắn đâu, đừng hòng.”
“Lạy anh, thôi, thà anh bắn em chết đi, cho em bớt khổ sở.”
“Không.”
Giọng Tý kêu lớn như gào bể cổ họng:
“Em lạy anh, em lạy anh…”
Tiếng Ðắc cười ran. Tiếng cười
đầy uất hận xói vào đầu tôi làm tôi choáng váng. Rồi một tiếng súng nổ.
Một tiếng thét lớn. Xong rồi. Nhưng không, một tiếng nổ nữa, một tiếng
thét nữa. Cứ tiếp tục như thế. Tôi mấy lần thót cả tim, rồi thở phào nhẹ
nhõm cho kẻ bị tội. Chết là hết. Nhưng lạ chưa, mỗi tiếng súng là mỗi
tiếng thét, thêm một tràng cười điên dại của Ðắc.
Tiếng súng ngừng hẳn sau một tiếng kêu hãi hùng của Tý. Lần này thì tôi yên tâm cho Tý rồi.
Bây giờ tiếng súng ở đâu ngoài
thành, xa hơn nữa, hình như ở phía chợ, phía cầu Tràng Tiền chi đó lại
nổ nữa, rồi tiếng đại bác. Má tôi gọi Hường mau vô hầm. Nhưng Hường như
còn hãi hùng với cảnh đã chứng kiến, nó đứng sững ở cánh cửa hé mở. Má
tôi phải chạy ra lôi nó vào hầm. Tôi hỏi mày thấy gì. Nó cà lăm, cà cặp,
run rẩy mãi mới kể lại cho tôi nghe lại cảnh đã chứng kiến. Ðắc đã tìm
gặp được Tý. Hắn bắt Tý đứng dưới một hố cá nhân rồi bắt đầu hỏi tội và
hành hạ. Ðắc xin các đồng chí giải phóng có mặt ở đó được giải quyết mối
thù riêng và các đồng chí giải phóng đã không ai can thiệp. Tý đứng
dưới hố, cứ mỗi lúc Ðắc đưa súng lên nhắm vào trán Tý mà bóp cò, Tý lại
nhắm mắt, khuôn mặt lạnh lùng chờ đợi. Nhưng rồi phát súng chờ đợi không
nổ. Ðến khi phát súng chờ đợi nổ thì Tý vẫn không chết. Mỗi phát đạn cứ
lướt qua màng tang, qua đầu, qua bên vai và mỗi lần như thế Tý cứ tưởng
là đã lưu lại thế gian tiếng thét cuối cùng của nó. Sau đó, Ðắc kéo Tý
lên rồi dẫn đi.
Chiếc hố bỏ trống đó, mấy ngày
sau, Hường kể cho tôi nghe, có một người lính giải phóng chết gục trong
đó, đầu kê lên miệng hố và mặt quay vào phía nhà tôi. Tôi đoán chắc
trước khi chết, anh còn kịp nhìn thấy những bông mai vàng trong sân và
một phần mái nhà bị sập đổ vì mảnh đạn hay những phát B40 của đêm đầu
tiên khai hỏa.
Tôi không còn nhớ những ngày sau
đó là mồng mấy hay mười mấy nữa. Mặt trận đã lan tới nội thành rồi.
Tiếng đại bác ngày đêm rơi không ngớt. Bờ thành sập nhiều chỗ. Người ta
đồn cửa Ðông Ba, cửa Thượng Tứ, cửa Sập đều bị bắn đổ xuống, chắn hết
lối ra vào. Mấy ngày đầu chúng tôi còn ra khỏi hầm nấu ăn được. Nhưng
mấy hôm sau, tiếng đại bác rơi không ngớt, rồi tiếng súng bắn ra ngoài
thành như mưa. Má tôi và Hường phải kéo bao gạo xuống hầm và chúng tôi
nhai gạo sống cho đỡ đói. Nhai gạo sống, uống nước lạnh, trời lại rét
như cắt ruột gan, hơi đất thấm vào người, cả nhà bị đau bụng. Chúng tôi
phải canh chừng tiếng đại bác, leo lên hầm tiểu tiện ngay ra nhà. Ðôi
lúc đang nửa chừng, nghe đánh ình một tiếng, không chạy mà cũng tự động
rơi tọt xuống hầm như bị ai nắm quăng xuống hố.
Cứ sống như thế mấy hôm, người
chúng tôi xanh lướt. Hường không chịu nổi nữa, nó khóc rấm rứt suốt
ngày. Vậy mà đâu được yên thân. Mặc tiếng đạn đại bác, mặc máy bay, các
anh lính giải phóng vẫn tìm cách tới trước cửa từng nhà, kêu gọi đồng
bào góp sức chiến đấu với mặt trận. Khẩu hiệu là: Không dung giặc Mỹ,
không chứa chấp Việt gian, không sờn lòng trước áp lực súng đạn. Nếu
cần, tất cả đồng bào lớn bé tràn ra hết ngoài đường chiến đấu với Mỹ
ngụy.
Mỗi lần nghe như thế, chúng tôi
run như cầy sấy. Những người chung quanh chết mỗi ngày mỗi nhiều. Ngay ở
đàng sau vườn nhà chúng tôi, có ba bốn xác chết bỏ lại, không biết dân
hay giải phóng. Ban đêm, đôi khi chúng tôi nghe tiếng la thét ở đàng sau
vườn. Hoặc họ bắt người dẫn ngang qua nhà, tiếng van lạy kêu khóc đến
não người.
Một ngày nữa trôi qua, chúng tôi
vẫn còn sống. Nhưng ngôi nhà bên cạnh bị một quả đại bác câu tới tan
tành. Nhà sát đó bị miểng rơi tung cả mái tôn và chiếc hầm đang ở trong
nhà thành hầm lộ thiên. Ánh sáng chiếu vào hầm làm mọi người sợ hãi. Vậy
là họ liều chết chạy ra đường, sang nhà tôi xin trú ngụ.
Mặc dù chật chội, hôi hám hơn,
nhưng sự có mặt của nhiều người làm chúng tôi yên lòng hơn. Những người
mới tới cho biết đã có nhiều đoàn người tản cư ra ngoài bờ sông, mặt Gia
Hội. Nhưng Hường quả quyết rằng, chính Ðắc nói trường Gia Hội là nơi
trú đóng của bộ chỉ huy Việt cộng, nơi đó còn dùng để làm tòa án nhân
dân nữa. Tôi can má tôi. Tản cư ra đó, khác nào đút đầu vào miệng cọp.
Chỉ có một tạ gạo mà thêm bao
miệng người ăn, chúng tôi phải ăn cầm chừng. May gia đình tản cư tới
không có trẻ con, nên nhịn đói nhịn khát được. Mỗi sáng chúng tôi nhai
một nắm gạo, trưa một nắm, chiều một nắm.
Chỉ có vậy mà bao gạo vơi đi một
cách đáng sợ. Có lẽ hết bao gạo này, chúng tôi chưa chết vì bom đạn thì
cũng chết vì đói khát. Mỗi ngày mọi người nhìn nhau, thở dài hoặc ứa
nước mắt. Không ai còn đủ sức bàn vô tán ra nữa.
Một buổi trưa, mọi người đang ngồi trong hầm nhai gạo sống thì có tiếng xô cửa rồi tiếng gọi:
“Mợ ơi, mợ ơi.”
Má tôi nghe và nhận ra tiếng đứa cháu trai ở đường Mai Thúc Loan. Bà mừng rú lên:
“Ðây nì, dưới hầm nì con ơi, xuống mau.”
Một cái đầu ló vào. Thằng Tam. Nó run lập cập, mặt mày tái mét. Má tôi kéo nó sát vào người:
“Mạ với ba mô rồi. Răng đi một mình?”
Tam òa khóc:
“Mạ chết khi chạy ra đường với
cháu rồi. Mạ biểu cháu cứ chạy đi, mạ hoa tay trợn mắt. Cháu không chịu
đi. Khi mạ chết cháu mới đi.”
Mạ tôi khóc òa:
“Trời đất ơi. Còn ba mô? Ba mô nói cho mợ biết.”
“Ba bị bắt đi rồi. Ba bị bắt trói
dẫn đi cùng với nhiều người khác nữa. Nghe nói bị đưa lên cửa thành cho
đại bác bắn xuống. Mợ ơi, mợ ơi…”
Tam khóc ngất. Má tôi cũng khóc
ngất. Tôi nổi gai ốc đầy người. Tại sao lại đưa dân lên cửa thành cho
máy bay bắn xuống chết. Những người này có tội tình gì? Lại mấy thằng
cha cán bộ địa phương tư thù tư oán đây mà. Chòm xóm láng giềng mà giết
nhau đây mà. Tôi giận căm gan, muốn hét lớn một tiếng cho đỡ tức. Tam
vẫn nức nở:
“Họ ác lắm mợ ơi, họ bắt mấy
người tình nghi đem lên thành trói lại cho máy bay Mỹ tưởng là Việt cộng
bắn xuống. Hôm qua mười mấy người, hôm ni mấy chục người. Chắc có ba
cháu rồi.”
Má tôi đập tay đập chân. Giọng Hường yếu ớt:
“Khóc mần chi má. Trước sau cũng
chết. Thà chết trước còn sướng hơn. Con muốn chạy ra đường cho máy bay
bắn chết cho rồi. Sống như ri khác chi chết đày chết đọa.”
Có tiếng súng nhỏ nổ ran trước
mặt đường. Má tôi và Tam ngừng bặt tiếng khóc. Hình như quân giải phóng
dẫn một đoàn tội nhân đi qua. Có tiếng kêu khóc, có tiếng la lớn. Má tôi
ôm lấy ngực. Con Hường há hốc mồm rồi ngã vật xuống đất. Tôi sờ tay nó
thấy lạnh ngắt. May người hàng xóm tới ở nhờ có chai dầu xoa khắp người
Hường. Một lát sau nó hơi tỉnh, rên rỉ:
“Ghê quá mạ ơi. Ghê quá anh ơi…”
Rồi nó khóc. Hình như nó đang
khóc trong cơn mê sảng. Tôi cầm chặt tay em gái. Tội nghiệp cho nó. Nó
ăn gạo sống lâu ngày không chịu nổi, cái bụng căng phình như bị báng.
Miệng nó trào bọt mép. Một lúc sau nó tỉnh hẳn. Nó ôm chặt má tôi:
“Con không chịu được nữa. Chắc con chết.”
Giữa cơn bom đạn như mưa bên
ngoài, má tôi vừa khóc vừa bò lên khỏi miệng hầm. Bà lục lọi gì lâu lắm.
Tôi sốt ruột cứ thò đầu lên gọi:
“Má, má xuống hầm liền đi.”
Mãi má tôi mới xuống. Trên tay bà
cầm đòn bánh tét mốc meo. Bà lột lớp lá và đưa cho Hường, lúc đó đang
nằm bẹp xuống đất mà thở như sắp đứt.
Bắt đầu từ đó, hết đêm kinh hoàng này nối tới ngày kinh hoàng khác.
Tôi không tài nào ngủ được. Không còn một ai dám lên miệng hầm nữa. Thức ăn cạn dần.
Bao gạo gần hết mà chúng tôi lại thêm một miệng ăn. Tam kẹt lại luôn. Không dám một mình trở về nhà nữa.
Hường bịnh nặng, nằm rẹp một chỗ.
Má tôi cứ ngóng bước chân đi trên mặt đất, hy vọng Ðắc trở lại. Nếu Ðắc
còn trở lại, chúng tôi còn nhờ vả được. Một buổi chiều, chúng tôi nghe
tiếng chân đi nhẹ vào nhà, rồi tiếng người ngã phịch xuống. Một lát sau
nhiều tiếng chân khác đuổi tới. Một tiếng súng nổ. Một tiếng kêu thét
lên. Nhiều tiếng lao xao nói cười: Có chạy đằng trời. Một giọng khác có
vẻ ngạc nhiên: Nhà ni chắc không có người ở. Có hầm, chắc họ ở dưới hầm.
“Lục soát coi, đôi khi ngụy quân trốn trong đó.” “Ôi cứt đái tùm lum,
chắc chẳng có ai. Thúi quá, đi ra.” Tiếng chân xa dần. Má tôi mừng rỡ
tới ứa nước mắt. Ðống phân rác dơ dáy bừa bãi giữa nhà đã cứu chúng tôi.
Má tôi hít một hơi dài, gật đầu: Bây giờ mới thấy quý đống phân. Tôi
cũng vậy, không còn ghê sợ mùi hôi thối xông xuống nữa.
Chắc họ đi, bỏ lại một xác chết
ngay giữa nhà chúng tôi nữa. Tôi thắc mắc không biết xác của ai. Tôi
nghĩ tới Tý. Cũng không có thể là Tý. Ðắc đã bắt đi, không dễ dàng gì
cho hắn trả nợ nhẹ nhàng thế. Nhưng tôi chỉ thắc mắc một chút rồi thôi,
nỗi lo sợ nhất của tôi là vài hôm nữa xác chết sẽ sình thúi, và chắc
chắn mùi xác chết trộn với phân người sẽ không dễ ngửi như mùi tôi đang
ngửi.
Rồi bao gạo cạn dần, cạn cho tới
đáy. Buổi sáng hôm đó, má tôi báo động hết thức ăn. Gia đình tới tạm trú
có vẻ băn khoăn vì họ cho là có trách nhiệm trong vụ đói khát cận kề.
Nhưng dù không có họ thì gạo cũng sẽ hết và chúng tôi cũng sẽ chết đói.
Hết nhanh hay cầm cự thêm hai ba hôm nữa cũng thế thôi. Má tôi khóc:
“Khổ chưa nì, không chết bom đạn mà chết đói mới khổ thân chớ.”
Rồi bà ôm Hường khóc vùi.
Sau đó chúng tôi nhai những hạt
gạo cuối cùng một cách thận trọng như sợ một vài hạt sẽ rơi vãi mà không
có cách gì tìm thấy lại được.
Gia đình hàng xóm nhất định nhịn,
nhưng má tôi vẫn chia: Ôi, có chết thì cùng chết. Ăn đi rồi chết. Mọi
người khóc lóc, nhưng không ai dám khóc to, sợ có người nào trên mặt đất
nghe thấy.
Hình như nhiều căn nhà chung
quanh chúng tôi đã sập đổ. Nhiều tiếng nổ thật lớn làm dội tức cả ngực.
Ðôi khi chúng tôi tưởng như tiếng nổ đã cày xới mất căn nhà ở và nhắm
mắt chờ chết, một lúc sau những tiếng nổ dịu bớt, chúng tôi mới biết là
mình vẫn chưa hề hấn gì.
Tiếng súng lẻ nổ đã gần hơn, hình như đã cận kề ở miệt phố. Tôi bỗng nẩy ra một ý định:
“Má, mình đi trốn đi, ở đây chắc thế nào cũng chết.”
“Tao không còn biết chi nữa. Tùy mày định liệu đó.”
Chúng tôi lại nhịn đói thêm hai
ngày nữa. Hường mệt lả. Hai gia đình chúng tôi bàn soạn việc đi trốn.
Tam cố bò lên miệng hầm, mặc tiếng súng đạn, hắn lần ra cửa xem xét
ngoài đường. Một lúc sau, hắn chui xuống hầm, giọng có vẻ mừng rỡ:
“Ngoài đường người ta đi đông lắm. Lâu lâu lại có một tốp người chạy về phía cổng thành.”
Má tôi bật dậy:
“Mình đi theo họ.”
Nhưng Tam gạt đi:
“Không, chỉ đàn bà và người già. Không thấy đàn ông. Ðàn ông họ đi đâu hết rồi.”
Má tôi bàn việc giả dạng. Mấy người đàn bà bế Hường chạy trước, còn tôi giả mặc quần áo đàn bà, đội khăn đi theo sau. Tôi hỏi:
“Còn Tam làm răng. Vô lý cũng giả dạng nữa.”
Tam buồn rầu:
“Sống chết có số mạng. Anh cứ lo phần anh.”
Ngay xế trưa hôm đó, chúng tôi
bồng bế, dìu dắt nhau lên khỏi miệng hầm. Vật đập ngay vào mắt tôi là
xác một người đàn ông sình to nằm sấp, máu me đã đặc khô lại. Hai tay
hắn dang ra như ôm mặt đất. Chúng tôi không nhìn rõ mặt hắn. Tam bận rộn
việc hóa trang cho tôi. Tôi mặc quần áo của Hường, đầu trùm khăn kín
mít. Má tôi thu xếp một ít thứ lặt vặt gói vào một cái bọc rồi giục giã
mọi người ra đường.
Cánh cửa bật mở. Tôi chói mắt lảo
đảo muốn té. Khi quen với ánh sáng rồi tôi mới nhận ra mọi cảnh vật đổi
thay. Không còn một hình dạng cũ nào được giữ lại. Lạ lùng, căn nhà của
tôi chưa trúng đại bác vẫn trơ vơ giữa những khu vườn xơ xác, những
ngôi nhà đã tan thành đống gạch vụn. Ðâu cũng có người chết, trong sân,
đầu ngõ, ngoài đường. Những vũng máu đã khô hoặc còn mới. Tiếng đại bác
vẫn câu đều đều từ phía trong thành nội, những tốp người tiếp tục chạy
ra. Họ vừa chạy vừa la khóc rền trời. Không ai hỏi ai, không ai nhìn
ai.
Ngay giữa đường, hai bên đường,
những miệng hố lớn do người đào, do bom đạn đào cũng có. Vừa chạy tới
đường Mai Thúc Loan thì một loạt súng nhỏ ngoài thành bắn vào như mưa.
Ðoàn người chạy đằng trước có vài người ngã xuống. Tức thì họ quay đầu
trở lại, một đàn ong tan bầy. Tôi vội kéo mọi người chạy trốn vào một
căn nhà đổ nát ngay lề đường. Nhà đã sập, chỉ còn mấy bức tường trơ vơ.
Chúng tôi chui vào đàng sau bức tường, leo qua đống gạch lớn. Nhà này có
một cái hầm cát nhưng hầm cũng bị trúng đại bác tan tành, bao cát vỡ tứ
tung, các cây gỗ gẫy văng la liệt. Và giữa những bao cát bị đào lên,
giữa những thanh gỗ lớn, xác một người Mỹ nằm sấp, mặt nhìn ra ngoài
đường. Tay anh ta đưa ra trước mặt và nắm chặt lại. Tôi tò mò nhìn kỹ,
thì ra đó là một bức ảnh nhỏ in hình một người đàn bà tây phương đang áp
má bên một đứa bé gái bụ mẫm. Cả hai mẹ con cùng cười, tươi thắm giữa
vườn cây trái tươi tốt. Người Mỹ còn trẻ lắm, anh ta chưa tới ba mươi
tuổi, mái tóc vàng hoe dính bê bết máu. Xung quanh xác chết của anh ta,
chiếc ví da xổ tung, giấy tờ, thư từ rơi vung vãi cùng chiếc bật lửa và
những giây đạn còn mới nguyên, bị đứt ra từng đoạn. Tam tò mò hơn, nó
nhìn sát vào tay người Mỹ và đọc được giòng chữ nhỏ đằng sau bức ảnh.
Hắn lẩm nhẩm: Lạy Chúa, cho con gửi lời cầu xin năm mới sang Việt Nam
cho chồng con. Chiến tranh chấm dứt và gia đình đoàn tụ. Lẫn trong đống
thư từ rơi vãi, Tam lượm được một chiếc ảnh nữa, cũng người đàn bà, gần
như không có mảnh vải che thân đang nằm sấp trên chiếc giường rộng trống
trải với một lời đề đằng sau, tả nỗi nhớ chồng thê thiết.
Không biết ngày thứ mười mấy hay
hai mươi mấy mà người Mỹ đã vào được tới đây. Có lẽ họ đã đến và bị đẩy
lui. May mà chúng tôi đã tìm ra tới được đây. Khi chúng tôi ra tới
đường, hình như nơi con đường chúng tôi ở không còn một gia đình nào
nữa. Họ đã chết hoặc đi từ lâu rồi. Hường ngồi ủ rũ dựa lưng vào đống
gạch, nó giơ tay che mắt không dám nhìn xác chết.
Người đàn bà lớn tuổi nhất ở nhà hàng xóm trú ngụ nhà tôi bò ra ngoài nhìn rồi ngoắc chúng tôi:
“Ngoài đường có người đi rồi. Ði đi thôi.”
Chúng tôi lại dắt dìu bồng bề
nhau đi. Nhưng cứ một đoạn, chúng tôi lại chạy ào tìm chỗ tránh đạn hoặc
nằm mọp xuống đất khi nghe trên đầu có tiếng rạt rạt. Mỗi lần có tiếng
rạt rạt trên đầu là có tiếng nổ của đại bác. Ðằng trước chúng tôi có
người trúng đạn, đằng sau chúng tôi có người trúng đạn. Ðoàn người chạy
loạn bỗng dưng tụ tập hết gần nơi cửa thành. Người tôi run lên. Họ kiểm
soát chắc. Chúng tôi đến gần. Có một toán quân giải phóng đang ngồi ở
đó. Họ không ngăn chận nhưng đoàn người tự động dừng lại trước những mũi
súng gờm gờm như sẵn sàng nhả đạn. Tôi kéo vuông khăn che đầu tóc, che
mặt cho thấp xuống.
Má tôi vội nhét vào túi áo trong của tôi một gói tiền nhỏ rồi bà bế xốc Hường lên.
“Ðàn bà được đi qua. Ðàn ông thanh niên đi trở lại.”
Một giọng cứng rắn từ trong toán
giải phóng đang ngồi dựa lưng bên cửa ra lệnh. Tam tái mặt, nó cố lẩn
trong đám đàn bà trẻ nít. Tôi nín thở đi qua. Mấy đôi mắt gườm gườm nhìn
thẳng vào mặt. Bỗng có tiếng nói:
“Anh kia đứng lại.”
Tôi giật thót cả người, không dám
nhìn lại. Họ nói tôi hay nói ai. Nhưng tay ai đã đẩy lưng tôi đi thẳng
tới phía trước. Tiếng Hường rên rỉ như đau đớn lắm. Tôi biết một phần nó
đau đớn thật và một phần nó làm bộ kêu la. Bỗng Tam vùng chạy về phía
trước. Một tràng súng đuổi theo nhưng hình như súng chỉ bắn lên trời.
Ðoàn người tràn ra cửa thành đông quá. Tam nhờ đó cứ vừa lách vừa chạy.
Nghe tiếng súng, ở bên ngoài có tiếng súng đáp trả. Hai bên lại bắn nhau
loạn xạ. Chúng tôi lạc bầy nhau chạy bán sống bán chết. Một tràng đạn
réo bên tai. Tôi vội nằm xuống đất, và khi đứng dậy được thì má tôi, em
tôi, Tam và những người hàng xóm đã chạy lạc đâu mất rồi. Tôi chết điếng
người, má tôi, em tôi, có mặt trong đoàn người chạy phân tán các ngả
hay đã nằm trong đống xác vừa mới ngã đằng sau lưng đang còn nóng hổi,
tràn trề sự sống kia? Tôi muốn quay lại nhưng không được nữa. Súng đạn
xô tôi chạy mãi về phía trước. Tôi đã ra tới phố Phan Bội Châu.
Lúc nãy, rõ ràng tôi nghe nhiều
tiếng súng bắn vào cửa Ðông Ba, và quân Việt cộng bên trong bắn trả lại.
Nhưng ra tới đây, sao tôi không thấy bóng một người nào hết. Chỉ có
những xác chết. Xác Việt cộng chết từ lâu hoặc còn tươi, xác dân chúng
đi tản cư. Tôi nhìn thấy nhiều cảnh thương tâm lắm. Những chị đàn bà
chết trong tay còn ôm chặt con. Những người đàn bà bụng chửa chết lòi
con ra ngoài. Thấy chạy ở ngoài đường nguy hiểm quá, tôi xô cửa vào một
căn phố gần đó.
Căn phố bỏ trống. Tôi ngạc nhiên
khi nhìn thấy những lỗ hổng lớn đục nơi bức tường cứ tiếp tục thông từ
nhà này sang nhà khác. Tôi nghĩ là Việt cộng họ dùng lối này để di
chuyển chăng. Nhưng tôi không dám mạo hiểm leo sang những căn nhà khác.
Căn phố này chưa sập đổ hoàn toàn, nhưng tôi kiếm hoài không ra được một
chút thức ăn nào hết. Cực chẳng đã tôi phải tìm sang nhà khác, kiếm bất
cứ cái gì ăn cho đỡ đói. Khi tôi nhặt được một túi bánh mì khô bên cạnh
xác một em bé chết đã lâu mặt mũi sình thối, thì tôi cũng bị trúng một
viên đạn vào tay. Tôi tự băng bó bằng áo của em bé đã chết, và viên đạn
đến bây giờ vẫn còn mắc cứng trong thịt, có lẽ tôi đau nhức hơn cả là vì
vết thương này.
Tôi không hiểu làm thế nào mà tôi
còn sống sót được khi chạy tới bờ sông. Tôi không biết, không nhớ rõ
khúc sông nào. Lúc nhìn thấy mặt nước, tôi khát cháy cổ họng, người khô
quắt không còn một giọt mồ hôi. Sau lưng tôi, trên đầu tôi, tiếng súng
nổ. Tôi bỗng cảm thấy đau nhức khắp người và hình như máu trong người
tôi đang chảy ra như suối. Mặc, giòng sông xanh trước mặt êm ả quá, màu
xanh ban đầu làm mắt tôi dịu lại, rồi tất cả giòng sông chụp lấy tôi,
nhận chìm tôi xuống. Tôi đã lết tới sát bờ sông, tôi vục cả mặt mình
xuống, trườn cả người xuống, giòng nước mát lạnh như muốn đóng tôi thành
một tảng băng. Rồi có tiếng la chới với: Cứu người ta với, cứu người ta
với. Tôi bị nhấc bổng lên một con thuyền, và tôi thiếp đi.
Khi tôi tỉnh dậy thì thuyền đã
qua sông. Tôi bị mấy vết thương khá nặng. Có bao nhiêu tiền, tôi dốc cho
người lái đò đã cứu sống tôi hết. Tôi từ giã người lái đò rồi cố gắng
vừa bò vừa lết lên đường.
Hình như tôi bò ngang qua nhiều
xác chết lắm. Tôi đến được trường Kiểu Mẫu. Ở đây, người ta tị nạn đông
lắm, đông đến nỗi tôi không còn có chỗ nằm. Tôi được băng bó sơ sài,
được ăn uống. Người ta khuyên tôi nên đi về phía An Cựu, ở đó đã yên,
may gặp quân đội, họ chở về Phú Bài mới có thuốc thang băng bó. Tôi đã
đi qua bao nhiêu con đường nhỏ, tôi có ngang qua bưu điện nữa thì phải,
cứ ở chỗ này có tiếng súng, tôi bò tránh sang chỗ khác. Nơi bưu điện,
tôi thấy có mấy xác Việt cộng bị xích chân nơi khẩu đại liên. Họ đã
chết. Một nơi khác tôi cũng thấy tương tự như thế. Khi tới cầu An Cựu,
tôi thấy có lính mình và người Mỹ. Tôi chưa kịp đi tới thì xẩy ra tiếng
súng, tôi vội lết vào con đường nhỏ để tránh đạn. Khi đi qua đoạn đường
hồi nãy anh cứu tôi, tôi bị một phát súng trong vườn bắn ra. Tôi ngã
ngay xuống đất. Dù vậy, tôi cũng cố lết tới cái hố bom để tránh đạn lạc.
Khi ở trường Kiểu Mẫu, tôi thấy có nhiều ngôi mộ mới. Người ta nói: mỗi
ngày có mấy người chết. Hoặc bị thương từ trước, hoặc trúng bom. Tôi
tưởng qua tới đây thì có thể về Phú Bài được. Nhưng giờ thì tôi hết hy
vọng rồi. Tôi không hiểu sao tôi còn tỉnh táo tới phút này để kể cho
anh, cho chị nghe chuyện của tôi được. Có lẽ máy bay đã xa rồi.
Thôi anh chị để mặc tôi, chạy đi,
không họ tràn tới bây giờ. Xin dựng tôi nơi cánh cửa, không, nơi cái
cột kia cũng được. Tôi còn nhìn thấy mưa, thấy cỏ cây. Bụi cây trước mặt
chưa có một vết đạn nào tới phá, mưa gội sạch hết để tôi nhìn…
Thái dựng người thanh niên nơi
chiếc cột ngó ra góc vườn. Ở đó có một chậu cây. Mấy chậu hoa thược dược
trắng và tím vẫn nở. Xa hơn là một bụi cây lớn đang nằm nghe mưa vỗ về.
Có lẽ máy bay sẽ trở lại thật. Thái ngỏ ý muốn đi và đem người thanh
niên theo, nhưng anh ta mỉm cười lắc đầu. Tay anh bắt đầu run, môi anh
ta tím bầm lại và đôi mắt chớp nhanh như muốn thu hút hết bầu trời và
cảnh vật trước mắt. Ðôi mắt dại dần như có một cái màn mỏng kéo tràn
qua. Thái cầm chặt tay anh ta. Nơi khóe mắt sắp tàn lụi bỗng rỏ xuống
hai giọt nước mắt và miệng anh mấp máy. Anh cố nhướng lên như muốn thâu
hết mọi hình ảnh rồi đứng tròng. Thái lắc đầu. Tôi thụt lùi lại đứng
đằng sau lưng Thái. Thái nhẹ nhàng vuốt mắt cho người thanh niên, rồi
đặt xác anh ta nằm thẳng bên chiếc bể cạn.
Trời mưa nặng hạt hơn. Tôi thờ
thẫn theo Thái ra ngõ. Trước ngõ, mấy xác Việt cộng nữa vừa mới chết. Họ
nằm sấp có, ngửa có. Thái vuốt mắt cho từng người rồi kéo tay tôi đi.
Tôi bỗng hoảng kinh muốn vọt chạy tới đằng trước. Thái hỏi:
“Chi rứa chị?”
Tôi nói không ra hơi, đưa tay chỉ
lui. Xác một Việt cộng vừa mới được Thái vuốt mắt xong đã nhắm, bỗng
lại mở trừng trừng ra, như nhìn theo chúng tôi. Thái xô tôi tới trước:
“Thôi kệ, đi đi chị. Ði đi mau.”
Chính chân Thái cũng quýnh lại.
Hai chị em dắt díu nhau chạy thoát con đường nhỏ. Một lúc sau tới đồn An
Cựu, thấy có thúng hột vịt của ai bị đổ rơi vãi đầy đường, Thái nhặt
được ít quả còn nguyên bỏ vào túi.
Hình ảnh người thanh niên tên
Khâm vừa mới chết trong một căn nhà lạ cứ ám ảnh tôi mãi. Hắn kể tỉnh
táo vậy tại sao lại chết chóng vánh như thế? Cái chết thiệt dễ dàng và
đôi khi không giải thích nổi. Hắn đã ở nơi bom đạn trong suốt bao nhiêu
ngày, bị bao nhiêu vết thương. Trốn chạy mãi sang gần tới nơi bình yên
thì lại chết vì một viên đạn nào đó trong vườn, từ sau một bụi tre bắn
đi. Cái chết thật như sự bỡn cợt.
Vậy số phận tôi, số phận gia đình
tôi lấy gì bảo đảm. Tôi đã chạy cùng khắp, về nhà quê, lộn lại lên Huế.
Ở nhà quê cũng có người chết vì đại bác rơi lạc. Về thành phố, tìm nơi
an ổn nhất cũng có những viên đạn đi lạc hết sức vô tình. Tôi bỗng bàng
hoàng cả người khi nghĩ tới những ngày ở nhà thờ, ở Cung An Ðịnh, những
ngày chạy từ Tân Lăng về miệt đường rầy. Ở đâu cũng đầy cái chết mà
chúng tôi chưa biết, chưa chết, chớ không phải là không thể chết.
Ban đầu tôi nghe đồn là Việt cộng
ở chơi ba ngày, rồi tăng lên bảy ngày. Rồi tin cụ Hồ vào thăm dân. Cụ
chưa vào mà thành phố đã chết đứt một nửa, đã tan nát sụp đổ gần hết.
Ngày cụ vào, chắc gì con cháu còn sống để hoan hô cụ. Nhìn đồng bào
chết, lòng tôi không khỏi xót xa, nhưng nhìn những xác Việt cộng tôi
cũng không thể căm thù họ. Họ cũng chết la liệt cho bác Hồ vô Huế. Thái
nói:
“Răng tự nhiên chị khóc?”
Tôi phải nói là tôi sợ lắm. Chắc
Thái cũng đang nghĩ gì mà tôi nhìn thấy mắt nó buồn hiu. Về tới nhà, má
tôi đang đứng lấp ló ở cửa. Bà chạy xổ ra kéo chúng tôi vào nhà, vừa
mắng vừa khóc:
“Tụi bây thiệt. Tụi bây thiệt làm tao hết hồn hết vía.”
Rồi bà kéo chúng tôi vào nhà.
Trên bàn thờ ba tôi, mùi nhang bay thơm phức. Dì Vạn đang thổi cơm bằng
chiếc bếp nấu dầu hôi ở một góc nhà. Dì nói:
“Trưa ni ăn cơm có đu đủ kho nghe bây. Dưới Thủy Dương vừa mang lên, của cậu mợ Giáo gửi cho đó.”
Thái ngơ ngác:
“Ai lên, lên khi mô? Mới đánh nhau mà.”
“Thì nó lên rồi bị kẹt ở Mù U. Nó phóng xe như bay tới đây, ngớt súng là về liền.”
Tôi hiểu dì Vạn nói nó đây là ai rồi. Chắc con trai của cậu Giáo.
Má tôi nói:
“Ðừng có mở cửa nghe. Có nhiều nhà người ta về rồi. Mở cửa sợ Việt cộng biết.”
Trưa đó, chúng tôi đang ăn cơm
thì nghe một tiếng nổ như sét trên đầu. Cả nhà lại vất hết bưng đầu chui
vào hầm. Lại đánh nhau chăng? Nhưng chỉ có một tiếng nổ lớn rồi thôi.
Hai cánh cửa sổ đang đóng bật ra, thêm một ít ngói trụt để lộ những mảnh
da trời màu chì. Mấy tiếng đồng hồ sau chúng tôi mới biết là một toán
lính Mỹ đi ngang gần đồn An Cựu, ngồi nghỉ chân tại bên đường, kiểm lại
thấy mất một cây súng. Vậy là họ kéo vào một căn nhà lầu đẹp nhất bỏ
trống, đặt mìn giật nổ cho hả giận.
Chương 8: TRỞ VỀ NGÔI NHÀ CŨ
Nhà ở đằng trước đã trở về. Trước
Tết, tôi thấy nhà này đông lắm, con cháu ra vô đầy sân. Khi ba tôi mất,
ông chủ nhà cũng có qua thăm viếng nữa. Vậy mà bây giờ chỉ có hai người
con trai trở về. Họ mặc quần áo đại tang và đội mũ trắng trên đầu.
Tôi biết được họ về là nhờ nghe
được tiếng khóc. Một buổi xế trưa, khi vừa chui ra khỏi miệng hầm để
giúp dì Vạn lấy nước vo gạo, tôi bỗng nghe tiếng khóc ai oán ở nhà trước
mặt ngõ. Dì Vạn khoát tay:
“Im, ai khóc mà dễ sợ rứa. Ai khóc như ma khóc rứa hề.”
Tôi nói:
“Con nghe chừng như tiếng đàn ông.”
Thái bò ra:
“Tiếng khóc bên nhà trước mình, hình như nhà bác Năm thì phải chị hỉ!”
“Chắc vậy.”
“Để em ra sân nghe thử coi.”
Thái thoát ra sân. Tôi vội vã
chạy theo nó. Đúng tiếng khóc ở nhà trước ngõ thật. Ngôi mộ trước sân ai
đã thắp hương, làn khói mỏng manh bay là là sát mặt đất rồi tan loãng
rất mau. Thái đứng trước cây dừa nhìn vào. Một cái đầu rồi hai cái đầu
ló ra. Hai người con trai lớn của gia đình này. Mặt mũi đỏ hoe và mắt
chưa ráo lệ. Thái hỏi thăm:
“Mấy anh về rồi đó à?”
“Không, tụi tui về rồi đi liền. Về coi nhà cửa ra răng.”
Thái chỉ ngôi mộ:
“Mộ bác gái đấy phải không? Hôm nớ mà chôn được, kể bác gái cũng có phước lắm.”
“Mạ tui chết ngay tại nhà mà. Còn con em tui chưa chết, vì chưa chết mới mang họa.”
“Ủa, chắc cô đã bị thương nặng lắm.”
“Nó cũng chết rồi.”
Người em đưa tay lên trời, chỉ về phía thành phố đang bốc khói:
“Tui thề không đội trời chung với
chúng nó. Anh thử coi, con em gái tui bị thương sáng đầu tiên, nhà
cháy. Ba tui với em tui chở nó đi nhà thương. Khi nớ mô đã biết Việt
cộng chiếm hết thành phố. Rõ ràng là Mỹ với Việt cộng bắn nhau rồi nhà
tui cháy. Đạn trúng mạ tui không phải B40 mà là đạn của Mỹ ở ngoài đường
bắn vô. Mạ tui chết vì đạn Mỹ chớ không phải của Việt cộng. Rồi ba tui
chở em tui, chị gái tui cũng đi theo, đi giữa đường bị trúng bom đạn chi
đó chết luôn. Chôn ngoài trường Kiểu mẫu. Trời ơi, tụi tui tới nơi chỉ
còn thấy mấy cái thẻ kiểm tra và cái bình thủy đựng nước sôi đã nguội
ngắt đặt bên mấy ngôi mộ vùi nông.”
“Mấy anh tìm ra mộ bác rồi?”
Cả hai người cùng sụt sùi. Họ chùi nước mắt:
“Mấy ngày trước lận. Tui nghe họ
chỉ chạy ra tới nơi tưởng chết. Rồi tui về đây núp đạn đầu tiên hết.
Trong xóm mô có ai. Rứa mà ghê quá, một quả bom chi đó không biết nữa
rơi sụp mái nhà, chui tọt vào miệng hầm, cái đầu chổng ngược như một mũi
tên, mà nó không nổ. Anh em tui nhắm mắt chờ nó nổ, nó không nổ. Về sau
chạy ra được khỏi hầm. Chừ trở về nó vẫn còn mà chưa nổ. Đi tản cư tui
cứ lo nó nổ thì tan tành sự nghiệp.”
Tôi sợ tái người. Té ra mấy ngày
nay trở về, chúng tôi sống bên một ngôi nhà chứa một đầu bom lớn. Nếu nó
nổ, bên nhà chúng tôi không khỏi bị họa lây.
“Bây giờ mấy anh đi mô?” Thái hỏi.
“Chừ tụi tui về Phù Lương. Ở đây sợ lắm.”
Hai người con trai sửa soạn ít
thứ cần dùng, ra thắp nhang thêm nơi mộ người mẹ rồi chào chúng tôi, đi
ra đường. Thái chạy theo hỏi:
“Mấy anh đi bộ.”
“Không, xuống khỏi Mù U có xe Lam rồi. Xe lên tới rồi.”
Tôi mừng như bắt được vàng:
“Thế hả. Anh làm ơn cho hỏi, xe có qua Thanh Lam không.”
Tôi sực nhớ tới một nơi mà tôi có
thể nhờ cậy được. Ở Thanh Lam có một cơ sở nhỏ, chi nhánh của nơi tôi
làm việc. Nếu có xe Lam, tôi sẽ đi xuống đó để nhờ họ giúp đỡ trở lại
Sài Gòn. Một trong hai người vừa đi vừa trả lời tôi:
“Có, có.”
Tôi chạy một mạch vào nhà. Má tôi hỏi ai khóc đó. Tôi không trả lời câu hỏi của má tôi mà tíu tít khoe:
“Con sắp đi Sài Gòn được rồi.”
“Hí. Mi đi Sài Gòn.”
“Đường đi về Thanh Lam được rồi. Con sẽ về đó xin phương tiện về Sài Gòn.”
Má tôi chưng hửng:
“Thiệt không? Tao không tin được.”
Tôi kể chuyện hai anh em con trai
nhà đằng trước ngõ cho má tôi nghe. Má tôi hiểu ra và mừng rỡ. Miễn là
thoát được vô với chồng con. Tôi bỗng tím lịm người. Chồng con tôi ở Sài
Gòn liệu có còn yên ổn không? Sài Gòn cũng đánh nhau, cũng chạy loạn,
cũng chết chóc như Huế. Các con tôi. Các con có đợi má trở về? Nước mắt
tôi bỗng chảy giòng giòng. Má tôi nạt:
“Nghĩ tầm bậy. Chắc không can chi mô.”
Câu nói của má tôi vẫn không an
ủi tôi được chút nào hết. Nếu gia đình tôi ở Sài Gòn có chuyện gì, thà
tôi chết ở đây với Huế. Nhưng sợ má tôi phiền muộn thêm, tôi vội chùi
nước mắt.
Buổi chiều hôm đó, Thái đưa tôi về Mù U để chờ xe Lam. Nhưng xe Lam không có.
Tôi lại nghe phía cầu Bực bị giựt
mìn, xe cộ không đi lại được. Nhưng đến xế chiều, nhiều đoàn xe Mỹ chạy
lên. Rồi nhiều đoàn xe Mỹ chạy về. Cứ mỗi đoàn xe chạy lên, họ chở theo
một ít gia đình về hồi cư, đoàn xe trở xuống họ cho thêm vài gia đình
đi tản cư. Vẫn cứ cảnh người đi người về, không ai còn biết được ở chỗ
nào yên thân hơn chỗ nào nữa. Người ta cứ chạy, còn chạy được là còn
biết mình chưa chết.
Xế chiều hôm đó, Túc lên thăm.
Túc cho biết là đường quốc lộ một ban ngày yên lắm vì có Mỹ gác. Ban
đêm, Mỹ rút về, Việt cộng từ trong núi tràn ra và đi lục soát từng nhà,
bắt thanh niên lên núi theo họ.
Tối hôm đó Thái bàn với tôi, ngày
mai, hai chị em đi bộ về Thủy Dương rồi mượn xe của Túc đi về Thanh
Lam. Đêm đó, tôi không tài nào chợp mắt được.
Lòng tôi nôn nao một cách khó tả.
Lúc này tôi mới thấy lòng con người ích kỷ nhỏ nhen hết sức. Giữa sự
chết chóc đầy rẫy, vì một chút hy vọng chưa đâu vào đâu, tôi đã vui
sướng một mình. Má ơi, má. Nhiều lúc, giữa tiếng đại bác câu ình ình
trong đêm, tôi thoáng nghe mơ hồ như có tiếng con trẻ, trong ký ức bật
ra hay trong sự nhớ thương vọng tới.
Trận đánh đến bao giờ mới tàn
đây. Và thành phố đến hôm nay nữa có bao nhiêu xác chết. Nằm im một chỗ
trong bóng tối, dưới hầm sâu, tôi không có thể hình dung ra sự đổ nát,
tang thương của thành phố. Chừng đó tiếng súng, chừng đó đại bác, chừng
đó bom cũng đã đủ rách nát cả thành phố nhỏ bé, quê hương thân yêu của
tôi rồi. Tôi ngạc nhiên khi nghĩ rằng tại sao tất cả súng đạn, từ Mỹ, từ
Nga, từ Tiệp Khắc bỗng nằm trên tay người Bắc Việt, người Nam Việt, đổ
xuống một thành phố nhỏ bé, hiền lành như thành phố Huế. Bom đạn từ
những nước nào thật xa xôi, với danh nghĩa giúp đỡ miền Nam, viện trợ
miền Bắc, bỗng dưng cùng tập trung vào một thành phố nhỏ, banh thịt trẻ
thơ, cắt lìa tay chân, mặt mũi bao người. Hình ảnh những khúc tay khúc
chân tôi nhìn thấy dọc đường. Những cảnh ái ân vụng trộm giữa tiếng
súng, trong một góc khu giáo đường trang nghiêm đầy rẫy tiếng kêu, tiếng
khóc. Hình ảnh một xác hài nhi bọc trong áo bà mẹ, ôi sự sống, dù sao
sự sống vẫn phải tiếp tục. Như tôi còn thở được trong đêm kinh hoàng này
đây. Không, không phải chỉ một mình Huế, mà hình như trên bao nhiêu
tỉnh khác, cả Sài Gòn, nơi các con tôi, nơi chồng tôi đang sống cũng có
những hình ảnh này nữa. Cũng bom đạn, nhà cháy, tan nát, chết chóc.
Nhưng tôi bỗng nhiên cứ tin chắc rằng không có nơi nào chịu cảnh khổ
cùng cực như Huế, nơi chúng tôi đang chịu.
Trời bên ngoài hình như mưa nặng
hạt hơn. Nhưng tiếng mưa đang cố dệt bức màn êm ái mát lạnh cũng đang bị
rách nát vì hỏa châu, vì súng đạn, vì máu lệ nữa. Tôi nghĩ tới những
ngôi mộ mới lấp đất vội vàng, đêm nay mưa sẽ thấm xuống, mưa sẽ mở mắt
cho người chết, hút thêm chút sinh lực của sự sống chưa kịp tan trong
thân thể bởi cái chết quá bất ngờ. Mưa cũng sẽ rửa tai cho họ nghe nữa,
tiếng thở của đất, tiếng rung chuyển của bom đạn. Đêm nay, còn bao nhiêu
xác chết chưa kịp chôn, chưa ai vuốt mắt, hoặc nằm sấp, hoặc nằm ngửa.
Bao đôi mắt sẽ mở trợn trừng với một hình ảnh nào đó còn dán chặt trên
mặt đất, hoặc còn trong vòm trời cao xám xịt. Thành phố có bao nhiêu con
đường hoặc bao nhiêu nhánh rẽ như tay chân, những cánh tay đó đã chết
rách bung, không còn đủ sức để vỗ về người tìm tới nữa.
Và trong đêm nay, đoàn người gồm
các cha, các sư, dân chúng, bồng bế nhau cầm cờ trắng chạy xuôi chạy
ngược đã tản mát nơi nào? Có bao nhiêu người ở lại dọc đường, có bao
nhiêu khúc chân khúc tay chới với? Vậy mà tôi còn nằm đây. Lạy Phật. Lạy
Chúa. Xin Phật, xin Chúa phù hộ tôi. Tôi chợt hổ thẹn quá. Vì đã bao
năm rồi, có bao giờ tôi nghĩ tới Phật, tới Chúa đâu. Nhưng vô ích, đừng
có hy vọng hão huyền nữa. Tại sao Phật Chúa chỉ cứu một mình tôi, chỉ
thương xót tôi mà không thương xót bao người khác?
Sáng ra, khi thức dậy, tôi bỗng
cảm thấy một sự yên tĩnh đến rợn người. Tôi mò mẫm trong bóng tối. Ngọn
đèn dầu vặn tim thật nhỏ đặt trong góc hầm đã khô dầu tắt từ lúc nào.
Tôi đụng phải những cánh tay, những bàn chân lạnh ngắt. Sao thế nầy?
Không còn ai thở nữa hết sao? Không, tôi vừa đụng phải ngực của ai đó
còn nóng hổi.
“Sáng rồi, dậy.”
Tôi đánh thức mọi người. Má tôi mệt nhọc:
“Tối qua không ngủ được, sáng ra ngủ chẳng biết trời trăng chi hết.”
Thì ra cả đêm qua ai cũng thức.
Thái vùng dậy chui ra khỏi hầm và mở cửa sổ. Có chút ánh sáng tràn vào
làm mờ nhạt bớt bóng tối nhưng chúng tôi vẫn chưa nhìn ra được nhau. Khi
ra khỏi hầm rồi, tôi vẫn còn cảm thấy bị bọc trong một sự im lặng dầy
đặc. Hết đánh nhau rồi sao? Không có tiếng súng nhỏ, không có cả súng
lớn nữa. Thái ra dấu cho tôi dừng lại ở cửa rồi chạy ra đường. Một lát
nó chạy vào:
“Chị, người ta lại đi tản cư. Răng lạ rứa hè?”
“Đi mô?”
“Họ đi về phía dưới, chắc về chợ Mai, Phù Lương.”
Tôi reo lên:
“Mình về dưới Hương Thủy đi.”
“Chị tìm về sở?”
“Ừ.”
Tôi ngỏ ý ấy với má tôi. Lúc đầu
bà cản, nhưng về sau, thấy nhiều người đi về lối Phù Lương quá, bà bằng
lòng để cho chúng tôi đi. Ra đến ngõ, má tôi còn dặn:
“Coi đường đi không được thì trở lui nghe con.”
Tôi phải hứa đi hứa lại cho má
tôi yên lòng. Chúng tôi theo đoàn người tản cư đi bộ về Thủy Dương. Về
tới chợ, chúng tôi ghé vào nhà cậu Giáo mượn xe gắn máy. Nhưng xe hết
xăng, không tìm ra xăng ở đâu để mua nữa. Chúng tôi đành phải tiếp tục
đi bộ. Đi được một đoạn, chúng tôi theo kịp đoàn người phía trước. Cũng
có vài gánh hàng từ dưới đi lên, những gánh rau xà lát xanh non. Thì ra ở
đây, chợ búa vẫn họp như thường. Các vùng này, chỉ có ban đêm, Việt
cộng mới tràn về bắt bớ, chớ ban ngày hoàn toàn an ninh. Tuy vậy, nhìn
vào những thôn xóm, tôi vẫn cảm thấy như có một sự gì ghê gớm, sẵn sàng
bùng nổ.
Thêm một đoạn đường nữa, ngang
qua cánh đồng rộng, chúng tôi phải đi sát vào bờ đường để nhường lối cho
một đoàn xe đang hối hả chạy ngược trở lên. Trên xe đầy lính Mỹ. Thái
kéo tay tôi rạt xuống sát bờ ruộng bỏ không, xấp nước. Đoàn xe này chắc
lên Huế tiếp viện. Chúng tôi đang ở giữa đoàn xe thì một tiếng nổ lớn,
như tiếng súng cối khai hỏa, rồi thì những tràng súng lớn nhỏ bắn từ
trong những chòm cây xanh phía sau ruộng ra như mưa. Đoàn xe đi trước
vừa bắn trả vừa tiếp tục chạy. Đoàn xe sau dừng lại và tất cả binh sĩ Mỹ
đều xuống xe, tràn xuống hai bên bờ ruộng. Chúng tôi vội lăn xuống
ruộng, một nửa người dầm dưới nước lạnh ngắt, đầu kê trên một bờ cỏ ướt.
Thái luôn miệng giục tôi:
“Cúi đầu thiệt sát chị. Cứ nằm yên, đừng có chạy.”
Tiếng súng hai bên bắn trả nhau
như mưa băng qua đầu chúng tôi. Chúng tôi đang ở giữa hai lằn đạn. Tôi
vừa lo sợ vừa hối hận quá. Khi ra đi, má tôi đã can ngăn vậy mà tôi
không nghe. Bây giờ lỡ chết ở đây thiệt là lãng nhách. Nhưng may quá,
tiếng súng phía trong những lùm cây xa dần rồi im hẳn. Họ đã rút. Không
ai bị thương hết, đoàn xe Mỹ chỉ bị hư hại nhẹ và năm phút sau họ đã
tiếp tục lên đường được.
Chờ cho đoàn xe Mỹ đi khuất thật
xa, chúng tôi mới leo lên đường cái. Phía bờ ruộng bên kia cũng có nhiều
người lóp ngóp bò dậy. Họ cũng là những người đi tản cư. Đi được một
đoạn, chúng tôi gặp một người đàn bà gánh xà lát đang bị thương nặng bên
cạnh gánh rau của bà rơi vương vãi. Chúng tôi dừng lại xem xét vết
thương của bà và chưa biết làm thế nào thì may quá, một chiếc xe Lam từ
dưới Phù Lương đi lên. Người tài xế thấy đám đông nhảy xuống hỏi:
“Mới đụng độ khúc ni phải khôn?”
“Vừa mới tức thì nì. Xe Mỹ ngang qua là họ bắn.”
“Xe chạy qua được hết rồi há? Bà ni bị thương răng đây?”
“Nặng lắm. Bác làm phước chở bà ta xuống Phú Bài, nằm nhà thương Mỹ may ra sống được.”
“Thì tui cũng đoán rứa, tui đang
núp dưới nớ, nghe trên ni yên tiếng súng mới lái xe lên coi bà con có ai
bị chi không. Trời, tình cảnh ni mình không thương mình thì ai
thương.”
Bác tài cùng vài người khác khiêng người đàn bà bị thương lên xe. Bác nói:
“Coi ai đi được thì cứ quá giang tui chở. Không lấy tiền nong chi mô. Ngồi chật chật một chút.”
Thái nói:
“Cho chúng tôi tới đằng nớ. Nơi Thanh Lam đó.”
“Lên đi.”
Chiếc xe chạy băng băng. Tôi nhìn
lui lại chỗ vừa giao chiến, không còn dấu vết gì, ngoài gánh rau xà lát
rơi vung vãi. Những đồng ruộng vẫn loang loáng nước và những chòm cây
xa vẫn im lìm ôm kín niềm bí mật. Người tài xế kể chuyện oang oang,
tiếng ông lẫn trong tiếng máy xe nổ nghe khi được khi mất. Đại để ông
cho biết là từ hôm xảy ra đánh nhau, ông đã chở bao nhiêu người bị
thương về Phú Bài rồi. Giữa đường có nhiều người chịu không nổi đau đớn
đã chết, ông chở về làng, ông đem chôn luôn.
Chúng tôi phải hét to rát cả cổ,
người tài xế mới nghe và dừng xe lại, thả chúng tôi xuống Thanh Lam. Tôi
vào sở một mình. Lúc đứng trong chiếc phòng rộng, tôi mới thấy người
tôi ướt lạnh, nước không phải chỉ ứ ra từ quần áo mà như thoát ra từ
trong da thịt tôi nữa. Người tôi cứng lại như một khối nước đá.
Người coi chi nhánh nhỏ của sở chạy ra:
“Trời ơi. Mấy hôm ni quay quắt không biết mần răng mà tìm chị. Mần răng mà chị về đây được. Ngồi đây, ngồi xuống đây…”
Tôi không đủ sức để ngồi xuống
nữa. Tay chân tôi đi đâu mất trọi. Chỉ còn khối óc chưa đông đặc, ra
lệnh cho tôi phát thành lời…
“Anh V, anh biết tin tức chi ở Sài Gòn?”
“À, chị lo cho anh với các cháu
há? Không răng, không răng. Mới túi qua trong nớ gọi ra hỏi tin chị.
Ngày mô anh cũng tới sở đợi tin chị. Chị yên trí đi.”
“Anh nghe chi về gia đình tôi không, các con tôi…”
“Các cháu vẫn khỏe mà. Trong đó
đánh nhau cũng lớn nhưng yên rồi. Chỗ chị ở trong nớ bình an vô sự. Tôi
bảo đảm với chị đấy. Đừng lo.”
Một hơi ấm bỗng bừng lên từ ngực
và lúc này hình như quả tim tôi vừa đập vừa toát ra lửa, ra không khí
nóng ấm. Làn khí ấm áp đó chạy rất nhanh truyền qua mạch máu, tôi đã
chợt nhận ra tay chân của mình. Tôi mấp máy đôi môi:
“Anh nói thật?”
“Tôi cam đoan với chị là gia đình
trong nớ yên ổn hết. Ngày bữa qua trong nớ gọi ra, bắt đi tìm chị mà.
Mà mần răng chị xuống dưới ni được.”
“Tui đi bộ.”
“Chừ chị ở luôn dưới ni để tui tìm cách cho chị vô Sài Gòn.”
Tôi nhớ Thái đang đứng đợi tôi
ngoài đường. Còn má tôi, em tôi, anh chị và các cháu tôi nữa. Không, tôi
phải ở lại, tôi không thể bỏ đi một mình lúc này được. Mà chắc gì ở lại
đây tôi đã yên ổn tìm được phương tiện đi. Ban đêm, ở những đồn, những
sở vẫn là những mục tiêu, những miếng mồi ngon của họ, ở đây cũng nguy
hiểm lắm. Tôi nói:
“Mai tôi trở lại. Bây giờ tôi phải lên An Cựu.”
Chần chờ một lát để nghe chuyện
Sài Gòn, tôi trở ra, mang theo một lít xăng để khi tới Thủy Dương mượn
xe gắn máy mà về Huế cho sớm. Thái vẫn đứng chờ tôi ở một cái quán nhỏ
xế cửa sở. Hai chị em lại đi bộ đến Thủy Dương.
May dọc đường không có chuyện gì
xảy ra. Tới Thủy Dương, hai chị em tôi vào cậu Giáo. Mợ Giáo đã để sẵn
cho chúng tôi một ít rau váng, khoai lang và ít thịt heo. Đổ xăng vào
xe, chúng tôi chở thức ăn về An Cựu.
Tôi kể chuyện về Thanh Lam cho cả
nhà nghe. Khi biết tin mấy đứa cháu ngoại không hề hấn gì, má tôi mừng
đến phát khóc. Nhưng bà vừa mừng cho cháu ngoại đến phát khóc thì sau đó
lại khổ sở lo lắng khóc cho đám cháu nội còn kẹt trên Từ Đàm.
Buổi xế chiều hôm đó, bỗng ở căn
nhà bỏ không bên kia đường có hai người đàn ông lạ mặt tới ở. Trông họ
xanh xao ốm yếu lắm. Họ lần mò sang nhà chúng tôi và xin ở tạm. Má tôi
vừa trông thấy họ đi vào ngõ đã kéo Thái dấu tuốt vào trong góc hầm. Hai
người đàn ông vừa nói chuyện vừa nhìn quanh nhà bằng con mắt láo liên.
Họ cố sửa giọng nói, tôi không đoán được giọng nói bình thường của họ
như thế nào, nhưng những lời họ nói hình như chưa được quen miệng lắm:
“Thưa bác, chúng cháu chạy loạn về đây, bác cho chúng cháu ở tạm ít bữa.”
Má tôi vội vàng nói lấp:
“Dạ nhà chỉ có mấy mạ con. Dạ ở
dưới ni ban ngày lính quốc gia kiểm soát, ban đêm mấy ông giải phóng về
kiểm soát. Nhà lại trống trải, xin mấy anh tìm chỗ khác yên hơn.”
“Sao bác không chạy mà về làm chi?”
Má tôi giả vờ chùi mắt, chỉ vào bàn thờ ba tôi:
“Dạ, ba cháu mới mất xong, mạ con tui cũng không muốn đi mô nữa hết, thôi thì phó mặc cho số mạng.”
“Chị đây là con bác?”
“Dạ.”
“Chắc chị làm công chức?”
“Dạ không. Vợ chồng nó thợ may. Nó về chịu tang, còn chồng nó kẹt lại ở trong Quảng.”
“Chị may đồ đầm hay đồ Việt chị?”
Một tên vừa cười cười vừa hỏi tôi. Tôi trả lời bừa:
“Dạ đầm Việt chi mô. May mấy đồ bà ba cho bà con lối xóm mà mấy ông.”
Một người chỉ một căn nhà phía bên kia đường:
“Tụi cháu ở bên kia bác. Có chuyện chi cần bác sang gọi chúng cháu sẽ sang đỡ đạn cho bác.”
“Dạ, cám ơn mấy anh.”
Hai người đàn ông đi vào nhà, nhìn quanh quất và tiến dần đến miệng hầm. Má tôi vội chạy theo:
“Dạ, các anh ngồi chơi uống nước.
Dạ trong hầm nớ hôi hám lắm. Mấy ngày không ra ngoài được, mấy đứa cháu
nhỏ ỉa đái hôi rình. Mấy anh ngồi chơi.”
Nhưng hai người đàn ông lạ mặt
chào chúng tôi rồi đi thẳng ra ngõ. Họ đi vào căn nhà trước mặt. Đến
chiều tối chúng tôi không còn thấy họ đâu nữa.
Đêm đến, tiếng súng miệt Phủ Cam,
Bến Ngự nổ ròn rã. Đại bác câu về phía đó liên tiếp. Chúng tôi nằm
trong hầm, nghe tiếng đại bác dội lại muốn ù tai. Rồi hai ba tiếng nổ ầm
ầm như căn nhà đã bị văng đi đâu hết rồi. Gạch ngói rơi trên nóc hầm
rào rào. Chúng tôi nằm sát vào nhau, quờ quạng tìm nhau, lúc nào cũng có
cảm tưởng như một người thân yêu nữa sẵn sàng bỏ đi trong đêm tối.
Sáng ra, chúng tôi mới biết là
những cánh cửa sổ được Thái đóng chặt lại, cột bằng giây thép cũng đã bị
văng ra, rơi sau hè nhà. Căn nhà lại sụt ngói, lụi tường thêm một ít
nữa. Chúng tôi ra vườn quan sát chỗ nổ. Hai ba căn nhà cách căn nhà phía
sau hè bị đại bác câu trúng. Chúng tôi phải đi vòng ra đường, vào hẻm
mới tới căn nhà bị đạn. Căn nhà đã hoàn toàn sụp đổ, một lỗ hổng lớn
ngay giữa nền nhà. Cây dứa trước sân bị cắt đứt và mái nhà bên cạnh bị
mấy tấm tôn quạt sang, hư hại một phần ba mái nhà. Không ai chết, chỉ có
vài người bị thương nhẹ vì người chủ nhà này đào hầm ở ngoài sân.
Nhà bên cạnh có một ông già ở lại
giữ nhà, con cháu đã đi chạy loạn hết. Ông già quá, chắc đến trên tám
chục, không đi được nữa. Ông chả đào hầm hố, cứ ngủ trên tấm phản gỗ
nhưng chưa hề hấn gì. Thái và tôi vào căn nhà của ông cụ coi mảnh đạn
văng qua phá nát một vách tường phía mặt. Ông cụ hấp hem nhìn chúng
tôi:
“Răng về rồi hí? Khôn chạy ở đây trúng đạn hết răng?”
Tôi hỏi:
“Thưa ôn, trong nhà đi mô hết rồi?”
“Xuống âm phủ rồi chớ đi mô. Tổ
cha nó, nói đừng có chạy, cả nhà chạy hết, nghe chết mô ở gần trường
Kiểu mẫu hết rồi. Tui còn một mình, già mà không chết, con cháu chết hết
ở với ai.”
Ông đưa mắt nhìn lên bàn thờ,
bình hoa vạn thọ đã héo tàn, mấy bát nhang bỏ không và chén nước trà đâu
từ tối mồng một đã gần cạn đọng một lớp bụi dầy trên màu vàng đặc quánh
đã sắp hóa đỏ. Ông già ngồi trên phản gỗ, cứ đưa tay dụi mắt hoài, tôi
không biết ông bị bụi vào mắt hay đang khóc. Ông ngồi quay lưng ra phía
chúng tôi lầm bầm hoài gì đó. Căn nhà điêu tàn hoang vắng rợn người. Ông
già như một bóng người chết khô chết héo. Trên bàn thờ, bức ảnh một cụ
già móm mém cười, hai mắt đã mất hết màu thiếc ảnh, trắng dã như mắt ma…
Thái và tôi không ai bảo ai, đều thụt lùi đi ra cửa.
Đám đông vẫn còn bu đầy trong
ngoài căn nhà bị trúng đại bác. Thì ra xóm này dân chúng đã trở về khá
đông, nhưng chả ai dám chường mặt ra ngoài, họ đào hầm và sống lẩn lút
bên trong. Thái nói là có những gia đình ở chỗ khác tản cư tới đây, rồi ở
luôn không đi nữa.
Đám đông đang bàn tán bỗng chạy
ào ra đường. Một đám đông khác đang tụ tập đầu hẻm. Thái kéo tôi chạy
ra. Đám đông này đang bu quanh một cô gái nhỏ bị thương nặng. Cô gái
được đặt nằm trên tấm bố cũ, trải trên lề cỏ ướt.
Theo người ta bàn tán, nhà cô nhỏ
này ở trên đường rầy. Tảng sáng, một trái đại bác đã rơi trúng sau vườn
và mảnh đạn ghim vào người cô. Một mảnh đạn đã trúng bụng và đám ruột
lòng thòng chảy ra ngoài. Cả người cô được bao kín bằng tấm mền cũ nhưng
máu thấm ra ướt mèm tưởng vắt thành giọt được. Mặt cô bé tái xanh, hai
mắt mở lờ đờ. Người cha ngồi xổm bên đứa con gái vừa khóc vừa lạy van:
“Lạy bà con cô bác, làm ơn kiếm xe dùm chở con tui xuống Phú Bài cho bệnh viện Mỹ nó cứu.”
Nhưng đường sá chẳng có chiếc xe
nào, trừ những đoàn người tản cư không biết từ mạn nào, kéo về và cứ đi
thẳng theo quốc lộ 1. Thái cúi xuống xem xét vết thương của cô gái rồi
lắc đầu. Một người nói:
“Cứu liền may ra kịp.”
Nhưng cô gái vẫn nằm chờ bên
đường cho tới trưa, cố nhướng đôi mắt đã lạc thần lên nhìn người cha,
nấc lên một tiếng rồi trợn ngược mắt.
Người cha khóc ầm ỹ, ôm lấy xác
con và cứ thế, ông chạy miết dọc theo quốc lộ, vừa chạy vừa la khóc thê
thảm. Mấy người lính gác đồn Trường Bia chạy ra ngăn ông lại, nhưng
không còn ai ngăn nổi ông nữa. Chạy được một quãng, ông ta ngồi lại bên
lề đường đợi chờ từng phút hơi thở con gái yếu dần. Thái nói:
“Thôi vô nhà đi chị.”
Chúng tôi đi trở về, dọc đường, Thái hỏi một đoàn người chạy lại:
“Ở mô về đó bác?”
“Từ Đàm.”
“Bác ở mô?”
“Bến Ngự.”
Thái reo lên và cầm chặt tay tôi kéo chạy. Vào tới nhà. Thái la lớn:
“Trên Từ Đàm tản cư về. Có người về.”
Nhưng khi má tôi chạy ra được thì
đoàn người đã đi xa. Những đoàn người khác tiếp tục kéo về. Họ ở những
vùng khác. Bên phố, trên Bến Ngự, trên ga, Phú Cam. Một người ở Bến Ngự
cho biết là trên Từ Đàm kẹt lắm, bộ chỉ huy Việt cộng vẫn đóng ở đó. Và
quân Mỹ đã dàn tới bên kia cầu Bến Ngự.
Má tôi lại thất vọng. Buổi trưa,
dù có đồ ăn ngon dưới Thủy Dương gửi lên, không ai cảm thấy ngon. Hình
ảnh cô bé với đống ruột lòng thòng chờ chết từng giây từng phút bên lề
đường làm tôi xốn xang.
Khi chúng tôi ăn cơm xong, ở
ngoài đường lại thấy từng tốp lính từ phía quốc lộ đi vào thành phố, qua
An Cựu. Họ mang ba lô, súng ống, người này cách người kia chừng nửa
thước, và hoàn toàn im lặng. Họ không ngó ngang hai bên nhà cửa đường
phố. Thái nhận ra là lính Biệt động quân, rồi một đoàn nữa là lính Nhảy
dù, rồi Thủy quân lục chiến. Dù má tôi ngăn mấ, hắn cũng chạy ra đường,
giơ tay vẫy. Tôi cũng chạy theo Thái. Ở một vài sân nhà khác, cũng có
nhiều người ra đứng giơ tay vẫy và hỏi thăm. Những người lính này như ở
xa đến, người họ còn đầy bụi và có vẻ lo lắng mệt mỏi. Họ mỉm cười trả
lời những bàn tay vẫy, những lời thăm hỏi. Thái ra sát đường:
“Anh ơi, anh ở mô tới đó?”
“Tụi này ở Sè gòng mới ra.”
Một người vừa trả lời vừa đi. Người đi tiếp theo thò tay vào ba lô lấy ra hai hộp nhỏ liệng vào chân Thái:
“Biếu bạn. Mừng bạn còn sống.”
Người đi tiếp theo lôi ra một gói thuốc, người tiếp theo nữa lại liệng thêm ít đồ hộp. Tôi chạy theo trả lại:
“Các anh cầm đi mà ăn, còn đánh nhau nhiều mà.”
“Thôi cô cầm đi. Chúng tôi biết có sống mà ăn không! Đi quyết tử mà.”
Vài nụ cười, vài cái nhún vai.
Tôi đứng sững người nhìn theo. Mấy hôm nay có nhiều tin tung ra: lính
tới vùng nào an ninh là vơ vét, chở đồ của dân bỏ lại chạy loạn. Người
ta hối hả trở về để giữ của, và vì sự vội vàng mà nhiều người chết oan.
Nhưng đoàn quân này sao khác hẳn. Một thỏi kẹo nữa văng tới chân tôi.
Tôi không còn đủ sức cúi xuống nhặt nữa.
“Mừng các bạn còn sống.”
Mấy người lính đi sau tiếp tục la
hét. Những bàn tay vẫy đưa trả lại, những nụ cười chào nhau tiếp theo.
Đoàn lính đi qua dần, tôi đã cúi xuống được, cầm chặt thỏi sô cô la
trong tay và bóp vụn nát lúc nào không biết nữa. Chưa bao giờ tôi nhìn
thấy những người lính dễ thương như thế. Họ là lính miền xa đến để chết ở
Huế. Họ người Sài Gòn, người Bắc di cư, người các tỉnh miền Nam, miền
Trung, miền Bắc. Họ đến để chết với Huế. Trời ơi, tôi nghĩ tới những
người lính địa phương, một số đã bỏ đồn chạy về ngay từ hôm đầu, một số
đợi hơi yên là xổ ra, đi vác gạo, đi vào những căn nhà bỏ không lấy đồ.
Những món ăn béo bở Việt cộng đã khuân đi từ mấy ngày đầu xẩy ra biến
loạn, những món cặn thừa còn lại dành cho kẻ thừa nước đục thả câu. Tôi
đã thấy hai người lính khiêng chiếc xe Honda, vài người khác khiêng tủ,
khiêng ghế, hoặc bọc những vật dụng lấy trong các nhà đổ nát, còn hôi
rình xác chết. Thái đã ôm mấy hộp đồ lên tay và giục tôi trở vào. Khi
nghe kể chuyện, má tôi cảm động muốn khóc.
“Tội nghiệp, lấy của họ mần chi, để họ ăn cho có sức mà đánh.”
Dì Vạn cứ suýt soa hoài:
“Họ tốt quá hí. Rứa mới biết là
họ dễ thương chớ mô có như mấy thằng mắc dịch ở trong xóm, ăn cắp, thừa
nước đục thả câu mà. Tụi nó lại sống nhăn mà mấy anh đó lại cực khổ dầm
vào chỗ tên đạn mới tội chớ.”
Có tiếng súng ở xa xa vọng lại
rồi. Chắc lại đánh nhau. Tôi nghĩ tới những người lính vừa liệng cho
chúng tôi những hộp thịt, những thỏi kẹo. Họ cười đó, nhưng lúc này đã
có người ngã xuống. Huế sẽ làm gì cho họ trong những ngày sắp tới.
Không, Huế cũng đã trơ xương da rồi, tan nát hết rồi. Nhưng chắc chắn
Huế sẽ còn, dù bằng tàn lửa, bằng tro nguội, bằng xương người. Các anh
sẽ có người còn sống còn trở về lại quê nhà và còn trở lại để giữ Huế.
Thái đã đốt một điếu thuốc. Nó
thả khói thành những vòng tròn, đốm lửa đầu thuốc lập lòe khi thu nhỏ,
khi bùng lớn, như nỗi hy vọng đang dần dà phấn khởi rồi thắt lại trong
hồn tôi.
Đúng lúc ấy, tôi bỗng bàng hoàng vì có tiếng động ngoài sân. Rồi có tiếng gọi:
“Má ơi.”
Giọng con gái. Má tôi ngồi rột
dậy. Cả nhà túa ra miệng hầm. Má ơi, má ơi, má ơi, má ơi… Tiếng gọi má
ơi không dứt. Cánh cửa mở tung. Chiếc xe đạp rơi bịch xuống đất và Hà
nhảy xổ vào nằm gọn trong lòng má tôi: Má, má, má…
“Con, con… Ui cha con Hà. Ba hồn bảy vía con Hà… Con về được, con về được.”
Tôi chợt nhìn ra sân, một ông già mặc áo dài đen, đang đứng cầm ghi đông xe đạp nhìn vào nhà mà mỉm cười.
Má tôi kêu lên:
“Ôn Minh. Ôn về răng rứa?”
Rồi má tôi khóc, khóc sung sướng, khóc ồn ào:
“Ôn ơi, ôn vô đây. Ôn vô đây ôn.”
Ông già bình tĩnh dựng xe đạp,
vuốt lại vạt áo dài đen rồi bước lên từng bực cấp đi vào nhà. Má tôi vẫn
còn ôm chặt cứng Hà trong tay. Ông già mà má tôi gọi là ôn Minh chỉ vào
Hà:
“Tui đem con lỏi xuống cho bác đó. Mấy hôm ni hắn đòi đi, hắn hành tui bất tội thân mà.”
“Ông đem con xuống đó má.”
Ông Minh vừa ngồi xuống ghế vừa nhìn quanh nhà:
“May phước, nhà không bị hư hại chi nặng hết.”
Má tôi vừa giục tôi pha nước vừa hỏi:
“Ôn ơi, tụi còn ở trên ra răng ôn?”
“Không răng. Tụi nó còn ở trên.
Thầy Lễ thầy nóng lòng lắm, cứ nhất định đòi đi xuống dưới ni tìm bác.
Tui phải cản. Hai ôn con tui ngày mô cũng tìm cách đi xuống dưới ni mà
đi khôn được đó chớ.”
“Có đứa mô bị…”
Má tôi dừng lại, mặt tái xanh chờ đợi. Ôn Minh uống một ngụm nước:
“Không răng. À, chỉ có con Hy bị trúng một miểng đạn vô chân. Mà không răng, trên đó có mấy tên y khoa, hắn băng bó cho rồi.
Nhờ có ông già mặc áo the đen và
Hà thuật lại, tôi biết thêm rất nhiều về tình hình trên Từ Đàm. Gia đình
anh tôi phải bỏ sang lánh nạn bên nhà thờ cụ Phan. Xung quanh đã gần
tan tành hết. Chùa Từ Đàm nơi chính diện cũng sập mái, nhà giảng thì bị
đại bác câu tới tấp, tan tành. Mấy ngày đầu, Việt cộng chiếm chùa để trú
ngụ và tạm thương, nhưng về sau họ rút dần lên phía trên núi, chỉ có
cắt quân canh gác và đào hầm chiến đấu. Ôn Minh cho biết hiện ở chùa có
hàng trăm người tỵ nạn và xung quanh đó, nhiều nhà đã sập hoàn toàn. Con
đường từ nhà thờ cụ Phan xuống tới cầu Bến Ngự, hai bên nhà cửa không
còn một căn nguyên vẹn. Gia đình anh tôi chạy qua hết bên nhà cụ Phan
cùng với nhiều gia đình và những người tỵ nạn khác. Hà chỉ vào ông già:
“Chị biết ai đây không? Ông Võ Thành Minh đó.”
Thấy tôi ngơ ngác, nó nói thêm:
“Ông là người thổi sáo bên hồ Genève phản đối chia đôi đất nước hồi 54 tề, chị.”
Tôi nhìn ông già, ông đang bận kể chuyện cho má tôi nghe. Hà nói tiếp:
“Ông Minh mà chị không biết há? Ông còn tên là Võ Song Thiết đó.”
Tôi hỏi nhỏ:
“Bây giờ ông làm gì?”
“Ông giữ nhà thờ cụ Phan, ông là
đồng chí của cụ Phan mà chị. Mấy ngày đánh nhau, nhờ có ông mà nhiều
người khỏi chết đó nghe. Vui lắm.”
Tôi trợn mắt:
“Mày nói vui? Trời ơi, chết như vậy mà mày nói vui sao?”
“Ông Minh nói ở hoàn cảnh mô,
mình cũng cố gắng vui sống. Ông Minh có sợ chết mô. Ông đi hoài cả ngày
chị. Ông đi phát gạo, đi tải thương, đi thăm các nơi…”
Tôi nhìn kỹ ông già. Ông mặc áo the đen, quần vải trắng, đầu đội chiếc mũ bê rê đen.
Không biết má tôi kiếm đầu ra
trầu mà bà đem ra mời ông nhai trầu bỏm bẻm. Khuôn mặt ông thông minh,
hiền lành. Nhìn ông, người ta dễ bắt nhạy cảm tình hơn là nghi kỵ, dò
xét. Hai chiếc xe đạp vẫn còn ngoài sân. Mưa phùn vẫn chưa dứt và tiếng
súng vẫn vọng xa xa. Má tôi lại hỏi:
“Ôn đi ngả mô xuống đây?”
“Hai ôn con tui đi cùng các
đường. Mấy bữa ni rồi. Có bữa đi xuống quá Lầu Đua Ra lại thấy đánh
nhau, bắn nhau quá phải trở về. Con Hà nó nóng ruột lắm.”
Má tôi đưa đôi mắt đầy trách móc nhìn em gái tôi. Nó cúi đầu và hơi mỉm cười.
Ông Minh tố thêm:
“Biểu nó ở nhà đố nghe đi. Ôn đi
là con đi với, con đi với ôn. Mấy ngày trước, hai ôn con lên núi Ngự
Bình coi đánh nhau, định tìm đường về dưới ni nữa. Gặp lúc họ đánh nhau,
đại bác câu lên núi yểm trợ ầm ầm, hai ôn con lăn từ giữa lưng chừng
núi lăn xuống, rồi nằm vùi nơi một hố bom. Khiếp thiệt. Rứa mà con Hà
hắn thích lắm. Con ni gan nó là gan cách mạng mà.”
Má tôi chăm chú nghe ông Minh kể, khuôn mặt lúc tái lúc vui. Bà thở ra khi nhìn Hà đang nhìn bà mà cười:
“Mi thiệt á!”
“Ừ, hai ôn con lên Lầu Đua Ra, lấy được đôi giày còn mới nguyên.”
“Dễ sợ quá ôn hí. Cả Lầu Đua Ra toàn máu khôn à.”
“Khỉ, rứa mà cứ đi. Con ni thiệt…”
Có lẽ sợ má tôi lo lắng, Hà nói lơ sang chuyện khác:
“Ôn nì, chị con đây ôn nì.”
Tôi lại phải gật đầu chào ông
Minh. Vừa gặp ông, tôi đã có cảm tình ngay. Nhớ những lời lẽ do người
thanh niên tránh nạn về kể lại bữa trước, tôi không thấy xa lạ với ông
chút nào hết.
“Hà nó noái chuyện về chị luôn đó.”
Tôi cười:
“Ôn ơi, ôn đừng gọi con bằng chị nữa. Coi con như Hà rứa.”
Ông Minh gật đầu:
“Phải đa. Rứa cho nó dễ gọi. Tội nghiệp, con ra đây mắc kẹt phải không?”
“Dạ.”
“Mấy con rồi?”
“Dạ hai.”
“Tội nghiệp.”
Hà chen vào:
“Ông Minh nghệ sĩ lắm nghe chị. Ở
trên Từ Đàm đánh nhau, bắn nhau rầm rầm mà ôn cứ họp thanh niên trốn
trong nhà thờ cụ Phan lại đàn hát cả ngày.”
Tôi hỏi:
“Quân giải phóng để yên cho ôn làm ồn vậy răng?”
“Mấy ngày đầu cơ chớ. Về sau thì
lo mà trốn cho kỹ. Ôn noái mấy anh thanh niên xuống cầu Bến Ngự đòi
tuyệt thực phản đối chiến tranh.”
Tôi tức cười:
“Ôn nói chơi.”
Hà nháy mắt ra dấu bảo tôi đừng nói nữa. Rồi nó quay sang ông Minh:
“Ông cho chị con coi cái giấy do Mặt trận giải phóng cấp cho ông đi đường.”
Ông cười hiền hòa:
“Hà, mi noái tầm bậy. Giấy đó ăn
thua chi. Tao đi bên mô cũng được vì tao có làm nô lệ cho ai mô. Tao
chống hết, chiến tranh là tao chống.”
Hà mách tiếp:
“Ôn còn viết thư phản đối Hồ Chí Minh, cả tổng thống Mỹ và kêu gọi thế giới nữa.”
“Tao mần một mình mà ăn nhằm chi. Rứa nhưng cũng cứ mần, phải không con?”
Ông đưa mắt sang tôi và mỉm cười. Tôi gật đầu. Ông nói tiếp:
“Con có dám ra cầu ngồi phản đối chiến tranh với ôn không?”
“Ôn nói dỡn hoài.”
Má tôi lại chen vào:
“Ôn làm răng đưa Lễ với vợ con nó về dưới ni giùm đi ôn!”
“Thì ôn con tui đang dò đường đi
đây nì. Khó thoát lắm. Bữa ni phải đi vòng Lầu Đua Ra, rồi vòng xuống
ngã đường rầy không được. Hai ôn con lại vòng ngã Tây Thiên. Trên rứa,
đại bác như mưa rứa, đi miết lên Tây Thiên mới ngớt tiếng nổ.”
Thấy nước mắt má tôi chảy dài, ông an ủi:
“Có người ta có mình. Còn tui thì không lo chi hết nghe.”
Hà thêm:
“Chị đi ra ngoài xe đạp ôn a tề.
Đó, có cái bị đựng gạo. Bao nhiêu gạo tốt, ôn đem phát hết rồi, đó toàn
là tấm khôn đó thôi. Thôi thì cả ngày ôn đi phát gạo, đi tải thương. Ôn
chỉ có cái xe đạp đó.”
Chiếc xe đạp của ông được dựng
bên cái cột bằng giàn hoa, trên ghi đông treo lủng lẳng một cái bị bằng
vải căng tròn. Tôi nhìn lại ông, ông bỏ cái mũ ra rồi lại vội vàng đội
lên đầu:
“Thôi, chắc tui phải đi. Phải lên lại Từ Đàm.”
Má tôi nài nỉ:
“Ôn ở lại ăn cơm đã rồi lên. Chừ nghe mô đang đánh nhau mà ôn.”
“Đánh nhau kệ cha chúng. Tui lên.
Coi chiều ni còn đi tải thương nữa. Đi tải thương nì, đi kiếm thức ăn
nì, trên nớ tụi nó hết đồ ăn rồi.”
Hà nói:
“Khi mô ôn xuống?”
“Mơi.”
“Mơi ôn xuống, con lên lại với ôn hỉ.”
Má tôi nạt:
“Mi tưởng chuyện giỡn há, răng mà đòi đi.”
Ông Minh bênh Hà:
“Can chi, sống chết có số cả mà bác. Con ni dạn lắm nghe. Tui mà còn làm cách mạng, tui cho nó theo liền.”
Má tôi nể ôn Minh, làm thinh. Hà dặn đi dặn lại: mai ôn nhớ về. Tôi và Hà đưa ông ra tận ngoài ngõ:
“Thôi bây vô đi. Đứng ở ngoài nguy hiểm lắm.”
“Ôn ơi, lên tới, nói cho anh con biết kẻo anh con lo nghe ôn. Noái má con với cả nhà ở dưới ni yên lành hết.”
“Ừ.”
“Ôn nhớ mai xuống nhe ôn!”
“Ừ.”
Ông leo lên xe đạp và đạp đi, chiếc áo đen khuất dần nơi nghẹo. Hà ngẩn ngơ. Tôi nói:
“Thôi vô.”
“Dưới ni yên quá chị hỉ!”
“Ừ yên.”
Tôi không nỡ kể cho em tôi nghe
về những trái đại bác câu lạc lúc gần sáng. Tôi cũng dấu luôn chuyện
đụng độ mỗi ngày xảy ra trên quốc lộ. Chỉ cần sau ruộng, sau xóm có một
vài phát AK, hay vài quả B40 bắn ra là cả con đường này có thể tan tành
hết. Ngay ngày đầu tiên nổ súng, quân Mỹ cũng lên được tới An Cựu coi
tình hình để rồi sau đó về nằm yên một nơi cho Việt cộng hoành hành. Khi
đi ngang qua khỏi nghẹo, một phát súng ở đâu phía sau Miểu Đại Càng bắn
ra. Đoàn quân Mỹ dừng lại, một vài người Mỹ đi vào nhà gần nhất lôi ra
một thanh niên. Anh này biết nói tiếng Anh, là một giáo sinh trường sư
phạm Quy Nhơn về thăm nhà. Anh đưa giấy tờ, nói chuyện với người Mỹ.
Nhưng họ đâu cần biết. Một phát súng nổ, người thanh niên tội nghiệp ngã
xuống đất, co dúm người lại. Người Mỹ leo lên xe lái về Phú Bài. Trong
căn nhà gần đó, mọi người đổ túa ra ôm lấy xác thanh niên khóc lóc. Một
vài anh giải phóng đang đóng quân trong những nhà mặt sau tiến ra:
“Đả đảo quân Mỹ tàn ác giết dân.”
“Chúng tôi xin chia buồn. Đây là một cái chết anh dũng, một người vì dân vì nước.”
Một lá cờ màu mạ nhỏ được đắp lên
mặt người chết. Một lúc sau mọi người rút đi hết. Chỉ còn thân nhân của
xác chết vẫn chưa ngớt gào khóc, nhưng rồi tiếng khóc của họ cũng chìm
dần trong tiếng súng nổ ran bốn phía. Còn nhiều nữa, làm sao tôi có thể
kể cho em tôi nghe hết. Mới mấy ngày trước đây, quân Mỹ mất một khẩu
súng đã giật đổ một căn nhà lầu. Mới mấy ngày trước đây, dãy nhà bên kia
đường có một gia đình mới về. Đêm hôm đó quân giải phóng về bắt người
chủ gia đình đi mất. Người này làm gác dan hay giữ xe gì đó cho một chi
nhánh cảnh sát. Ông ta đã già và chắc tới nay đã ra người thiên cổ. Hà
vẫn đi bên tôi trở vào nhà. Nó hỏi:
“Nhà mình đào hầm chưa?”
“Không đào hầm thì chết rồi. Ngày nào cũng có đạn lạc, có đại bác rơi gần. Ở đây mới yên có mấy ngày nay.”
“Trên nớ dễ sợ lắm. Chị biết
không, đại bác rơi như không ngừng, rồi máy bay. Bữa trước có mấy người
chết, người ta sợ quá đem ra vườn chôn. Máy bay bắn xuống như mưa, sợ
quá.”
Má tôi đã đón ở cửa. Khi chúng tôi vừa lọt vào cửa là bà đóng chặt cửa lại.
Thái cũng ở trong hầm bò ra:
“Chào chị Hà.”
“Ủa, khi hồi tới chừ mi ở mô?”
“Trốn ở trong hầm.”
“Răng mi không ra?”
“Ra sợ lắm. Biết chị ra răng mà ra. Lỡ chị là người của giải phóng thì răng.”
“Đồ con khỉ. Tao về mà mi không mừng.”
“Em nói chơi đó chớ. Nghe tiếng
chị là em mừng bất chết. Nghe có tiếng đàn ông, em tưởng nhiều người em
sợ. Mấy hôm ni, túi họ về bắt người dữ lắm nghe chị. Cứ có tiếng cú rúc
là họ về.”
“Ủa, răng giống trên nớ rứa? Trên nớ đêm mô cũng nghe toàn tiếng cú rúc. Dễ sợ lắm.”
“Mật hiệu của họ đó.”
Má tôi vẫn chưa hết thắc mắc:
“Mà răng họ để cho con đi?”
“Mấy bữa đầu họ cấm, về sau đại bác bắn lên quá, họ để ai đi thì đi. Đàn ông thanh niên đi, họ mới bắt.”
Tối hôm đó, mấy chị em nằm cạnh
nhau, Hà kể chuyện Từ Đàm, cho biết tất cả chùa đều bị sập. Quân giải
phóng treo cờ làm trụ sở chính ở chùa Linh Quang, và tổ chức những buổi
học tập tại đó. Mấy ngày đầu không ai được ra khỏi nhà. Ở trong nhà làm
hầm, ở ngoài quân giải phóng đào hố cá nhân, không khí có vẻ khẩn cấp
lắm. Nhưng mấy ngày đầu hoàn toàn được yên tĩnh, không ai lo sợ mấy, đến
khi đại bác câu tới, dân chúng mới hoảng hốt đi tản cư. Nhưng ra đường
là chết. Tôi hỏi họ có treo cờ đỏ sao vàng không. Hà nói chỉ có cờ máu
mạ. Ngay ngày đầu, họ đã hô hào hạ hết “cờ ba que” xuống và kiếm vải may
cờ máu mạ. Thái hỏi thăm về đoàn cán bộ xây dựng nông thôn đóng ở
trường học mấy hôm trước Tết. Hà ngao ngán: Tụi đó nó chạy đâu mất hết
từ khi có tiếng súng nổ, vất đồ lại lung tung. Khi em lên tới thì không
có chi nữa. Hà tả cho tôi nghe những cô nữ cán bộ. Các cô này đi thăm
dân, vào từng nhà hỏi han, nhưng các cô vào nhà ai là làm cho trẻ con,
bà già sợ rụt lưỡi lại. Hà kể cho tôi nghe chuyện bà xếp Mập. Nó nói:
“Buồn cười lắm chị. Mấy người
giải phóng bầu cho bà xếp làm mẹ giải phóng. Chút chi họ cũng gọi mẹ
giải phóng. Bà sợ họ lắm. Cứ mỗi lần gặp họ vô nhà là bà tíu tít: Mẹ
giải phóng, mẹ giải phóng. Các con xức chút dầu với mẹ. Bao nhiêu chai
dầu Nhị thiên đường bán nơi quán của bà, bà cho hết. Cứ thấy mặt họ là
bà ngã lên xuống sứt mặt sứt mày hết.”
Tôi hỏi Hà có sợ không, nó nói sợ
thì có sợ, nhưng mấy ngày đầu, nhờ có ông Minh nên vui lắm. Ông họp
thanh niên lại hát hỏng đờn ca ở nhà thờ cụ Phan. Ông đòi viết thư phản
đối chiến tranh. Mấy ngày đầu không có tiếng súng, ông ngồi đánh máy chữ
lóc cóc rồi tổ chức hát. Ông nói rằng hát như thế mới bớt thì giờ trống
để lo sợ. Hà cho biết là khi qua bên nhà thờ cụ Phan thì gặp bà vợ ông
giáo sư Lê Văn Hảo, người được quân giải phóng đưa ra làm thị trưởng
Huế. Tôi tò mò hỏi thăm. Hà cho biết là bà ta nói là trước Tết, ông Hảo
bảo bà mua ít gạo thức ăn dự trữ, chứ không cho bà biết gì hết. Trái với
lời của người thanh niên thuật lại, Hà nói bà Hảo rất dễ thương, bà còn
có đứa con tên Nai. Ông Minh hết lòng giúp đỡ bà ta. Bà Hảo cũng như
những người đàn bà sợ súng đạn và nhát gan. Bà chẳng rõ gì công việc của
chồng hết.
Má tôi nói làm thế nào cũng phải
đưa anh Lễ và gia đình về dưới này. Hình như Mỹ đã tiến tới cầu Nam
Giao. Hai bên đang hầm hè nhau và cùng giữ thế thủ. Nếu để họ đánh nhau
thì bao nhiêu dân còn lại sẽ chết hết.
Hà nói:
“Mai ôn Minh về, con lên Từ Đàm.”
Má tôi làm thinh. Hà nói:
“Chị lên với em không?”
Tôi không hứa với Hà, tôi đang ở
trong tình trạng vô cùng nguy hiểm. Nếu họ biết tôi, họ tìm ra tôi, chắc
chắn tôi cũng sẽ bị bắt đi như bao nhiêu người công chức khác. Thái
hỏi:
“Đi ngả mô?”
“Đi ngả núi Ngự Bình. Trên đó
trống không, họ rút cả rồi. Bữa trước em với ôn Minh đi lên thấu núi Ngự
Bình đứng coi hai bên bắn nhau. Đại bác câu tới, sợ quá lăn xuống núi,
còn đầy dấu nơi tay em đây nì chị. Em đi với ôn tới Lầu Đua Ra nữa. Toàn
máu là máu, có xác chết thúi rình…”
“Chị đi rứa có thấy xác Mỹ không?”
“Phía sau Lầu Đua Ra, tao có thấy một hai xác chi đó. Nó trương lên rồi, coi dễ sợ lắm.”
Hà đưa tay sờ vào tường hầm, nói:
“Hầm như ri dễ sợ lắm. Làm lại hầm đi. Ở đây yên rồi nhưng sợ đại bác câu lạc trúng thì chết hết.”
Má tôi nhớ lại mấy trái đại bác hồi tảng sáng làm sập nhà, chết người, bà thở dài:
“Lấy chi ra mà làm hầm.”
Hà nói:
“Mai con lên trên nớ, con mua bao cát về cho. Trên nớ bán thiếu chi.”
Thái cũng chen vô:
“Trên bác con còn một ít, để mai con lên trên, con hỏi anh Bé.”
Chúng tôi lại bàn việc đào hầm.
Hà nói không nên làm hầm trong nhà, nguy hiểm lắm. Nhỡ nhà sập, hầm
không sập cũng không thể có lối ra, dám bị chết nghẹt lắm. Cuối cùng,
chúng tôi bàn mai sẽ đào hầm ở ngoài sân. Má tôi nói: Thôi chị em bây
ngủ đi. Hà ôm lấy tôi, tôi cũng vòng tay ôm lấy nó. Thật là may mắn,
trong khi bao nhiêu người chết, bao nhiêu gia đình tan nát, chị em tôi
còn được nằm cạnh bên nhau. Mải nói chuyện, chúng tôi quên cả tiếng súng
vẫn ỳ ầm khi gần khi xa. Một lúc sau, Thái nói:
“Bắn dữ quá chị.”
Hà góp:
“Dữ chi mà dữ. Trên đó cứ nổ ình ình bốn phía, lúc nào cũng như sắp nổ trên đầu mình.”
“Rứa Việt cộng có chết không?”
“Có chớ răng không. Mình ở trong
nhà, trong hầm tốt mà còn chưa chắc yên, huống chi họ ở trong cái hố nhỏ
xíu. Trước nhà mình còn có một tên giải phóng gác.”
“Có nói chuyện với em không?”
Hà làm thinh. Má tôi gắt nhỏ:
“Ngủ đi chớ bay, nói chuyện hoài răng. Ngủ đi, sáng mai lấy sức mà đào hầm mới.”
Tôi nghĩ tới anh tôi, lúc này
đang cùng vợ con ở trong căn hầm tối tăm, và biết đâu đêm nay, quân Mỹ
Việt sẽ tấn công lên Từ Đàm. Chỉ một giờ, một phút qua, mọi sự có thể
thay đổi hết. Biết đâu ngày mai em tôi không còn trở lên trên đó được
nữa. Cũng như tôi, biết đâu bây giờ đang ở vùng đã yên, mà sẽ không còn
được trở vào Sài Gòn để gặp chồng con nữa.
Nhưng rồi tôi cũng chẳng còn đủ
sức để nghĩ tiếp. Tôi nhắm mắt và ngủ êm trong tiếng đại bác đang nổ tới
tấp, cày nát một thành phố thơ mộng, đẹp đẽ.
Chương 9: CON CHÓ GIỮA DÒNG
Chỉ một đêm ngủ dậy, sáng ra,
đường sá bỗng náo nhiệt hẳn. Lính từ dưới Phú Bài theo quốc lộ 1 lên
nhiều lắm. Họ đi bộ và vẫn cứ đi dọc từng người, đeo ba lô. Họ vừa đi
vừa nhìn xung quanh, hai bên đường, và mỉm cười chào những người đang
đứng nhìn theo họ. Không biết dự trữ từ bao giờ mà một bà già đã bày một
rổ giá đựng thuốc lá ra bán ở góc nghẹo Ðường Nay. Vài anh lính dừng
lại:
“Mẹ bán cho con một gói Ru by đi mẹ.”
“Các anh muốn gói mô cứ lấy. Tui có biết Ru by là thuốc chi mô.”
Một giọng hỏi:
“Vậy thuốc đâu mà mẹ bán vậy mẹ?”
“Há? Thuốc mô há? Thì tui tản cư
về đây, tui thấy người ta bỏ lại có cái giá bán thuốc ni dưới gầm
giường. Thấy mấy anh đi qua, tui bày ra bán kiếm ăn.”
“Mẹ lấy bao nhiêu?”
“Biết chi mô. Mấy cũng được.”
Người lính móc ví lấy ra tờ giấy hai trăm đưa hết cho bà già. Bà ta ngẩn ngơ:
“Nhiều ri! Mấy chục mà.”
“Mẹ cầm hết mà tiêu.”
“Khôn, khôn. Mấy anh đi đánh giặc, cầm lấy mà mua thức ăn. Tui biếu không đó…”
Vài người dừng lại, họ vất ra một
trăm, hai trăm lấy thuốc. Chỉ một lát, thuốc lá hết sạch. Bà già cầm
một nắm tiền toàn giấy trăm chạy theo mấy anh lính:
“Mấy anh ui, tui không lấy tiền. Cho chi mà diều ri nì…”
Mấy cái đầu quay lại, cười:
“Mẹ giữ mà mua thức ăn. Tụi con biết sống chết ra sao.”
“Ði tới đầu đạn mà mẹ.”
“Chúc mẹ may mắn…”
Ðoàn đi trước đã bỏ bà già quá
xa, đoàn lính sau tiếp tục đi đến, thấy một bà già vừa chạy vừa kêu,
không hiểu chuyện gì. Họ lại móc trong ba lô ra những đồ hộp nhỏ, liệng
tới chân bà già:
“Bà đói hả? Ðây, cầm lấy mà ăn.”
“Bà còn con cái chi không?”
Nhiều tiếng thăm hỏi. Nhiều hộp
nhỏ rơi tới chân bà. Bà chưa kịp nhặt thì có mấy đứa trẻ con ở đâu chạy
ra nhặt hết. Mấy anh lính nạt đùa:
“Ê nhường cho người già cả với tụi bây.”
Bọn trẻ ù té chạy. Mấy cái hộp được trao tận tay bà già. Vài anh ân cần:
“Thôi bà trở về nhà đi, đừng chạy theo mà nguy hiểm lắm.”
Ðoàn lính lại tiếp tục đi. Thái
và tôi đứng ngóng xem có đoàn người nào tản cư về không. Nhưng chắc thấy
lính Mỹ lên nhiều quá, họ không dám đi nữa. Má tôi rối rít giục làm
hầm, bà quên là chúng tôi chưa có một bao cát nào. Ðoàn lính đi tới gần
trưa mới hết. Chúng tôi yên tâm dọn ra bàn ăn. Lâu lắm mới có một bữa ăn
đàng hoàng như thế. Dưới mợ Giáo vẫn tiếp tế thức ăn lên đều đều. Hôm
nay chúng tôi có món thịt kho với đu đủ sống. Dì Vạn hà tiện thức ăn,
kho thiệt mặn, nhưng chúng tôi ăn vẫn thấy ngon như thường. Má tôi hỏi
thăm ở trên Từ Ðàm ăn uống ra sao thì Hà nói nhờ có ông Minh nên ăn uống
sướng lắm. Ôn đi về là có thịt có rau. Nhưng mấy hôm nay đánh nhau quá,
ông bận đi tải thương, nhà lại hết thức ăn, mấy đứa nhỏ đã bắt đầu
khóc.
Ăn cơm xong, Thái đi bộ xuống tận Mù U, nghe nói dưới này có họp chợ. Nhưng chỉ mới tới Trường Bia thì đã bị lính đuổi lên.
Ông Minh giữ đúng lời hứa, ông về
lại thật. Ăn cơm xong, chúng tôi sửa soạn nghỉ trưa thì ông dắt xe đạp
vào sân. Cả nhà ùa ra đón ông vào nhà:
“Sao ôn, tụi trên nớ răng?”
“Yên hết, không răng hết. Thầy Lễ nghe tìm được ra bác với cả nhà, thầy mừng lắm.”
Hà lăng xăng:
“Con lên với ôn. Ðường ra răng ôn?”
“Thì vẫn đi ngả núi. Bắn nhau quá chừng. Tao phải cột hai vạt áo lên vác xe mà chạy.”
Hà có vẻ hứng khởi:
“Con đi với. Con sửa soạn đi với ôn nghe má.”
Má tôi lo lắng:
“Liệu đi được không con?”
“Ðược, được mà.”
“Rứa răng Lễ nó chưa về?”
“Ði được là người tay không chân rời, chớ nó vợ con đùm đề, lại con Hy bị thương mần răng mà đi.”
Rồi ông nói tiếp:
“Hà sửa soạn đi. Vân rót cho ôn chút nước.”
Dì Vạn hỏi:
“Ôn có đem gạo theo phát không?”
“Có chớ. Có cái túi đó.”
Hà đã sửa soạn xong, nó dắt xe
đạp ra rồi cùng với ôn Minh đi lên Từ Ðàm. Má tôi lấy một ít thức ăn bắt
Hà đem lên trên đó. Hà nói tối về thế nào cũng có bao cát. Vậy là Thái
với tôi kiếm chỗ đào hầm. Chúng tôi định đào ngay trước sân. Thái bắt
đầu công việc. Chúng tôi phá cái hầm cũ làm thành cái hầm mới khác.
Buổi chiều hôm đó, Hà về một
mình, không có ông Minh, nó cũng không đem theo xe đạp. Ði theo nó có
hai người sinh viên, mặt mày xanh xao, tóc tai rối bù như người sống từ
một nơi thiếu ánh sáng mặt trời đã lâu. Hà nói:
“Ðây là mấy anh sinh viên, anh Chữ với anh Hát.”
Má tôi hỏi:
“Làm răng mấy anh đi được mà Lễ chưa chịu đi.”
Hà kể:
“Trốn đi đó chơ má. Họ canh dữ
lắm. Anh Lễ đi thì họ biết liền. Con phải giả vờ đi vô đi ra cả chục
lần, rồi mới đem mấy anh đi được.”
Thái hỏi:
“Rứa họ không thấy hay răng?”
“Có, có cái tên gác trước cửa trông thấy. Tao sợ bất chết, sợ nó bắn. Nhưng thấy nó không nói chi cả. Nó nhìn theo.”
Thái đùa:
“Chị có nháy mắt với hắn không?”
“Khỉ, sợ bất chết còn chọc. Mà tên đó còn trẻ, hắn tử tế lắm.”
“Hắn có khi mô nói chuyện với chị không?”
“Không, ít lắm.”
“Nó nhìn chị không?”
“Khỉ.”
“Rứa là nó mê chị rồi.”
Hai sinh viên gượng cười. Má tôi mời:
“Mời vô trong nhà, đừng đứng ngoài ni mà họ dòm ngó.”
Hà đi dẫn đầu:
“Vô đi, vô nhà nghỉ đi.”
Hai người sinh viên khệ nệ ôm mỗi
người một bao cát to tướng. Gần năm trăm cái bao. Làm hầm đủ rồi. Hà
nói. Má tôi hỏi sao ông Minh không đưa xuống. Hà nói ông bận đi tải
thương. Mỹ tới cầu Bến Ngự rồi, nhờ Mỹ tới cầu nên quân giải phóng rút
bớt lên ngả núi mà nhiều người mới chạy thoát được. Hà cho biết trên Từ
Ðàm, đại bác câu như mưa, càng ngày càng dữ dội.
Ngay chiều hôm đó, cả nhà hiệp
lực đào hầm lại. Mãi tới ngày hôm sau hầm mới dựng xong. Cái hầm cũ ở
trong nhà vẫn còn giữ lại vì nhà quá đông. Chúng tôi đã mua được ít thức
ăn, và mỗi lần ông Minh xuống chúng tôi lại gửi lên được một ít tiếp tế
cho trên gia đình anh chị.
Cách ngày sau, một gia đình ở Từ
Ðàm bạo gan đi ngả Tây Thiên, trốn về được An Cựu. Nhà này gánh gồng
theo được nhiều thứ lắm, vì hai vợ chồng ông ta là chủ một quán tạp hóa.
Ngang nhà tôi, họ tràn vào và xin ở tạm. Má tôi bằng lòng ngay. Họ
chiếm ngay căn nhà bếp, lật đật giở hết cửa ra làm hầm. Ông chủ nhà này
còn đem theo được cả xe gắn máy, cả dầu hôi, ông có đứa con gái bằng
tuổi Hà. Vậy là hai cô nhỏ bàn nhau tìm cách trở lên Từ Ðàm, liên lạc
với những người còn kẹt lại để trốn về An Cựu.
Ba bốn lần đi về không, mới có
một lần đi lọt được. Anh Lễ tôi nhắn về là thế nào cũng thoát xuống An
Cựu, nhưng đợi cho quân giải phóng rút bớt đã, sợ họ để ý.
Má tôi sốt ruột nhất, suốt ngày
ngồi đứng không yên. Bà đi ra đi vào hỏi thăm những người từ phía Bến
Ngự, Từ Ðàm tản cư về. Ông Minh bị cắt đứt liên lạc trong mấy hôm. Ðường
núi đại bác câu nhiều quá, Hà và cô gái nhỏ tên Nga không dám mạo hiểm
nữa. Nhưng vài ngày sau, ông Minh trở lại, ông vất chiếc xe đạp gẫy ghi
đông ra giữa sân, rồi vừa thở vừa đi vào nhà. Má tôi hỏi ngay:
“Răng, trên đó ra răng rứa ôn?”
“Nguy lắm. Họ dàn quân, sắp đánh nhau rồi. Ðại bác bắn như mưa, chừng vài bữa nữa là nát hết.”
“Trời ơi, rứa vợ con thằng Lễ ra răng hả trời.”
Ông Minh thở dài:
“Tui cũng đương lo. Dù răng cũng phải cứu gia đình nó.”
“Rứa ôn đi ngả mô về?”
“Ði dọc mé sông, đạn bắn như mưa.
Người chạy loạn bị thương đầy. Tui vừa chở một người bị thương tới bệnh
viện Huế rồi vô đây. Bên ni yên rồi, đi lại được rồi. Nơi bưu điện, nơi
ngân khố còn chình ình mấy xác Việt cộng chân bị cột nơi đại liên, thấy
ớn quá.”
Hai anh sinh viên chạy ra, ông Minh nói:
“Ủa, tụi bây chưa ra nhà thương. Ra nhà thương mà giúp đỡ dân chơ. Ngoài nớ yên rồi có chi mô.”
Ông quay lại Hà:
“Con đi tìm coi có ở chỗ mô sửa được, sửa cái ghi đông xe cho ôn con.”
Hà vác xe đi rồi vác xe về:
“Ðã có ai mà sửa. Ôn lấy xe con mà đi.”
“Ừ, thôi, bác cho tui miếng trầu. Tui phải đi chừ đây.”
Má tôi lại gửi ít đồ ăn lên Từ
Ðàm. Mấy ngày nay ở Trường Bia đã có chợ, người ta hạ cả heo để bán
thịt, có rau dưới chợ Mai gánh lên bán. Tôi cầm tay Hà đưa ông Minh ra
tận ngoài đường. Hà có vẻ dùng dằng, cứ dặn ông hoài:
“Ôn, nhớ rảnh là xuống đây nghe ôn. Ôn đừng ở trên nớ nữa.”
Ôn Minh quay lại mắng Hà:
“Con nhỏ ni hư thiệt. Ðừng có
buồn, ôn còn lo cho nhiều người trên đó nữa chơ. Ðể ôn đưa anh chị với
mấy cháu về cho. Yên trí, yên trí.”
Ông nói xong, trèo lên xe đạp,
đạp thẳng ra phía cầu An Cựu. Thái chạy ra, ba chị em lại đi bộ ra ngả
cầu. Mỹ đã gác ở đây, nơi đồn vận tải cũng có lính gác. Khu vực chúng
tôi hoàn toàn yên rồi, chỉ lo cho anh chị tôi đang ở khu nguy hiểm nhất.
Các thanh niên chạy loạn trở về đã đạp xe đạp đi ra ngoài trường Kiểu
Mẫu coi đánh nhau bên phố. Chiến trận phía bên kia có vẻ ác liệt lắm.
Chắc phía trên Từ Ðàm cũng thế. Chúng tôi đang đi bộ thì gặp một đoàn
người từ phía cầu đi lại, người đi xe có, đi bộ có. Có tiếng xe gắn máy
dừng lại sát chị em tôi. Tôi ngẩng lên nhìn và kêu mừng rỡ:
“Anh Trai.”
Ông anh họ của tôi đang ngồi trên xe gắn máy, mừng rỡ hỏi thăm tíu tít:
“Lễ về được chưa? Nhà yên hết há?”
Tôi buồn bã:
“Nhà yên nhưng anh chị Lễ còn kẹt trên Từ Ðàm.”
Anh cười. Tính anh vẫn vui nhộn như thế đối với chúng tôi:
“Anh về nhà rồi. Tới chơi nghe. Ðừng có lo cho Lễ, không răng mô. Có tin chi cho anh biết hí.”
Anh định dợm đi, rồi lại thắng xe lại:
“Ê, tụi bây, tao có cái ni.”
Anh đưa tay vô túi áo măng tô. Có
vật gì phồng lớn ở trong đó. Hà đưa tay móc túi lôi ra một quả hột vịt
lộn còn nóng. Anh lôi tiếp mấy quả nữa:
“Mỗi đứa một cái hột vịt lộn.”
Trước khi đi, anh dặn:
“Ðừng có ra ngoài cầu. Mỹ nó gác nó bắn tùm lum đó. Người ta chạy loạn khóc như ri ở ngoài.”
“Ở mô chạy xuống?”
“Anh cũng chạy bất chết, không có hỏi.”
Có mấy tiếng súng nổ lẻ tẻ, Thái kéo tôi đi về.
Ngay hôm đó, Bé xuống nhà, giúp
chúng tôi đắp đất thêm lên hầm và nói là sẽ đi trình diện. Nó nói trong
ngày mai sẽ đưa gia đình về dưới Phù Lương vào trại tỵ nạn, vì nhà đã
hết gạo ăn. Thái cũng nóng ruột đòi đi trình diện. Một vài người lính
địa phương đạp xe đạp qua cho biết tin tức là quân đội đã đóng ở hữu
ngạn, dẹp xong xuôi Việt cộng rồi, dân chúng hãy trở về và ai là quân
nhân, công chức phải đi trình diện ngay. Có thể lên Tòa tỉnh hoặc ở
trường Kiểu Mẫu cũng có văn phòng. Vậy là Thái thay quần áo đi ngay, mặc
dù má tôi và tôi ngăn trở hết sức cũng không được.
Hai tiếng đồng hồ sau Thái trở
về, nói là dường như phía hữu ngạn đi được rồi, quân Mỹ và Việt đã đóng
hết. Bên phố bắn nhau như mưa, lửa bốc mù trời. Ở Từ Ðàm vẫn chưa dẹp
xong, quân Việt Mỹ vẫn chưa dám xông qua cầu Bến Ngự, hay cầu Nam Giao.
Dân chúng chạy loạn ở bên kia cầu kêu khóc như ri. Thái còn kể là ở trên
tòa tỉnh, trên Nha đại biểu, còn đầy xác Việt cộng chưa ai chôn. Hai
anh sinh viên từ giã gia đình chúng tôi để đi ra nhà thương Huế săn sóc
những kẻ bị nạn. Thấy hợp lý, chúng tôi cũng không giữ. Tôi hỏi Thái đã
trình diện chưa, Thái nói rồi, ngày mai đi lĩnh vũ khí và công tác. Thái
cho biết cấp chỉ huy của hắn đã bị giết, một người đàn bà khác, có chức
vụ nhỏ trong đoàn cán bộ xây dựng nông thôn bị chặt đầu, cắt hết tay
chân. Tòa tỉnh vắng ngắt và hình như ông tỉnh trưởng cũng đã bị giết.
Nhiều tin đồn lung tung ghê gớm lắm.
Cũng ngay chiều hôm đó, Thái đi
một hồi, khi trở về, nhờ tài ăn nói hoạt bát, hắn đem về cho nhà nửa bao
gạo. Má tôi nhìn bao gạo mừng đến chảy nước mắt. Tôi thì từ hôm liên
lạc được với sở một lần rồi bị kẹt đường mất liên lạc luôn. Tôi mượn cái
xe gắn máy của gia đình người ở tạm căn nhà bếp, rủ Thái xuống Thanh
Lam một lần nữa. Lần này may mắn hơn, tôi liên lạc được với Sài Gòn và
yên trí một trăm phần trăm là gia đình tôi vẫn yên ổn. Tôi chỉ chờ có
máy bay là thoát được. Một ngày nữa trôi qua, Từ Ðàm vẫn kẹt trong khói
lửa, bom đạn, và chúng tôi hoàn toàn không biết tin tức gì của anh tôi
hết. Rồi những người ở Bảo Quốc chạy về, những người ở Bến Ngự chạy được
về. Ông Minh cũng biệt tăm dạng. Ai lo việc người đó, tôi cố dò hỏi hết
sức, nhưng không có kết quả. Hai ngày sau, một cậu em đi ngang qua, ghé
thăm, cho hay tin cậu Ðội Hòa đã chết. Cậu Ðội Hòa là người điều khiển
ban nhạc đại nội. Cậu đã già nhưng vẫn còn khỏe lắm, nhà cậu ở sát dưới
chân bực cấp chùa Bảo Quốc. Một túp lều tranh đơn sơ, trước sân bày đầy
chậu hoa, chậu kiểng. Trong nhà cậu, đủ các thứ đàn, từ những cây đàn
thật cổ, tới những cây đàn mới nhất. Tôi thường ao ước được cậu cho một
chiếc đàn tranh như thủa nhỏ cậu vẫn nói:
“Con học được, cậu cho cái đàn hồi trước của ngài ngự đàn, ngài đàn hay đến nỗi ma nó đứng ngoài nó nhịp.”
Nhưng tôi lại không biết gì về quốc nhạc, và cũng không dám xin cậu chiếc đàn quý giá đó.
Bây giờ cậu Ðội Hòa đã chết. Cậu
chết ở đâu? Trong lúc chạy loạn hay ở nhà? Còn số phận những cây đàn,
túp lều tranh nữa. Tôi run giọng hỏi cậu em. Khánh kể là cậu Ðội Hòa
chạy loạn tới trước nhà Khánh ở gần bưu điện. Ở đó đang yên, bỗng một
trái đại bác bắn sai rơi xuống. Cậu chỉ trúng có một miểng đạn nhỏ nơi
thái dương, và cứ thế, cậu nằm xoải người, tâm trí rất tỉnh táo, đợi máu
chảy hết, khô người là chết. Tôi ứa nước mắt. Tôi đã khóc quá nhiều.
Trước biến cố Mậu Thân, tôi đã khóc cho cái chết của ba tôi. Trong lúc
thành phố tan nát, tôi đã khóc cùng với bao nhiêu người, bây giờ tôi
khóc cho ông cậu nghệ sỹ hiền lành, thường cố làm vẻ nghiêm trang, cổ
xưa trước mặt con cháu. Và những cây đàn nữa, bao nhiêu vốn liếng của
cậu tôi, cũng là những vốn liếng cuối cùng của quốc nhạc, thôi thế đã
theo cậu chôn vùi trong khói lửa.
Má tôi cũng ngồi lặng người đi
một giây. Chắc má tôi nhớ lại thời nào cùng ở với cậu trong hoàng thành
rực rỡ. Những tiếng đàn, tiếng phách. Những buổi sáng nhạc nhã vang
lừng. Những áo mũ, những thanh âm ngày vua ngự triều. Má tôi cũng từng
học đàn với cậu thủa nhỏ và được cậu che chở cho trong những lúc ông
ngoại giận dữ vì má tôi không có khiếu về âm nhạc, học dở hơn cậu.
“Mà có chắc là ông Ðội Hòa thật không, hay con nghe ai nói lại?”
“Không, chính mắt con thấy mà. Ông chết trong nhà con.”
Tôi nắm chặt bàn tay má tôi. Bàn tay má tôi run run. Mãi lúc sau, má tôi mới nghẹn ngào:
“Rứa còn bà thì răng?”
“Dạ không can chi, bác gái còn sống.”
Má tôi quay sang tôi:
“Mần răng mà đi đón mợ con về đây.”
Nhưng Khánh lắc đầu. Ở ngoài đó
hay ở đây cũng có thể yên ổn mà cũng có thể ăn đại bác rơi lạc bất cứ
lúc nào. Với lại chắc gì mợ tôi đã đi. Khánh cho biết là gia đình cậu
tôi ra khỏi nhà trong lúc căn nhà còn đang bốc cháy. Cậu tôi vừa quay
lại vừa kêu trời kêu đất, muốn lao trở vào để cùng cháy với mấy cây đàn.
Người ta phải lôi cậu tôi đi. Từ đó cậu không nói với ai một câu nào
cho tới khi cậu trúng miểng đạn chết.
Như vậy là hết, từ người già cả,
cổ xưa nhất như cậu tôi, tới đứa nhỏ lai Mỹ đều đã bị quật chết trong
trận chiến. Mỗi ngày có bao nhiêu tấn bom đạn, đã trút xuống đầu thành
phố Huế. Mấy ngày nay, máy bay bay nhiều vô số. Ðứng ngoài quốc lộ,
chúng tôi có thể nhìn thấy những chiếc phản lực liệng nhanh như chớp và
thả xuống từng loạt bom, tiếp theo những tiếng nổ, dù dội xa, nhưng vô
cùng kinh khủng. Ra xa hơn, đứng ở bên này sông nhìn sang, chợ Ðông Ba
trở thành bình địa, nhà cửa bên phố như quấn chặt trong đám khói mù. Mỗi
tiếng nổ, cát bụi, gạch ngói lại bay tơi tả như một trái pháo khổng lồ
nổ tung xác.
Má tôi nghe tin cậu Ðội Hòa mất,
rồi bặt luôn tin tức ông Võ Thành Minh, bắt đầu hoảng hốt. Ðôi khi đang
ngồi ăn cơm, bà bỏ chén đũa ôm mặt khóc. Tôi sợ đầu óc má tôi trở nên
bất bình thường. Trong hoàn cảnh này, ai cũng có thể điên được. Như một
người quen cũ của gia đình tôi chạy loạn về ngang qua, má tôi níu lại.
Bà ta đang khóc mùi mẫn, đi vào nhà kể chuyện chẳng có đầu đuôi gì hết.
Rồi bỗng bật cười:
“Chưa khi mô tui nhìn thấy đám cháy to như rứa. Người chết cháy cứ như heo quay.”
Cười được rồi, bà ta ngạc nhiên và lại ôm mặt khóc. Bà ta điên được từng phút ngắn.
Trưa hôm sau, Thái đã liên lạc được với đoàn của nó. Khi trở về, Thái báo tin:
“Người ta ở Từ Ðàm, Bến Ngự chạy
về đông lắm. Phía mình đã gọi bằng máy bay, khuyên dân hãy chạy để quân
đội tràn lên đánh địch.”
Má tôi nhảy choi choi như một đứa trẻ con:
“Rứa há. Ðứa mô đi đón. Ði đón liền.”
Tôi, Thái và Hà tình nguyện đi
ngay. Chúng tôi ra tới cầu An Cựu. Tôi đoán chắc anh chị tôi có đi cũng
chỉ đi được đường bờ sông, quân giải phóng sẽ rút lên phía núi, và ở đó,
chắc súng đạn đang rền trời. Chúng tôi đi bộ ra cầu. Nhiều người chạy
loạn quá. Họ gồng gánh, bỏ cả trẻ con vào thúng mà gánh chạy. Thái la cà
lại hỏi, nhưng không ai muốn trả lời, hoặc có trả lời thì câu trả lời
cũng chẳng giúp ích gì được chúng tôi. Mấy anh lính Mỹ gác ở hai đầu cầu
nhìn đoàn người chạy loạn lôi thôi lếch thếch cười với nhau, chúng nheo
mắt, làm trò, đôi khi đưa súng lên bắn chỉ thiên dọa nữa. Ðoàn người
nghe tiếng súng là bỏ chạy, những tràng cười thích thú nổi lên đằng sau
lưng.
Người chạy với chó, chó chạy với
người. Những con chó ở đâu chạy theo đoàn người mà nhiều thế không biết.
Một con chó đen bị những bước chen lấn, chạy tràn xuống một đầu cầu mép
sông. Bỗng một phát súng nổ, con chó kêu một tiếng thảm thiết, lăn tròn
và rơi xuống nước. Tiếng cười ồn ào nổi lên. Mấy người Mỹ đen, Mỹ trắng
đứng trên cầu tiếp tục bắn ngăn không cho con chó lội lên bờ. Con chó
cứ xa dần bờ, kêu oẳng oẳng, hết sức thảm thương. Những viên đạn vẫn bắn
tới tấp nhưng hình như không định giết con chó, mà chỉ giữ không cho nó
vào bờ. Có những viên đạn bắn trệch lên bờ đường, những viên khác dội
xuống nước. Ðoàn người tản cư chạy tới hỗn loạn, kêu khóc rền trời.
Tiếng kêu khóc càng to thì tiếng cười của một số người Mỹ bên kia sông
cũng càng lớn. Ngã xuống rồi đứng dậy, đứng dậy rồi chúi nhủi. Dân tộc
tôi đấy sao? Con chó đang cố lóp ngóp lội vào bờ tìm sự sống đó sao?
Ðáng thương cho dân tôi, nước tôi, thân phận người dân không bằng một
trò đùa, không bằng một con chó. Tôi cúi xuống nhặt hòn đá cầm chặt
trong tay. Tôi bóp chặt hòn đá như bóp chặt tim mình. Quăng đi, liệng
vào mặt chúng. Ðồ dã man, tàn bạo. Trong một lúc, nhìn đoàn người lúc
nhúc chạy, la khóc, sợ hãi, tôi bỗng uất hận tràn người. Dân tộc da vàng
nhỏ bé thật, nhưng còn gì béo bở nữa đâu? Con chó chạy rong dài trong
bao ngày đã khô nước miếng, đã lở loét, rụng lông. Tôi đưa hòn đá lên.
Liệng đi. Liệng vào mặt chúng rồi ra sao thì ra. Nhưng không, hòn đá mà
làm được gì! Con chó đã xa bờ lắm. Nó cố kêu lên mấy tiếng nữa, rồi hai
chân trước không phải bơi mà đập nước lung tung. Tôi thả rơi hòn đá
xuống đất. Ðoàn người la hét khóc lóc đã đi qua được đoạn đường, một vài
gói đồ rơi lại không kịp nhặt. Ðoàn người khác tiếp tục đi tới. Con chó
bây giờ đã chìm cả mình xuống nước, mặc cho giòng nước lặng lẽ cuốn đi
cùng những giòng máu đỏ thấm hồng mặt nước sông xanh. Tôi nuốt nước
miếng, cổ họng khô đắng, nước mắt như muốn trào lên. Thái đứng cạnh tôi
im lặng. Mặt nó và Hà cùng tái nhợt trong một nỗi thống khổ, nhục nhã
như không bao giờ gột rửa được.
Một bàn tay đen đui đưa lên vẫy
chúng tôi. Một hộp thịt ném tới lăn lóc dưới chân. Không biết nghĩ sao,
Thái đá mạnh vào hộp thịt. Hộp thịt lăn lóc rơi xuống sông và chìm
nghỉm. Vài tiếng cười khả ố vang lên. Tôi đưa khăn lên chùi nước mắt,
nghẹn ngào bảo các em:
“Mình về đi.”
Trước khi đi, tôi lại nhặt viên
đá cầm trong tay để rồi không làm gì hết. Chỉ một viên đá này mà đổi tới
ba phát súng, ba mạng người, dám lắm. Lúc này, ai chả có thể là kẻ địch
da vàng dưới lối nhìn của những con mắt xanh.
Khóc lên đi, gào to lên nữa đi,
khóc với quê hương yêu dấu đang quằn quại, đang gẫy xương sống. Ðoàn
người đi qua, rồi đoàn khác tiếp tục. Những đôi mắt vàng úa, thất thần,
những bàn tay níu chặt bọc quần áo, gia tài còn lại và đi mãi. Cỏ đã
cháy, cây đã ngã, nhà đã sập. Giòng sông xanh thơ mộng mùa xuân đã loang
đầy máu người, máu chó. Ðống gạch càng ngày càng cao. Hòn đá cầm chặt
trong tay để làm gì. Tôi ném nó vào một ngôi nhà đổ. Hòn đá mất tăm luôn
dấu vết.
Cùng buổi sáng hôm đó, tôi nghe
thêm được nhiều nguồn tin lắm. Bên phố coi như đã thanh toán gần xong.
Cầu Tràng Tiền đã gãy, công binh Mỹ đang cố gắng bắt tạm nhịp cầu khác
để chuyển quân qua, và súng đại liên, tiểu liên, máy bay bắn xuống như
mưa trên những căn nhà đổ nát. Ở phố, người ta không dám chạy thoát ra
đường, từ nhà này, dân chúng đục thủng tường qua nhà khác, và cứ thế, họ
thoát về ngả Gia Hội, hoặc có người chạy ngược lên Kim Long. Người ta
nói tới cái chết của ông Tinh Hoa, chủ hiệu sách, ông đói và khát quá,
chạy băng ra đường. Trước khi ra, ông đã nghiên cứu một lối chạy, chạy
xiên xẹo, ngang qua ngang lại theo chữ chi để tránh đạn. Nhưng đạn vẫn
bắn tới và ông ngã sấp, chết liền tại chỗ. Người đoán là Việt cộng bắn,
người đoán quả quyết là Mỹ bắn, nhưng dù ai bắn thì ông ta cũng đã chết.
Tôi nghĩ tới những người đang mắc kẹt ở Từ Ðàm, ở Thành Nội. Toàn thành
cao bao xung quanh, cửa Chánh Tây là lối tiếp quân của Việt cộng, phía
các cửa Thượng Tứ, Ðông Ba, cửa Sập thì đạn máy bay, đạn Mỹ bắn như mưa.
Có bao nhiêu người đang quay quắt, quằn quại trong đó. Những chiếc hầm
kiên cố nhất chỉ có thể chịu đựng nổi với những cỡ súng nhỏ, làm sao
chịu thấu với những quả hỏa tiễn, những tấn bom hằng ngày trút xuống.
Còn thành nội cổ kính nữa, di tích cuối cùng của một thời lịch sử, với
những cành vàng điện ngọc, với những chiếc bình bằng sứ điểm hoa xưa cổ
hàng trăm đời vua, với chiếc ngai vàng bỏ không nữa. Thôi, súng Nga Sô,
Tiệp Khắc, súng Mỹ, đã san bằng, đạp nát một thành phố của cổ kính, của
lịch sử. Không bao giờ còn dựng lại được nữa. Tôi không hy vọng gì nữa.
Ngày thường, tôi ít để tâm đến vấn đề này, nhưng lúc này, nhìn những tấn
bom trút xuống thành nội, lòng tôi đau thắt lại. Má tôi đã từng kể
chuyện trong hoàng cung thời trước. Nào lầu vàng điện ngọc, nào nơi Ngài
ngự, nào nhạc ban mai, chuông buổi tối. Nào ngày đưa đám Khải Ðịnh, có
cọp bạch về chầu. Bao nhiêu giai thoại, bao nhiêu huyền sử trong những
câu chuyện thủa nhỏ, đẹp và hay hơn cả truyện cổ tích.
Quá trưa hôm đó, một chuyện bất
ngờ xảy ra nữa, bất ngờ đến nỗi cả gia đình chúng tôi bàng hoàng sửng
sốt, bấu da bấu thịt xem chuyện có phải thực hay trong mơ. Ăn cơm trưa
xong, cả nhà đang ngồi kể lại chuyện mỗi người nghe được thì có tiếng
gọi ngoài cửa:
“Mệ ơi, mệ.”
Má tôi quên cả xỏ guốc, chạy ùa
ra sân. Con Mai, người làm của anh chị Lễ tôi đang khiêng một đầu, đầu
đằng sau là một người đàn ông lạ còn trẻ, ở giữa là Hy, em gái chị dâu
tôi. Hy nằm trên cái võng và đang cố ngóc đầu lên để nhìn. Con Mai vừa
kêu: Mệ ơi, mệ ơi, vừa đưa một tay vẫy rối rít. Hy được khiêng vào nhà,
con Mai chỉ ra đường vừa khóc vừa nói:
“Mệ ơi, thầy Lễ đang chạy đằng sau, đang ở ngoài đường.”
Tôi chạy băng ra trước, má tôi
chạy theo, rồi Hà, rồi Thái. Ngay trước ngõ, anh tôi đã tới nơi. Anh tôi
đang đẩy một chiếc xe sắt trẻ con, đi chân không, tóc tai rũ rượi. Trên
xe đặt hai đứa con trai mặt mày đầy thuốc đỏ, và đang mếu máo khóc.
Tôi ôm choàng lấy các cháu. Cháu
gái lớn Ti Na đang chạy lúp xúp đằng sau cũng nhào vào lòng tôi. Nước
mắt tôi trào ra. Các cháu tôi cũng khóc thút thít. Anh tôi chỉ lui đằng
sau:
“Chị đang ở đằng sau nớ.”
Tôi rời tụi nhỏ, chạy tới phía
cầu. Nhưng chỉ ngang nghẹo Ðường Xay, tôi thấy chị dâu tôi đang ngồi bệt
xuống đất, chiếc nón tơi tả đặt một bên. Chị bế đứa con nhỏ mới sinh,
mặt mũi cũng đầm đìa nước mắt. Tôi ôm cháu nhỏ, dẫn đường. Chị dâu tôi
không đi dép, mệt mỏi đi theo sau. Vào tới nhà, anh chị tôi đứng trước
bàn thờ ba tôi. Chị tôi gục đầu vào bàn thờ mà khóc. Mấy đứa nhỏ khóc
theo. Má tôi, tôi và Hà cũng chảy nước mắt mừng mừng tủi tủi.
Một lúc sau, anh chị tôi mới tỉnh táo kể chuyện chạy loạn được. Tôi hỏi thăm anh đi ngả nào, anh tôi kể:
“Ðạn trên nớ bắn dữ quá. Việt
cộng không thể kiểm soát được nữa. Quân Mỹ đã tới cầu Nam Giao và Bến
Ngự. Ngày hôm qua, lúc chập tối, một chiếc hầm sập, đè chết một đứa nhỏ
chắt của cụ Cường Ðể, một đứa bị thương. Anh bế hai đứa nhỏ đầy máu me.
Bà Xếp bế một đứa. Tụi nhỏ cho đi trước cầm cờ trắng, kéo xuống cầu Bến
Ngự để đưa mấy đứa nhỏ ra nhà thương. Vài người chạy theo nữa, tới cầu
Bến Ngự, anh tỏ ý xin qua, nhưng thấy đông quá, bọn Mỹ nghi ngờ, giơ tay
xua bắt trở lại. Cả đoàn chưa kịp quay lại, họ đã bắn vào chân, sướt
bên tai, trên đầu. Lũ nhỏ khóc quá, cả đoàn phải kéo lên. Ðứa nhỏ chịu
không được đau đã chết.”
Chị dâu tôi nói thêm:
“Anh gan lắm má. Ôm hai đứa nhỏ máu me đầy mình. Anh giơ áo cho má coi.”
Anh tôi đưa tay áo lên, những vết
máu đã thâm tím lại. Anh tôi gầy nhom, hai mắt vàng khè và mặt không
còn chút máu. Mấy đứa nhỏ đòi ăn. Hà lục lọi lấy cơm cho các cháu. Má
tôi hỏi dồn:
“Trên nớ tan hết rồi hay răng con?”
“Ui, còn chi mà còn má. Nhà mình
hư hết rồi. Có đem theo chi được mô. Mỗi cháu chỉ mặc một bộ quần áo.
Mấy bữa súng yên, tụi con Mai nó qua, lôi được ít đồ gửi bên nhà thờ cụ
Phan. Không biết nay mai, bàn thờ còn nguyên lành không nữa. Ðêm qua,
súng còn như mưa, cứ tối là họ kéo về, giăng cờ dụ quân mình. Hai bên
bắn nhau. Con chắc mai bên mình lên được trên nớ. Biết ở lại răng cũng
chết, ông Minh khuyên tụi con nên liều mà đi.”
Má tôi vẫn chưa ngớt xúc động:
“Con đi bằng ngả mô rứa? Ngả mô mà xuống được?”
“Ði ngả đường rầy má. Nhờ ôn Minh hết đó.”
Anh tôi chỉ người thanh niên:
“Ôn Minh phải lên tới Tây Thiên
nhờ anh đây xuống khiêng giùm Hy đi. Một mình con mắc ba bốn đứa nhỏ. Bê
mới sinh còn đồ đoàn nữa. Ôn Minh lo hết, tội ôn quá.”
Bê là tên của chị dâu tôi. Hà thắc mắc:
“Răng anh không nói ôn về một lần luôn.”
“Ôn còn bận cứu thương, tải
thương. Ôn nói ôn chưa đi được, ôn đi mà để lại bao nhiêu người kẹt
trong vòng súng đạn, ôn không yên tâm.”
Tôi rót nước mời người thanh niên
uống. Anh ta khoảng ba mươi tuổi, nét mặt rắn rỏi. Anh tôi không ngớt
lời cám ơn. Hà thì buồn rầu lo lắng cho ôn Minh không hết. Má tôi hỏi
thăm những người hàng xóm. Chị Bê cho biết bà Xếp Mập đang đi ở đằng
sau, con ở của bà bị thương nhẹ, đi cà nhắc, vừa đi vừa dẫn bà. Má tôi
hết ôm đứa nhỏ này lại ôm đứa khác. Tội nghiệp, chúng như một đàn chim
nhỏ bị đạn, nghe tiếng súng đại bác sau Trường Bia bắn đi cũng run lẩy
bẩy, đưa tay che đầu.
Uống xong chén nước, người thanh
niên nhất định đòi lên lại Tây Thiên. Má tôi mời ở lại, anh ta nhất định
không chịu. Anh nói anh phải đi gặp ông Minh. Anh tôi lo sợ đường có gì
bất trắc. Anh mượn một chiếc xe đạp, nói đi ngả núi Ngự Bình, chắc
không sao. Má tôi ân cần dặn đi dặn lại nhờ anh thế nào cũng chuyển lời
mời ôn Minh về.
Một lúc sau bà Xếp Mập tới nơi. Con ở vừa đi cà thọt vừa cầm tay bà. Vào tới sân bà đã khóc nức nở:
“Thầy Lễ đã tới chưa? Ðã tới chưa?”
Anh tôi ra đón bà vào nhà. Bà đặt cây gậy dựa vào chân ghế, nhìn quanh nhìn quất, thấy má tôi, bà lại khóc:
“Bác ơi, tưởng không còn trông thấy mặt nhau rồi chơ… Trời đất ơi, tự nhiên mà đất bằng nổi sóng… Nhà mình yên hết chơ bác.”
“Bà ngồi đỡ mệt đi. Nhà yên hết. Lạy Trời lạy Phật.”
“Nam mô A Di Ðà Phật. Tui cứ sợ cho họ bắt thầy Lễ na đi…”
“Tui ở dưới ni mà ruột như nung như nấu bà ơi…”
Má tôi cũng bật khóc. Hà thấy vậy khôi hài:
“Mẹ giải phóng đi mà các con giải phóng không giữ lại răng mẹ?”
“Ừ, Ừ… tụi nó chạy hết rồi. Bỏ cả cha lẫn mẹ.”
Câu nói của bà làm cho mọi người đang rầu cũng bật cười, mà riêng bà, bà lại lau nước mắt:
“Thôi bác ơi, thấy nhau là quí rồi. Người còn của còn…”
Hà hỏi anh tôi:
“Trên nớ họ rút hết chưa?”
Anh tôi nhăn mặt:
“Thiệt tụi nó khôn hết sức. Nó
rút đi hết rồi, chỉ còn để lại vài tên, cứ chạy góc này lẹt đẹt vài
tràng đạn, tới góc khác lẹt đẹt vài tràng đạn. Quân Mỹ ở dưới cầu tưởng
đông không dám tràn lên, chớ thiệt họ rút đi gần hết, chỉ để lại vài
chục mạng cầm chưn rứa thôi. Nói thiệt tức cười, mấy tên ở lại bắn chọc
để chặn quân Mỹ, còn đường lên núi họ sắp hàng rút quân, vừa đi vừa hát.
Hình như họ đi tiếp viện mô ở cửa Chánh Tây.”
Tôi hỏi thăm về một người bạn cũ, cũng là cháu nội của cụ Cường Ðể:
“Thạch Hà đã tản cư được chưa?”
“Chị Hà cùng núp trong nhà thờ cụ
Phan. Bữa hầm sập, chị Hà mất một đứa.Thì anh bồng con nhỏ đó đi xuống
cầu Bến Ngự, con Ti Na, Nô Răng cầm cờ trắng. Bà Xếp với mấy người nữa
đi đằng sau nì. Mà nó bắn nơi chân đó. Chị Hà tản cư lên miệt Tây Thiên.
Anh là nhờ có ôn Minh dò đường mới xuống đây được đó chớ.”
Ðứa cháu nhỏ của tôi khóc:
“Cô, cô. Cây vú sữa nhà mình gãy, cháu hái được hai trái chín mùi.”
Tôi vừa thương hại vừa buồn cười.
Một cây xanh tốt hàng năm cung cấp bao nhiêu trái cây, nó không mừng,
gãy rụi xuống, để chỉ lượm có hai trái thì đứa cháu tôi lấy làm thích
thú.
Về tới An Cựu, anh tôi yên tâm
hơn. Chúng tôi lo lắng tổ chức lại đời sống. Gạo chắc chắn sẽ không đủ
ăn nếu tình trạng này kéo dài, nhưng gia đình chúng tôi cũng không thể
về những khu tỵ nạn để lãnh gạo, lãnh tiền. Thái vừa lo đi trình diện,
vừa lo chuyện mua gạo. Tôi lại đi liên lạc với sở để đợi máy bay vào Sài
Gòn. Nhưng trước đó, tôi cũng phải lo cho Hy vì vết thương để lâu ngày,
đang làm độc. Tôi chỉ cầu cứu ở sở, nhưng đường sá lại bắt đầu khó đi
lại. Tôi đành rán chờ.
Chiều hôm sau, ở Từ Ðàm lại kéo
xuống thêm mấy gia đình nữa, trong đó có gia đình một ông thầy cũ của
tôi, và những người con cũng đã đi dạy học, những đứa cháu nhỏ. Anh Lễ
đón họ vào nhà, người nào cũng đi chân đất, chạy tơi tả. Chúng tôi được
biết thêm là sau khi anh tôi trốn thoát, Việt cộng lại về bắt một số
thanh niên. Khéo trốn lắm mới thoát được. Ôn Minh hình như cũng bị họ
giữ lại. Hà kêu lên thảng thốt: Ôn Minh mà cũng bị bắt hả?
Thầy Liên, thầy giáo cũ của tôi, đã già, lắc đầu tuyệt vọng:
“Tối qua họ còn bắn mấy thanh niên gần nơi trường học.”
Má tôi hỏi:
“Trên nớ đã ngớt súng chưa?”
“Ôi, như mưa rào, càng ngày càng dữ. Chúng tôi liều chết để đi. Lạy Trời lạy Phật, về đây mới biết là sống.”
Ngôi nhà chúng tôi bỗng đông vui
hẳn. Ngay sáng hôm sau, mọi người lo làm hầm. Cứ mỗi gia đình một góc
sân, tất cả các thứ gì còn lại trong nhà có thể giở ra làm hầm được, họ
đều trưng dụng. Nhưng chúng tôi không phiền hà gì, nếu phải tháo cả
chiếc nhà ra để làm thêm một cái hầm nữa, chắc ai nấy cũng hết sức vui
vẻ.
Các nhà bên cạnh cũng lục đục kéo
nhau về, làm hầm phòng đại bác. Chợ nhỏ họp ở trước con đường dẫn vào
Trường Bia. Một vài quán ăn đã mở. Sức sống vun trồng thật nhanh, vừa
mới mấy ngày, nhà cửa, làng xóm đìu hiu như không bao giờ còn có hơi thở
nữa. Vậy mà chỉ qua hai ba ngày sau, dân chúng trở về. Ở đâu có người,
có hơi thở là có quán, có khói, có bữa cơm. Nhưng cũng thê thảm lắm,
cạnh đó, cách chừng một cây số, hai cây số, máu vẫn tiếp tục chảy. Buổi
sáng đoàn lính biệt động, nhảy dù, thủy quân lục chiến vừa đi ngang qua
quốc lộ, nét mặt còn đỏ hồng máu, buổi chiều, xác họ đã được khiêng trở
về con đường cũ.
Mặc dù khu vực chúng tôi đã yên
tĩnh, nhưng ban đêm, Việt cộng vẫn về bắt người. Ban ngày, lính Mỹ lên,
gác đường, gác trong các khu vườn và nhìn sinh hoạt dân chúng với đôi
mắt nghi ngờ, không mấy thiện cảm. Chỉ một tiếng động khả nghi là một
băng đạn bắn vào hầm đầy người. Một tiếng súng nổ, cả một xóm nhỏ phía
sau ruộng bốc cháy. Lính Mỹ đứng gác xua dân chạy ra khỏi nhà nhưng
không được mang theo một thứ gì hết. Tiếng khóc la vang trời dậy đất.
Người ta chạy ra khỏi nhà, đứng nhìn ngọn lửa. Dân chúng ở vùng này càng
đông hơn vì những người tản cư mới đến. Những mũi súng của người Mỹ chỉ
vào họ. Họ đành vừa khóc vừa chạy loạn thêm một lần nữa. Mỗi lần thấy
lính Mỹ vào vườn là anh tôi kêu cả nhà và giục những người trong các hầm
khác lên khỏi hầm và vào nhà hết. Thấy nhà chúng tôi đông, đàn bà trẻ
con nhiều, họ không khả nghi gì hết.
Chắc chỉ có xóm tôi ở là dân chúng về sớm và đông nhất, ở các vùng khác cạnh đó, mặc dù đã yên ổn nhưng chưa ai dám trở về.
Lính địa phương thừa lúc chủ nhà
bỏ đi, cạy cửa vào khuân hết đồ đạc. Nhiều người trở nên giàu có. Tôi đã
từng thấy những người đàn ông khiêng cả xe Honda còn khóa đi ngang qua
nhà. Tôi cũng trông thấy cảnh mấy anh lính nhảy dù ở xa đến rượt theo
với người lính địa phương vì họ đang ôm đồ ở một nhà nào đó chạy ra
đường. Một anh thủy quân lục chiến ở Sài Gòn ra đưa cho Thái xem một cây
bút máy khắc hai chiếc tên lồng vào nhau. Anh kể, anh lượm được nơi xác
chết một cô gái. Cô gái Huế nào chết cũng để lại một mái tóc thật dài,
làm anh cứ ôm hết mối tiếc thương này tới mối tiếc thương khác. Một vài
gia đình khác nữa cũng vừa thoát được ở Từ Ðàm về, cho hay là Mỹ đã qua
được cầu Bến Ngự, nhưng chưa lên khỏi dốc, còn nằm chờ. Tôi nghĩ tới
những trái đại bác sẽ dẫn đầu cho đoàn quân. Tất cả đã tan nát rồi, chắc
sẽ còn dằn chặt xuống đất sâu nữa. Người ta nói tới những xác chết dọc
đường. Những đứa trẻ không kịp chôn cất, vất bừa trong bụi cây, hay vùi
giữa đống gạch. Ðám chó đói từ lâu bỗng được dịp no nê. Ai thống khổ, ai
chết chóc mặc, chỉ có lũ chó là phè phỡn. Tôi để ý thấy quanh vùng tôi
có nhiều chó xuất hiện. Ngoài việc phòng ngừa đại bác, phòng ngừa Việt
cộng về bắt, còn phải trữ ít gạch để liệng chó nữa. Mỗi lần dọn cơm, bọn
chó hầm hè ngoài vườn. Nhưng bọn chúng đông thì nhân số trong nhà chúng
tôi cũng đông đúc không kém, chúng không thể tràn vào nhà được. Thái
tiếc rẻ:
“Mấy hôm đói gần chết chẳng thấy con nào, không ông đã vồ lại, ông ăn thịt cho đỡ lòng.”
Hàng ngày chúng tôi ra đường đứng
nhìn xem máy bay thả bom bên thành nội. Những chiếc máy bay gầm thét
như xé rách bầu trời buồn thảm. Những ngọn khói như núi vẫn tiếp tục bốc
cao. Ở Gia Hội có một vài người thoát đi được, hỏi đến, họ vừa khóc vừa
kể:
“Chết hết rồi, chết hết rồi. Họ đặt bộ chỉ huy ở trường Gia Hội, đấu tố, giết chết hàng ngày. Ghê lắm.”
“Còn trong thành nội?”
“Chạy tản cư ra Gia Hội.”
“Gia đình anh còn ai không?”
“Còn một mình tui. Qua chuyến đò mất ba ngàn. Thôi chào bà con cô bác.”
“Vô đây tạm đỡ vài ba bữa rồi đi.”
Nhiều người mời, nhưng người đàn
ông cô đơn từ chối. Chắc ông ta muốn đi càng xa đống khói, xa máu me
chết chóc càng sớm càng hay. Ông ta đi như chạy trên đường quốc lộ.
Một người khác kể:
“Chúng nó bắt đầu giết người dữ
lắm rồi. Gặp đàn ông là bắn. Nghe ai điềm chỉ là bắn. Tui trốn hai mươi
mấy ngày trên máng xối, có bữa đói quá, phải nhổ rêu mà nhai, lùa nước
trên máng xối mà uống. Bà con coi, cái bụng tui phình ra như đàn bà bị
báng. Tui phải về Phú Bài xin nằm bệnh viện.”
Người ta còn kể cả một gia đình ở Gia Hội chết vì cái Ti Vi:
“Máy này để liên lạc với địch?”
“Dạ thưa không, cái máy Ti Vi để coi hát múa.”
“Vặn lên nghe thử.”
Mở máy, không thấy có hình ảnh
hát múa. Một băng đạn, đàn bà trẻ thơ ngã gục. Một bản án được đắp lên:
Ðể đồng bào noi gương. Ðứa nhỏ chết không kịp nhắm mắt. Hai đứa con của
một người mẹ Việt Nam lai Mỹ, người mẹ đi Vũng Tàu để hai đứa nhỏ ở nhà
cho chị vú. Ðây là con Mỹ Ðế, để lại sau có hại cho tương lai dân tộc.
Không cần phí đạn. Hai cái đầu của hai đứa nhỏ bị đập vào tường. Óc,
não, máu me phun tung tóe.
Vẫn còn những người bị thương
được khiêng đi. Hoặc họ chạy loạn bị thương, hoặc họ tiếc của trở về
trong lúc hai bên đụng độ, trúng đạn. Bao nhiêu căn nhà bỏ hoang, bao
nhiêu của cải còn bỏ lại. Các anh giải phóng chỉ giải phóng xương máu và
cầm nhầm những thứ nhẹ nhàng như đồng hồ, bút máy, những đồ vật nhỏ
nhỏ, xinh xinh, hay ngộ nghĩnh. Phần còn lại dành cho kẻ thừa nước đục
thả câu, bao nhiêu cũng không vừa. Người ta còn kể rằng, một thanh niên
còn nhỏ tuổi, con của một ông chủ tiệm vàng, bị gù lưng, đã dắt trong
mình mười mấy lượng vàng chạy trốn. Anh ta bị bắn chết ngay ở trên hố,
một phát đạn không biết của ai, vàng cũng chảy theo máu, chỉ để lại xác
người xấu số. Chưa hết đâu. Còn tàn sát, chết chóc nhiều nữa. Những
người thanh niên, đàn ông bị Việt cộng nói ngon nói ngọt là đi học tập
mười lăm ngày, mãi chưa thấy về và những người khác vẫn bị tiếp tục mang
đi. Số phận những người này sẽ ra sao? Họ đã cố tình giữ dân lại, chắc
để sẽ đem làm bia đỡ đạn trong lúc thế cùng. Nhưng dân chúng, phần chết
chóc, phần bỏ trốn, chắc cũng chẳng còn bao. Những tiếng rú nửa đêm,
những bản án, những tiếng súng giết người không lý do, làm sao để dân
chúng dám ở lại, dám tin tưởng.
Hàng ngày tôi ra đứng bên đường,
hy vọng trong đám người tản cư về, có ông Võ Thành Minh. Mới gặp ông có
mấy ngày, tôi đã hết sức yêu kính ông. Ai hèn, ai can đảm trong cơn biến
loạn này đều lộ diện ra hết. Hôm nay, nghe tin Mỹ đã tràn lên tới Từ
Ðàm và hai bên đang đánh nhau, giành từng tấc đất, chắc ông Minh không
còn có thể ở yên đó mà tải thương theo tinh thần hướng đạo của ông nữa.
Không ai còn sức để sống đến hôm nay mà chết cho súng đạn. Tôi hy vọng
ông Minh sẽ về. Họ bắt ông để làm gì? Chắc ông sẽ thoát được và tôi sẽ
gặp ông trước ngày bỏ Huế. Tôi đã liên lạc được với sở và chuẩn bị ngày
lên đường vào Ðà Nẵng. Nhưng sao tôi vẫn chưa muốn đi. Tôi chờ đợi ống
khói khổng lồ vươn lên từ trong thành nội lụn dần. Nó phải lụn dần chứ.
Một người đàn bà đã dẫn một đứa nhỏ đi trên đường quốc lộ vừa khóc vừa
kể:
“Ối, bà con làng nước ơi. Nhà tui cháy, chồng tui bị bắt, rứa mà con tui cũng lạc.”
Người ta tò mò hỏi bà:
“Rứa đứa nhỏ bà dắt theo là ai? Không phải con bà hay răng?”
“Con tui lạc rồi bà con ơi. Tui cầm nó nơi tay mà lôi mà chạy. Rứa mà khi nhìn lại thì không phải, gặp thằng bé này.”
Người đàn bà lại tiếp tục khóc,
tiếp tục kể và lôi thằng bé chạy. Người đàn bà gọi con, đứa nhỏ gọi cha
mẹ nó. Cảnh trông thật tức cười nhưng cũng rớt nước mắt. Trên quê hương
tôi, bao nhiêu đứa trẻ, bao nhiêu bà mẹ đã khổ như thế? Kể làm sao hết
được. Một ngày nữa trôi qua, lại một ngày nữa đến. Khu An Cựu có vẻ yên
lành hơn trước. Buổi sáng, tôi đã ăn được những bát cháo lòng heo, giò
heo của những người bán hàng rong. Chúng tôi không còn phải chui rúc
dưới hầm tối suốt ngày nữa. Nhưng không khí dường như độc địa hẳn. Mắt
mọi người lúc nào cũng cay xè. Thuốc hơi cay của quân đồng minh rải khắp
nơi để bắt những giải phóng quân còn sót lại. Ngay sau khu vườn cách
nhà tôi vài căn, có một ngôi nhà bỏ không, một chiếc hầm bỏ không, người
ta cũng bơm hơi cay, xông ra một giải phóng quân bị thương, bị đồng đội
bỏ lại. Và khi lên nhìn thấy ánh sáng thì hắn cũng vừa thở hắt ra mà
chết. Ở trong hầm, dù đau đớn, hắn cũng viết nhật ký, viết thư gửi cho
mẹ và em. Ðiều đặc biệt là hắn có một lá thư nguệch ngoạc viết phản đối
chiến tranh nữa: Khi tôi chết, tôi muốn gối đầu lên đất Bắc, dù chân tôi
ở miền Nam. Tôi đã gây cảnh đổ máu ở thành phố này, tôi phải để máu của
tôi lại để hòa cùng với dòng máu oan ức của dân Huế, của dân tộc tôi.
Người lính Biệt động đọc xong mấy dòng trên, anh vội nhét lá thư vào
túi, rồi lặng lẽ bế xác tên Việt cộng, xác một người Việt Nam, ra vườn.
Anh đào một cái hố nhỏ và chôn xác người miền Bắc chết cùng với dân Nam.
Anh nhìn quanh quất, tính lui tính tới để tìm ra phương Bắc làm chỗ gối
đầu cho kẻ bạc mệnh.
Tôi muốn xin anh lính bức thư,
nhưng thấy mặt anh lầm lì và vác khẩu súng nặng nề quá, tôi lại thôi.
Chỉ một lát sau, khi ra ngoài lộ, tôi trông thấy chính anh lính đó ria
một tràng súng vào một bụi cây. Không có người nào hết, ngoài một con
chó ốm. Con chó chạy ra, mắt hực lửa, miệng nó đang tha một cục xương
người. Thôi, tôi không muốn kể nữa. Người ta còn đồn là ở trong thành
nội, xác chết của dân và của Việt cộng đã chất cao. Những người dân chạy
loạn bị trúng đạn nằm chồng lên nhau. Những xác Việt cộng nằm đầy những
hố, xác ở dưới mương, bên đường lều bều như cá chết mắc cạn.
Cũng từ hôm đó, ở phía Nam Giao,
Từ Ðàm không còn ai chạy loạn về nữa. Hình như cũng chả còn ai để mà
chạy. Họ đã bỏ đi, và số còn lại thì đã ở giữa hai lằn đạn rồi. Tôi mất
luôn tin tức của ông Minh. Anh tôi thở dài mỗi lần nghe chị em tôi nhắc
nhở tới ông. Má tôi mua được ít cau trầu vẫn để dành. Không hiểu căn cứ
vào đâu mà má tôi tin là ông Minh sẽ bình yên vô sự.
Tôi thì tôi không tin được như
thế. Có thể ông đã bị bắt đi như những lời đồn. Ông bị bắt đi cùng thầy
Ðôn Hậu. Như vậy, có thể ông không bị giết. Có được không? Nhưng tôi vẫn
nghi ngại lắm. Hai đứa bé con lai Mỹ thì tội tình gì? Một nhà sư như
thầy Ðôn Hậu, một hướng đạo, một chiến sĩ như ông Võ Thành Minh. Trời
ơi, sao giữa tiếng súng, giữa cảnh máu me, giữa bao nhiêu người chết oan
ức, tôi lại cứ thắc mắc những điều như thế. Ðiều cần thiết là tôi phải
làm sao để thoát khỏi Huế, để sống được, để trở về trông thấy các con
tôi, gặp mặt chồng tôi. Tôi sẽ ra đi dù để lại Huế quay quắt, tan tành,
đổ nát. Ðể lại má tôi, anh tôi, em gái, các cháu, bà con giòng họ. Có
thể ở lại thêm một đêm, đến lượt tôi cũng sẽ bị bắt. Tiếng cú rúc, tiếng
báo hiệu của tử thần vẫn còn mỗi đêm, khi xa khi gần. Tôi đem những
điều suy nghĩ trên nói với anh tôi. Anh tôi cũng khuyên:
“Tìm được phương tiện, em nên đi ngay, đừng chần chờ. Về được tới đây, anh cảm thấy nhà mình đã yên tâm hơn rồi.”
Nhìn thấy điều gì mà anh tôi dám
quả quyết như vậy? Tôi nhìn lên bàn thờ ba tôi. Chị dâu tôi đã đốt hai
ngọn nến, thắp một cây nhang lớn. Mùi hương thơm phức. Trong thành phố
này, bao nhiêu ngôi mộ đang lạnh lẽo, đang vời nuối khói hương. Ba ơi,
ba vẫn may mắn. Ðiều đó làm cho anh con tin tưởng phải không ba? Nếu ba
gắng gượng sống thêm vài ngày nữa. Chuyện gì sẽ xảy ra cho ba? Tôi không
dám nghĩ tiếp nữa. Huế ơi, một ngày tôi về chịu tang cha, chịu tang
thêm cho cả thành phố. Trong biến cố này, bao bạn bè tôi lớp cũ đã ra
đi. Ngôi trường Ðồng Khánh thân yêu, nơi dung dưỡng tuổi thơ ấu, tuổi
lớn lên của tôi đã đổ nát tới chừng nào? Những cây phượng, những hốc cây
đầy kỷ niệm nữa, sao tôi vẫn có cảm tưởng như những hốc cây kỷ niệm của
tôi nơi sân trường đang ứa đầy máu. Tôi muốn được trông lại dòng Chúa
Cứu Thế, nơi tôi đã tránh nạn những ngày đầu tiên, muốn ghé lại cung An
Ðịnh, xem đống gạch đã khổng lồ như thế nào. Muốn tới Tân Lăng để coi
căn nhà của chị U, để coi ngôi nhà thờ họ, còn nguyên vẹn hay đã đầy vết
bom đạn. Những nơi tôi đã dung thân, tôi đã gửi lại một ít kỷ niệm.
Những nơi đó tôi đã nhìn thấy máu, nhìn thấy sự chết, và cũng đã nhìn
thấy sự sinh sản. Ôi, căn gác nơi nhà thờ, nơi đó đã sinh ra đời thêm
được bao nhiêu em bé nữa. Giữa cảnh rẫy chết, tanh hôi, tiếng khóc ra
đời của trẻ thơ vẫn vùng vẫy mạnh mẽ, vẫn vươn lên tột cùng sự kiêu hãnh
của sức sống. Không chỉ nơi căn gác chuông của ngôi nhà thờ đó đâu. Gần
một tháng trời nay, khắp thành phố Huế, trong hầm tối, giữa đường, bên
bờ ao, bên những vũng máu đã nguội, những tay chân què quặt, còn bao
nhiêu trẻ thơ khác ra đời nữa. Ðất lấp những tiếng kêu thống thiết thì
đời cũng mở những tiếng khóc sơ sinh. Không, Huế sẽ không bao giờ tan
nát, đổ vỡ tới như sự tận thế. Bên vòng lửa, cạnh bom đạn, những buổi
chợ đã họp lại, kẻ sống sót đã trở về vòng quanh quẩn, lăm le đợi chờ.
Và dưới mương bên đường, trong đất tối, bao xác chết mở mắt trừng trừng
chờ đợi. Tôi gặp thêm một số người các nơi chạy về nữa. Từ Gia Hội, từ
Bến Ngự, từ Kim Long. Vậy là Huế đã rỗng. Một người sống sót kể lại vì
muốn cứu khoảng hơn mấy chục người mắc kẹt trong một xóm nhỏ, các anh
lính đã phải hy sinh một số khá đông. Một người khác nói rằng chính anh
vừa thoát được từ dưới địa ngục lên. Anh ta bị bắt đi. Một đoàn người bị
bắt, một sợi dây thừng dài cột người này liền với người khác. Ðoàn
người được dẫn lên phía núi. Tới một khoảng đất trống, một anh giải
phóng ra lệnh mở giây trói cho mọi người, bắt họ đào hầm hố. Những hầm
hố mới nguyên bên cạnh những cây cối còn xanh tươi. Ðoàn người được đứng
sắp hàng lại. Một loạt đạn thi ân: Giải phóng. Một số người được chừa
lại: Xô họ xuống hố và lấp đất đi. Những giọt nước mắt không ứa ra được,
nóng như lửa chảy ngược xuống nung đốt ruột gan. Số người còn lại về
sau cũng bị số phận như thế. Nhưng tôi, tại răng tôi may mắn thoát chết?
Trời đất quỷ thần. Tôi thoát được mà về đây. Ông bà tôi đã cứu tôi.
Trời Phật hay ma quỷ đã cứu tôi. Chào tất cả chào bà con cô bác. Tôi
phải chạy trốn chúng nó. Tôi phải đi tìm vợ con tôi. Tôi đi trốn đây, bà
con cô bác trốn đi. Trốn ngay đi. Người đàn ông kể xong chuyện xúc động
quá chắc đã hóa điên rồi. Chúc anh được điên để quên. Ðiên được, thật
sung sướng cho anh biết mấy.
Một người khác thì trái lại, vừa kể chuyện vừa khóc. Ông ta không điên mà rủi thay, còn quá sáng suốt để tràn đầy sự xúc cảm.
“Họ ở trong nhà tui mười mấy
ngày. Nhiều người bị thương mang về. Nhiều người chịu không thấu đã
chết. Bà con biết không? Họ cũng biết thương người, họ cứu thằng còn tui
bị miểng đại bác. Một anh lính Bắc Việt trẻ đã than thở với tui: Các
bác nghĩ lại đừng ghét bỏ tụi cháu. Tụi cháu chỉ biết thi hành theo lệnh
trên. Tụi cháu cũng xa gia đình, đói khổ. Nhìn cảnh đồng bào chết như
thế này, tụi cháu cũng khổ đau lắm. Ngoài Bắc họ tuyên truyền vào Nam
đánh Mỹ chớ cháu đâu biết cớ sự như thế này… Ðó, họ cũng tội, họ cũng
oán chiến tranh lắm chớ.”
“Vậy sao bác chạy tới đây?”
“Họ bỏ đi hết rồi. Nhà chỉ còn
toàn xác chết. Còn có một anh bị thương ở lại đó, khuyên tôi nên đi đi, ở
lại là chết. Bây chừ tui đi, đi tới nơi mô yên ổn nhất. Ðây vưỡn chưa
yên.”
Họ cũng là người chứ! Huế ơi, Huế
có căm thù họ không? Những đôi mắt mở sâu trừng trừng trong đất đen,
trong cõi vô minh có căm thù họ không? Căm thù chứ, phải không? Nhưng
không phải căm thù họ, mà căm thù những trái đạn từ đâu nhập vào đất
nước để biến chúng ta thành kẻ bị giết hoặc bị bắt, buộc phải giết
người, giết anh em, cha, mẹ, bà con ruột thịt. Ruột và thịt, trong gần
một tháng qua tôi đã nhìn thấy bao nhiêu. Bao nhiêu đó, có đủ để nhắc
nhở gì chăng?
Các em tôi đã đi trình diện hết.
Thái được đưa về Phù Lương, Bé trở lại đơn vị. Phía hữu ngạn đã bắt đầu
kiểm soát dân. Những người trở về ùn ùn kéo nhau đi lĩnh phiếu kiểm
soát. Anh tôi cũng đã lĩnh phiếu.
Xung quanh khu vực tôi ở, hình
như người ta đã trở về gần hết. Về tới nhà, gia đình này thiếu mất mẹ,
gia đình khác thiếu cha, kẻ mất con. Những tiếng khóc thê thảm bật lên,
nối từ nhà này sang nhà khác. Người ta kể cho nhau nghe về những ngày
chạy loạn, những cái chết thê thảm, và người ta khóc mùi mẫn. Những giải
khăn tang đã bắt đầu xuất hiện.
Ở sở cho người lên báo tin là sẽ
có trực thăng đưa tôi từ Huế vào Ðà Nẵng, để từ Ðà Nẵng, tôi sẽ đi máy
bay vào Sài Gòn. Tôi mừng rỡ lắm. Nhưng không dám tỏ sự mừng rỡ đó ra
cho má tôi, anh tôi biết. Càng ngày, má tôi, anh tôi càng tỏ ra buồn bã,
cơn xúc động, kinh hoàng ban đầu đã lắng dần và trở thành đá trong mỗi
cõi lòng. Ðêm, chúng tôi vẫn phải ngủ hầm, ngày sặc sụa nước mắt vì hơi
cay. Nhưng chúng tôi vẫn tin tưởng là tai nạn sắp chấm dứt. Buổi tối hôm
đó, trong bữa cơm, tôi mới dám đem chuyện ở sở báo tin có máy bay cho
má và anh tôi nghe. Má tôi khuyên:
“Con nên tìm cách đi sớm. Ngó Huế rứa chớ chưa yên mô, má thấy còn nhiều rủi ro lắm.”
Tôi biết má tôi muốn nói tới
những viên đạn lạc, những trái đại bác sai đường, những tiếng cú rúc ban
đêm, những bước chân dò dẫm mỗi buổi tối. Tôi nói với cả nhà:
“Ði như thế này, con chưa yên tâm. Con thoát một mình con thôi, rồi ở nhà lỡ xẩy ra chuyện gì…”
“Chuyện gì xẩy ra nữa thì cũng đành chịu. Số mạng mà em.”
Anh tôi nói. Ðôi mắt anh nhìn lên bàn thờ ba tôi. Ngọn nến vẫn le lói cháy và trầm hương vẫn thơm phức.
“Có lẽ sáng mốt con đi. Chiều mai, con phải về dưới Phù Lương ở lại. Sợ có chi bất trắc kẹt đường.”
“Lo trước vẫn hơn,” má tôi nói.
Mấy đứa cháu nhao nhao:
“Cô sợ súng, cô đi phải khôn cô?”
“Thế cháu có sợ súng không?”
“Mới bữa đầu sợ, về dưới ni, cháu hết sợ rồi.”
Ðêm đó, tôi không ngủ được. Chỉ
còn một đêm nay nữa, ngủ nơi ngôi nhà này, ngôi nhà mà tôi đã trở về
chịu tang cha để rồi chịu tang chung cho cả một thành phố, tôi có cảm
tưởng như trong đêm tối, ngoài vườn, vẫn còn đầy tiếng chân đi. Thỉnh
thoảng những tiếng rú, tiếng hét vẫn còn dội trong tiềm thức. Má tôi
cũng không ngủ, bà nằm bên cạnh, lần tay trong bóng tối tìm cổ tay tôi:
“Con ngủ đi cho khỏe con. Thức chi mà thức hoài.”
Tôi trở mình, thở ra, nói với má tôi:
“Súng bắn nhiều quá má.”
“Chắc bên thành nội.”
“Không biết trên Từ Ðàm đã đánh xong chưa?”
“Con yên tâm, trên nớ yên là mình về lấy đồ. Chắc cũng không mất mát nhiều đâu.”
“Má không tin là cái nhà đó đã sập à?”
Má tôi tin tưởng:
“Không, có sập cũng không đến nỗi.”
“Chuyến ni yên, má có định bỏ Huế không? Hay để con vô trong thu xếp mang cả nhà mình vô Sài Gòn luôn.”
“Không.”
Tiếng “không” má tôi trả lời mau,
không suy nghĩ. Bỏ làm sao được phải không má? Phải không Huế? Tôi
tưởng tượng ra ngôi mộ của ba tôi nằm trên sườn đồi, vây quanh giữa
những ngôi mộ ông tôi, bà tôi, chú tôi và những bà con thân thuộc khác.
Rồi ngôi vườn, căn nhà tôi đang sống đây nữa. Cả một đời người, sau bao
lần thất bại, ba tôi mới dựng nổi ngôi vườn, căn nhà này. Những cây cối
vẫn còn cố sống, dù vàng võ, xơ xác ở ngoài vườn kia, đều do bàn tay ba
tôi đã gầy dựng lên. Bây giờ ba tôi đã nằm xuống. Cùng với biến cố này
trong thành phố, bao nhiêu người nữa đã nằm xuống. Nhưng cây cối sẽ phải
tiếp tục mọc tiếp tục xanh, như sự chết của người dưới mồ phải tiếp
thêm sức lực cho sự sống của cỏ cây mọc tràn trên đất. Giọng má tôi vẫn
đều đều:
“Má nghĩ mình còn sống, mình còn gầy dựng lại được.”
Rồi bà nói sang chuyện khác:
“Con vô Sài Gòn nhớ tìm cách báo tin cho má biết gia đình trong đó ra răng.”
Tôi cam đoan với má tôi là ở Sài
Gòn yên tĩnh trở lại rồi, và tin tức nhận được là gia đình tôi vẫn yên
ổn. Nhưng má tôi vẫn thắc mắc:
“Vô, con nhớ làm cái hầm. Chuyến ni về phải làm cái hầm lại cho chắc chắn.”
Tôi dạ dạ vâng vâng cho má tôi
yên lòng. Ðêm đó tôi khóc âm thầm mãi. Nằm nghe tiếng súng nổ ran từ
phía bên kia thành nội, tiếng đại bác câu đều đều, âm thanh như đưa oan
hồn. Mai tôi bỏ Huế để đi một mình, để tìm bình yên một mình. Nhưng liệu
có còn chỗ nào bình yên? Quê hương, nơi nào cũng có máu, có lửa. Tôi
chúc cho Huế những gì đây?
Sáng hôm sau, Hà cùng với mấy cô
nhỏ ở chung nhà đi xe đạp, cố tìm đường lên Từ Ðàm. Nhưng đến xế trưa,
Hà trở về, mặt mũi đầy bụi. Nó nói: đường không thể nào đi được. Ở trên
đó đang đánh nhau dữ dội lắm. Các ngả đường lên xuống bị chận hết.
Tôi bận rộn sửa soạn để xuống Thanh Lam. Nói là sửa soạn chớ thật chả có gì, ngoài sự bịn rịn người thân trong nhà.
Trước khi đi, tôi với Hà đi một
vòng thăm xung quanh khu tôi ở. Lên nhà chú tôi, cả nhà đã đi tỵ nạn
dưới Phù Lương. Xung quanh hàng xóm trở về thưa thớt. Những ngôi nhà bị
trúng đạn càng ngày càng hư hại, hết sức tiêu điều. Ði vòng con đường
nhỏ này là ngả ra núi. Nơi đó, mộ chôn ba tôi. Nhưng không dám đi xa hơn
nữa.
Hai chị em xuống cầu An Cựu. Lính
Mỹ vẫn gác đầy, chúng tôi muốn đi xa hơn nhưng có người nói nguy hiểm
lắm. Khu trường Kiểu Mẫu vẫn còn bị ăn đạn bên kia sông bắn qua. Khi
chúng tôi về tới nhà, thấy trong nhà có người lạ. Một ông lão đang ngồi
uống nước và nói chuyện với cả nhà. Ông lão này có tới tám mươi tuổi. Má
tôi giải thích là ông ở một trong các căn nhà phía sau vườn. Con cháu
đã tản cư hết, chỉ còn một mình ông ở lại trong căn nhà đó từ ngày đầu
xảy ra tiếng súng tới giờ. Tôi tò mò hỏi thăm, nhưng hình như ông không
nghe gì hết, cứ hỏi một điều ông lại nói một chuyện khác. Một lúc sau,
tôi mới biết là ông vừa lòa vừa điếc. Tôi hỏi lớn:
“Cụ ở một mình lấy chi mà ăn?”
“Có chớ. Nhiều lắm. Tụi con cháu tui nó để lại bánh mì khô, bánh chưng, gạo nì…”
“Cụ không sợ súng sao?”
Câu hỏi này tôi phải hỏi tới hai ba lần, và làm dấu cụ già mới hiểu:
“Súng há? Ăn thua chi. Tui điếc mà, có nghe cũng như nghe tiếng bắp rang nổ rứa thôi.”
“Mấy ngày đầu cụ có gặp họ không?”
“Chi?”
“Gặp họ?”
“Họ là chi?”
“Việt cộng đó cụ.”
Tôi la lên đến khan cả cổ. Cụ già gật đầu ra vẻ hiểu:
“Ờ, ờ. Việt cộng. Có, có. Họ vô nhà thấy ông già thì mần chi ông già, ăn cứt ông già…”
Tôi đang buồn cũng không nhịn cười được. Ông cụ già lại kể:
“Cái tụi con cháu nói không được.
Tui biểu đừng có đi, cứ đi. Nghe nói trúng bom cả lũ chết hết rồi. Chết
hết để lợi một mình tui. Khổ thân chưa…”
“Chừ cụ tính răng?”
“Tui nghe bên ni về đông người,
muốn qua hỏi thăm tìm đường đi tìm xác tụi chúng. Khổ quá các bác, các
cháu ơi. Tui đã khuyên tụi nó đừng đi, nó không nghe. Như tui cứ ăn no
rồi nằm ngủ. Kệ súng kệ đạn, rứa mà có chết mô nà trời. Rứa mà tụi nó
khôn biết ma đưa lối quỷ dẫn đường chi mà bồng bế nhau đi hết.”
Má tôi khuyên:
“Ôn về nhà đi, đừng có đi tìm. Ai chết người ta cũng chôn hết rồi, biết mô mà tìm.”
Ông cụ già đưa tay dụi mắt:
“Chôn hết há? Chôn mô?”
“Chết mô người ta chôn ở đó.”
Tôi nhìn thấy hai giọt nước mắt
hiếm hoi chảy xuống trên gò má nhăn nheo của ông già. Ông không chào hỏi
ai, đi ra khỏi cửa. Tôi đi theo, đưa tay đỡ ông, ông để cho tôi đưa ông
về tới nhà.
Thật lạ lùng hết sức. Ngôi nhà
ông sập hết một nửa, lại đầy cả vết bom vết đạn. Vậy mà ông già không hề
hấn chi hết. Tôi chỉ những dấu đạn ở tường. Ông nói:
“Nó bắn đó.”
Ông lần tới gần bên vách tường sập:
“Cái nhà định đổ. Tui có nghe chi mô, chỉ có tiếng bình một cái, người tui hơi dội trở lên, mở mắt thấy cái nhà đổ rồi.”
Tôi thấy bên góc nhà mấy cái cờ
giải phóng đầy máu, một vài chú ruồi vẫn còn bâu ở đấy. Mấy chiếc cờ
tiết ra một mùi tanh khó ngửi. Thấy tôi nhìn, ông già giải thích:
“Của mấy ông giải phóng bỏ lại
đó. Mấy bữa đầu thôi thì chết, rồi bị thương tùm lum. Ðem vô đây, đó,
nằm ở góc nhà đó rồi khiêng đi, không biết đi mô nữa.”
“Bây giờ cụ sống với ai?”
“Một mình.”
“Lấy chi ăn?”
“Mai mốt yên, mình nhờ chính phủ chớ. Con cháu chết hết cả rồi. Mình nhờ chính phủ.”
Tôi chào ông cụ già rồi đi về.
Tới nhà đã thấy xe sở đợi sẵn. Má tôi đang đứng nói chuyện với mấy người
trong nhà, thấy tôi, má tôi chạy ra:
“Họ tới đón con rồi đó.”
Tôi ôm chầm lấy má tôi. Tôi muốn khóc mà không khóc được. Nhưng má tôi bật khóc dễ dàng:
“Thôi con vô sửa soạn mà đi.”
“Má.”
“Con sửa soạn đi đi…”
Giữa không khí hoang mang của
ngày giá rét, má tôi dường như đang gạt lệ, nhìn ngọn đồi cao trước mặt.
Trên đó, là phần mộ ba tôi.
Trước khi tôi đi, tôi thắp một
nén hương lên bàn thờ. Hình như tôi muốn khấn một điều gì đó, nhưng trí
nhớ của tôi thật hoàn toàn mù mịt.
Xách cái túi nhỏ. Ôm khóc vẫy
chào mọi người. Tôi đã ra đến lề đường. Chiếc xe nổ máy chờ sẵn. Ngay
trên đầu tôi, những chiếc máy bay không ngớt gầm thét, lượn vòng. Và ở
phía xa bên kia thành nội, những ụ khói bốc cao, quằn quại trong những
tiếng nổ tung vỡ.
Tôi thật sắp bỏ Huế rồi sao?
NHÃ CA
nguồn sưu tầm internet
nguồn sưu tầm internet
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire