Đã vào lịch sử chiến tranh Việt Nam,nay chúng ta đọc lại trang nhật ký này để tìm thấy và hiểu biết thêmvê con người và đất nước miền Nam Việt Nam những ngày tháng cũ.
Caroline Thanh Hương
HỒI KÝ CAM RANH _ Giao Chỉ, San Jose
Ông tướng hiền lành nhất của hải quân Việt Nam Cộng Hòa
ra đi cũng đơn giản như thời kỳ ông còn lái xe lunch để bà nhà bán cơm
trưa cho anh em làm hãng xưởng tại San Jose. Ông tướng cao lớn, đẹp
trai, hào hoa nhưng hiền lành và lương thiện. Sống giản dị, chết cũng
chẳng ồn ào.
Giao Chỉ, San Jose
Đầu tháng 12-2013 hải quân VNCH họp mặt tại San Jose. Ngoại trừ đô đốc Chơn, người địa phương, chẳng có ông tướng hải quân nào về tham dự. Lý do duy nhất là tuổi già, sức yếu. Ông phó đề đốc Diệp Quang Thủy ở San Mateo, ngay bên cạnh cũng không về được. Ông nói chuyện hải quân ra khơi qua điện thoại. Đó là kỳ phỏng vấn cuối cùng. Một tuần sau ngày đại hội ông qua đời. Vị tướng tham mưu trưởng hải quân mất ngày 6 tháng 12-2013, hưởng thọ 82 tuổi. Ngày 11tháng 12-2013 tôi đi dự tang lễ ở San Mateo. Anh em hải quân phủ cờ, nhưng chỉ có gia đình và thân hữu hiện diện. Ông tướng hiền lành nhất của hải quân Việt Nam Cộng Hòa ra đi cũng đơn giản như thời kỳ ông còn lái xe lunch để bà nhà bán cơm trưa cho anh em làm hãng xưởng tại San Jose. Ông tướng cao lớn, đẹp trai, hào hoa nhưng hiền lành và lương thiện. Sống giản dị, chết cũng chẳng ồn ào.
Cái chết của ông Thủy làm tôi nhớ lại chuyện của mình. Lần này tôi không viết nhiều về chuyện ra đi của ông tướng hải quân. Tôi viết về chuyện của tôi. Tựa đề Hồi ký Cam Ranh. Gần 40 năm trước, trên chuyến bay định mệnh từ Saigon ra Cam Ranh, chúng tôi ngồi chung 1 tàu. Sứ mạng vĩ đại được trung ương giao phó là tái trang bị cho binh sĩ của quân khu I và II về tập trung tại Cam Ranh. Ông xếp đại diện tổng tham mưu là thiếu tướng pháo binh Nguyễn xuân Trang. Tôi, đại tá Vũ văn Lộc phụ tá và lo về tiếp vận. Đại tá Trường lo về quân số. Đại tá Huy, tham mưu phó tiếp vận sư đoàn Dù lo cho lính mũ đỏ ở mặt trận Khánh Dương. Phó đề đốc Thủy là tham mưu trưởng lo việc hải quân. Trên tàu bay còn có 1 trung đội quân cảnh của tổng tham mưu để giữ trật tự. Mỗi vị đều có các sĩ quan tham mưu và cận vệ tháp tùng. Phần tôi có đại úy Nguyễn thế Đỉnh, gốc biệt động quân. Anh là quận trưởng, bị thương ở chi khu, mới đổi về tổng tham mưu. Tôi mang đi theo để có tay súng tác chiến yểm trợ ông thầy.
Tuy rằng chuyến bay ra Cam Ranh với tướng Trang và tướng Thủy là chuyến bay cuối cùng tháng 4-1975 nhưng không phải là chuyến bay đầu tiên của tôi. Trong cái giai đoạn đau thương của đất nước tôi đã lãnh công tác bay ra Nha trang ngày 15 tháng 3/1975. Công tác yểm trợ cho việc tái chiếm Ban Mê Thuột. Chắc anh em còn nhớ ông Thiệu họp hội đồng an ninh quốc gia tại Cam Ranh ngày 14 tháng 3/1975 cho lệnh rút quân đoàn II. Lúc đó đại tướng Viên đi họp về đã cho chuẩn tướng Thọ trưởng phòng 3 biết tin. Nhưng các xếp hoàn toàn giữ bí mật. Sáng 15 tháng 3/1975 bộ tư lệnh quân đoàn II đã bỏ cao nguyên mà phái đoàn tổng tham mưu của chúng tôi cứ phoong phoong lên máy bay ra Nha Trang như chuyến đi bình thường. Khi vào hậu cứ bộ tư lệnh của quân đoàn II ở Nha Trang đã thấy ông Phú đang telephone hò hét các cánh quân. Ông mới từ Pleiku về hôm trước. Bỏ lại anh bạn Cương Quyết Thủ Đức của tôi là đại tá Lê khắc Lý, tham mưu trưởng quân đoàn với cả miền cao nguyên đang hoảng loạn. Xem cung cách của vị tư lệnh Phú lúc đó đã thấy quân đoàn II đang vất vả lắm rồi. Chẳng kỳ vọng gì chuyện tái chiếm Ban mê Thuột. Anh bạn Cương Quyết Đà Lạt, đại tá Vũ Thế Quang, tư lệnh phó sư đoàn 22 đã bị giặc bắt đang trên đường Việt Cộng giải ra Bắc.Tôi lấy xe chạy qua ngã ba đường đèo lối vào quận Ninh Hòa. Đón được những chuyến xe đi sớm nhất từ Pleiku lọt được về duyên hải. Một xe jeep đậu bên đường. Anh tài xế bị thương bế 2 đứa nhỏ phía sau. Một tay trung úy lái xe mắt đỏ với bộ mặt đau thương giận dữ. Người đàn bà ngồi bên cạnh băng bó toàn thân. Tôi lại gần mới biết, người vợ đã chết được buộc ngồi vào ghế trưởng xa. Đầu ngả 1 bên. Anh trung úy thấy tôi đeo lon đại tá mang huy hiệu bộ tổng tham mưu, chợt buông tiếng chửi thề rồi lên xe chạy tiếp. Tôi nghĩ rằng mình sẽ đem tiếng chửi về lại bộ tổng tham mưu. Có thể gọi cả điện thoại cho đại tá Đỗ đức Tâm đang làm việc tại võ phòng, để trình lên tổng thống! Tôi quay về Nha Trang, nhưng không ghé vào quận Ninh Hòa. 38 năm sau mới biết nếu ghé Ninh Hòa, sẽ gặp trung tá Đỗ Hữu Nhơn đang ngồi tại quận này. Ông Nhơn, một đời đi lính lực lượng đặc biệt, 3 lần quận trưởng, bây giờ là thân hữu già cùng khóa Cương Quyết, cư ngụ tại San Jose.
HỒI KÝ CAM RANH _ Giao Chỉ, San Jose
(Trích trong tuyển tập Hồi Ký Giao
Chỉ. Cuộc đời chiến binh VNCH ai cũng có một ngày 30 tháng tư. Riêng kỳ
niệm của tôi lại bắt đầu vào tháng ba, tại Cam Ranh)
CHUYỆN HẢI QUÂN.
Đầu tháng 12-2013 hải quân VNCH họp mặt tại San Jose. Ngoại trừ đô đốc Chơn, người địa phương, chẳng có ông tướng hải quân nào về tham dự. Lý do duy nhất là tuổi già, sức yếu. Ông phó đề đốc Diệp Quang Thủy ở San Mateo, ngay bên cạnh cũng không về được. Ông nói chuyện hải quân ra khơi qua điện thoại. Đó là kỳ phỏng vấn cuối cùng. Một tuần sau ngày đại hội ông qua đời. Vị tướng tham mưu trưởng hải quân mất ngày 6 tháng 12-2013, hưởng thọ 82 tuổi. Ngày 11tháng 12-2013 tôi đi dự tang lễ ở San Mateo. Anh em hải quân phủ cờ, nhưng chỉ có gia đình và thân hữu hiện diện. Ông tướng hiền lành nhất của hải quân Việt Nam Cộng Hòa ra đi cũng đơn giản như thời kỳ ông còn lái xe lunch để bà nhà bán cơm trưa cho anh em làm hãng xưởng tại San Jose. Ông tướng cao lớn, đẹp trai, hào hoa nhưng hiền lành và lương thiện. Sống giản dị, chết cũng chẳng ồn ào.
Cái chết của ông Thủy làm tôi nhớ lại chuyện của mình. Lần này tôi không viết nhiều về chuyện ra đi của ông tướng hải quân. Tôi viết về chuyện của tôi. Tựa đề Hồi ký Cam Ranh. Gần 40 năm trước, trên chuyến bay định mệnh từ Saigon ra Cam Ranh, chúng tôi ngồi chung 1 tàu. Sứ mạng vĩ đại được trung ương giao phó là tái trang bị cho binh sĩ của quân khu I và II về tập trung tại Cam Ranh. Ông xếp đại diện tổng tham mưu là thiếu tướng pháo binh Nguyễn xuân Trang. Tôi, đại tá Vũ văn Lộc phụ tá và lo về tiếp vận. Đại tá Trường lo về quân số. Đại tá Huy, tham mưu phó tiếp vận sư đoàn Dù lo cho lính mũ đỏ ở mặt trận Khánh Dương. Phó đề đốc Thủy là tham mưu trưởng lo việc hải quân. Trên tàu bay còn có 1 trung đội quân cảnh của tổng tham mưu để giữ trật tự. Mỗi vị đều có các sĩ quan tham mưu và cận vệ tháp tùng. Phần tôi có đại úy Nguyễn thế Đỉnh, gốc biệt động quân. Anh là quận trưởng, bị thương ở chi khu, mới đổi về tổng tham mưu. Tôi mang đi theo để có tay súng tác chiến yểm trợ ông thầy.
Chúng
tôi xuống Cam Ranh rồi mỗi người đi 1 ngả. Những tưởng sẽ hẹn nhau trở
về Saigon. Nhưng rồi chỉ vài ngày sau tan hàng tại chỗ, chúng tôi
chẳng còn gặp lại nhau. Bây giờ đại tá Trường chết ở quận Cam, đại tá
Huy dù đã chết bên Texas, thiếu tướng Trang ở lại đi tù. Khi HO qua Mỹ
tôi có đón ông chuyển tiếp tại phi trường San Francisco. Ngày nay
chẳng biết tin tức ra sao. Còn ông đề đốc Thủy, dù cũng chẳng xa xôi gì
mà cũng không gặp mặt. Ai ngờ tôi gặp lại lúc đưa ông về chốn vô cùng.
DUYÊN NỢ CAM RANH.
Tuy rằng chuyến bay ra Cam Ranh với tướng Trang và tướng Thủy là chuyến bay cuối cùng tháng 4-1975 nhưng không phải là chuyến bay đầu tiên của tôi. Trong cái giai đoạn đau thương của đất nước tôi đã lãnh công tác bay ra Nha trang ngày 15 tháng 3/1975. Công tác yểm trợ cho việc tái chiếm Ban Mê Thuột. Chắc anh em còn nhớ ông Thiệu họp hội đồng an ninh quốc gia tại Cam Ranh ngày 14 tháng 3/1975 cho lệnh rút quân đoàn II. Lúc đó đại tướng Viên đi họp về đã cho chuẩn tướng Thọ trưởng phòng 3 biết tin. Nhưng các xếp hoàn toàn giữ bí mật. Sáng 15 tháng 3/1975 bộ tư lệnh quân đoàn II đã bỏ cao nguyên mà phái đoàn tổng tham mưu của chúng tôi cứ phoong phoong lên máy bay ra Nha Trang như chuyến đi bình thường. Khi vào hậu cứ bộ tư lệnh của quân đoàn II ở Nha Trang đã thấy ông Phú đang telephone hò hét các cánh quân. Ông mới từ Pleiku về hôm trước. Bỏ lại anh bạn Cương Quyết Thủ Đức của tôi là đại tá Lê khắc Lý, tham mưu trưởng quân đoàn với cả miền cao nguyên đang hoảng loạn. Xem cung cách của vị tư lệnh Phú lúc đó đã thấy quân đoàn II đang vất vả lắm rồi. Chẳng kỳ vọng gì chuyện tái chiếm Ban mê Thuột. Anh bạn Cương Quyết Đà Lạt, đại tá Vũ Thế Quang, tư lệnh phó sư đoàn 22 đã bị giặc bắt đang trên đường Việt Cộng giải ra Bắc.Tôi lấy xe chạy qua ngã ba đường đèo lối vào quận Ninh Hòa. Đón được những chuyến xe đi sớm nhất từ Pleiku lọt được về duyên hải. Một xe jeep đậu bên đường. Anh tài xế bị thương bế 2 đứa nhỏ phía sau. Một tay trung úy lái xe mắt đỏ với bộ mặt đau thương giận dữ. Người đàn bà ngồi bên cạnh băng bó toàn thân. Tôi lại gần mới biết, người vợ đã chết được buộc ngồi vào ghế trưởng xa. Đầu ngả 1 bên. Anh trung úy thấy tôi đeo lon đại tá mang huy hiệu bộ tổng tham mưu, chợt buông tiếng chửi thề rồi lên xe chạy tiếp. Tôi nghĩ rằng mình sẽ đem tiếng chửi về lại bộ tổng tham mưu. Có thể gọi cả điện thoại cho đại tá Đỗ đức Tâm đang làm việc tại võ phòng, để trình lên tổng thống! Tôi quay về Nha Trang, nhưng không ghé vào quận Ninh Hòa. 38 năm sau mới biết nếu ghé Ninh Hòa, sẽ gặp trung tá Đỗ Hữu Nhơn đang ngồi tại quận này. Ông Nhơn, một đời đi lính lực lượng đặc biệt, 3 lần quận trưởng, bây giờ là thân hữu già cùng khóa Cương Quyết, cư ngụ tại San Jose.
Trở
về tổng tham mưu tôi báo cáo tình hình cho các xếp. Nhưng xem ra tin
tức về chuyện rút quân cao nguyên đã rung động cả Saigon. Ai cũng biết tin tức đau thương qua bản tin của Nguyễn Tú đăng trên báo Chính Luận.
Hai
tuần sau đại tướng Viên ra lệnh cho tiền doanh tổng tham mưu lên
đường. Tướng Trang cao niên và hiền lành được cử làm trưởng phái đoàn,
đại tá Lộc mới đi về, coi bộ thuộc đường đi nước bước, được chỉ định
trở lại Cam Ranh. Đi lần này có tướng tham mưu trưởng hải quân, ông
Thủy. Có đại tá Dù, ông Huy. Có ông Trường, một tay ngon lành của TTM,
chuyên viên về quân số. Có hơn 20 anh quân cảnh. Xem ra có hy vọng gì
tái tổ chức được 2 quân đoàn và lập phòng tuyến thép. Ngồi trên phi cơ,
anh em chúng tôi không ai nghĩ là sẽ làm được chuyện phi thường.
Lúc
đó tỉnh trưởng Cam Ranh là đại tá Liễu, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy 5
tiếp vận và quân trấn Cam Ranh là đại tá Mai duy Thưởng. Qua đêm đầu
yên tĩnh. Buổi sáng tướng Trang nói với anh em là “moi” ngủ không yên.
Cứ hắt hơi suốt đêm. Ông tâm sự, ngày xưa lúc còn trong quân đội liên
hiệp Pháp, trước khi bị Nhật bắt “moi” cũng bị như thế này. Điềm rất
xấu. Ông thở dài. Chúng tôi cũng lại nghe thêm toàn tin xấu. Tin Đà
nẵng thất thủ, rồi đến Quy Nhơn tan vỡ. Tôi vui mừng được biết tại Quy
Nhơn hải quân vớt được anh em ở bộ chỉ huy 2 tiếp vận. Các hạm đội hải
quân tập trung về Cam Ranh. Máy bay C47 của đại tướng Viên bay ra dự
trù đón tướng Trưởng và phái đoàn TTM trở về. Nhưng ông Trưởng không
lên bờ và máy bay cũng không đáp xuống được. Phi trường khá đông người
và mất trật tự. Tôi gặp tướng Nhựt sư đoàn 2 từ chiến hạm lên thăm dò
tình hình Cam Ranh. Hỏi ông có cần trang bị gì cho sư đoàn. Ông quay ra
bến tầu, vừa đi vừa lắc đầu. Không tìm thấy đại tá Huy Dù, tôi bèn qua
trung tâm bảo toàn để tìm cách liên lạc với đơn vị yểm trợ tiền tuyến
bên cạnh mặt trận Khánh Dương. Chợt có tin một phi cơ C130 của không
quân đã đáp xuống đang chờ lệnh. Vội chạy ra phi trường. Ở đây đúng là
hỗn quân hỗn quan. Tin tức về phi trường nổi loạn ở Đà Nẵng và việc bắn
giết nhau trên bãi biển và ngay cả trên sà lan, trên tàu di tản đã tạo
không khí kinh hoàng cho Cam Ranh. Binh sĩ tan hàng từ chiến hạm lên
bờ tìm thực phẩm. Súng ống lựu đạn đầy người. Chẳng thấy sĩ quan chỉ
huy. Chỉ cần 1 hành động bất cẩn là tiêu tùng. Đặc biệt là không khí
căng thẳng giữa quân cảnh TTM với lính tổng trừ bị từ chiến trường hỗ
loạn chạy về. Một anh quân cảnh của chúng tôi đã bị chém ở bến tàu.
Các
anh phi công không tắt máy, vẫn ngồi trên ghế lái, dục dịch muốn bay
lên. Tôi cố trấn tĩnh đứng dưới sân bay dùng quân cảnh ngăn chận không
cho dân chúng tràn lên phi cơ. Cho lính tổng trừ
bị ưu tiên lên tàu trước. Đem tất cả các thương binh lên.Trật tự được
giữ yên, với các quân cảnh súng đeo vai, bình tĩnh làm việc. Lại cho
lệnh thủy quân lục chiến, nhẩy dù, biệt động quân, lính sư đoàn qua kho
quân tiếp vụ lấy lương thực rồi trở lại bến tàu. Kho quân tiếp vụ được
lệnh bỏ ngỏ cho lính lãnh hàng và tự do mặc sức khuân đi. Sau cùng tàu
bay vẫn còn đủ chỗ cho tất cả phái đoàn tổng tham mưu trở về cùng với
cả gia đình binh sĩ. Nhân dịp này tôi đưa được anh bạn cùng khóa là
trung tá Nguyễn đức Chung từ Đà Nẵng chạy về. Anh lên máy bay cùng với
cùng với tùy viên của tôi là đại úy Nguyễn thế Đỉnh.
Tôi
ở lại dẫn lính tổng trừ bị ra bến tàu. Cũng chẳng phải can đảm gì. Cái
thế phải như vậy. Nếu leo lên máy bay sớm là bị lính ba gai bắn chết
tại chỗ cùng với mấy anh quân cảnh.
Khi
trở về bộ chỉ huy 5 tiếp vận được biết ông trưởng đoàn đã cùng đại tá
Liễu tỉnh trưởng Cam Ranh bay trực thăng vào Phan Rang. Đại tá Mai duy
Thưởng cũng đã di tàn đường biển, cả bộ chỉ huy còn lại mình tôi với
đại tá Trường.
Anh
tài xế biệt phái lái xe cho tướngTrang hỏi thăm tôi bao giờ ông tướng
trở lại. Anh còn đi tìm ông đại tá chỉ huy trưởng để nhận lệnh. Mặc dù
lòng đang bấn loạn nhưng vẫn tỉnh táo nói rằng bây giờ tôi là người
chỉ huy ở đây. Anh tài xế vui vẻ chờ lệnh. Báo cáo về Saigon cho trung
tướng Khuyên,tham mưu trưởng liên quân. Trung tá chánh văn phòng Nguyễn
đình Bá nửa đùa nửa thật nói là xếp chỉ thị anh Lộc có điều động được
thì bây giờ làm chúa đảo kiêm Chỉ huy bộ chỉ huy tiếp vận, luôn cả tỉnh
trưởng Cam Ranh. Tôi ngao ngán nói rằng lệnh bổ nhiệm chậm trễ 3 năm.
Bây giờ “moi” tìm đường chạy qua hải quân gặp ông đề đốc Hoàng cơ Minh.
Tôi nói chuyện về tổng tham mưu hoàn toàn bạch văn chẳng có kiểu cách
gì. Lúc đó đã khuya rồi. Chưa tắt máy, chợt có tiếng anh thượng sĩ
truyền tin xen vào. Anh nói rằng, mấy hôm nay chúng em trên núi nghe
tiếng đại tá nói chuyện với bộ tổng tham mưu. Bây giờ không còn ai liên
lạc về Saigon, chúng em là siêu tần số truyền tin diện địa. Đại tá qua
bên kia dùng hệ thống hải quân, xin cho lệnh tụi em về. Tôi hỏi là có
xe từ trên núi xuống không. Anh ta nói là chúng em có 6 người truyền
tin và 1 tiểu đội địa phương quân. Xin cho chúng em rút. Tôi đồng ý cho
lệnh cả toán lấy tiêu lệnh triệt thoái ra mà thi hành. Phá hủy máy,
giấy tờ và đặc lệnh truyền tin. Ra lệnh rồi mà tôi cũng cứ băn khoăn,
nghĩ rằng mình hơi ẩu. Sau đó anh em chúng tôi còn lại đi 2 xe jeep
chạy qua trung tâm huấn luyện hải quân ở phía bên kia bán đảo. Cho lệnh
các anh tài xế và hộ tống tan hàng, không phải chờ đợi ai nữa. Từ bên
ngoài hàng rào, các anh lính biệt phái mới quen biết hai ngày cùng giơ
tay chào. Ngậm ngùi trông theo, thôi thì như vậy cũng đành. Đại tá
chạy, nhưng ông nói rằng ông chạy. Anh em không phải thắc mắc đợi chờ.
Quê em ở Ninh Hòa, mai này ông thầy có dịp trở lại ra quán vợ em mua
nem. Chúng nó nói đùa mà như có nước mắt.
CĂN CỨ HẢI QUÂN.
Phía
bên bộ binh tại Cam Ranh rối loạn bao nhiêu thì trong căn cứ hải quân
lại bình yên trật tự lạ lùng. Xem ra các chiến hạm khá nhiều mà không
thấy dân chúng ồn ào chen lấn.
Chúng
tôi ngồi uống nước buổi tối dưới hàng cây. Phía sân trước có 2 trực
thăng đậu sẵn. Tôi ngồi bàn tán chuyện thời sự với chuẩn tướng Thân và
trung tướng Thi bay từ Đà Nẵng về. Sẵn cơn tức giận pha lẫn đau thương
lo sợ, tôi phê phán tổng thống Thiệu thẳng thừng. Ông Thi đồng ý nhưng
ngồi yên lặng. Tướng Thân nguyên là tư lệnh sư đoàn 1 thời kỳ anh bạn
tôi là trung đoàn trưởng Nguyễn thế Nhã tử trận, chúng tôi cùng đưa đám
ở Mạc đỉnh Chi. Ông Thân rất cảm khái nói rằng các “toa” là đại tá còn
dám nói thực lòng, tổng thống đánh đấm thế này thì chết cả anh em.
Giấc
khuya cả 2 ông lên trực thăng bay vào Nam. Ông Minh gặp tôi nói: Sao
không theo mấy ổng lên trực thăng. Thôi bây giờ tàu dưới bến, anh muốn
đi chiếc nào thì đi. Tôi bắt tay ông Minh nghĩ rằng không biết bao giờ
sẽ gặp lại. Sáng hôm sau, xuống tàu, được biết ông Diệp quang Thủy đã
về trước rồi. Ông Minh di chuyển bằng tàu nhỏ. Trên mặt trận duyên hải,
xem ra chỉ còn mình ông Minh bình tĩnh giải quyết công việc.
Tôi
cùng sĩ quan bộ binh khác thuộc các đơn vị miền Trung di tản trên một
chiến hạm mà ngày nay chẳng còn nhớ con tầu nào. Sĩ quan chúng tôi lẫn
vào binh sĩ và dân chúng ngồi dưới sàn tầu. Buổi tối, tôi thảo điện văn
nhờ tàu gửi cho tư lệnh hải quân chuyển qua trung tướng tham mưu
trưởng liên quân. Ông hạm trưởng biết chuyện nể tình và cũng muốn giữ
an ninh nên đưa 2 ông đại tá tổng tham mưu lên boong tàu nằm cho đỡ
vất vả. Canh khuya, tôi chợt nghe thấy tiếng cười của cô nữ quân nhân
hải quân.Nằm phía ngoài hiên phòng lái chịu cơn gió đại dương thân thể
lạnh ngắt và đầu óc hết sức hoảng loạn cho một tương lai bất định. Mới
hơn 5 năm trước bay đêm trên trời Cam Ranh, nhìn xuống quân cảng đèn
sáng rực rỡ như thiên đường. Thương thuyền và chiến hạm đầy bến. Các
cầu tàu nhộn nhịp lên hàng. Không thể tưởng tượng có ngày Mỹ bỏ Cam
Ranh. Rồi đến VNCH cũng bỏ Cam Ranh. Đoàn tàu từ giã bến cảng 1 thời
nổi danh Đông Nam Á. Rồi tất cả rúc còi xuôi Nam. Tàu của tôi chở đầy
dân tỵ nạn nên không được vào Vũng Tàu. Phải chạy ra Phú Quốc.
Ngay
sau khi cặp bến lên tầu thì ngày hôm sau có tin cô thiếu úy xã hội của
hải quân bị rớt xuống biển. Đó lại là con gái của vị tư lệnh hải quân
đầu tiên. Đại tá Lê Quang Mỹ. Tôi vẫn nhớ tiếng cười của người nữ quân
nhân hải quân giữa trùng dương mấy hôm trước. Trên đưởng chạy giặc mà
sao vẫn nghe thấy tiếng cười của cô gái trong trẻo như pha lê.
Tôi
nhớ đến các cháu gái nhà tôi. Ba đứa nhỏ tuổi hoa niên đang học Gia
Long ở Sài Gòn. Rồi đây tương lai sẽ ra sao? Sau khi đến Phú Quốc vào
đêm khuya, sáng hôm sau tôi lên máy bay về Saigon. Việc đầu tiên là hỏi
thăm nhà của ông hạm trưởng để nhà tôi đem biếu hộp bánh với lời cảm
ơn. Tôi cũng có ý tìm hiểu xem vụ tai nạn có trở ngại gì không. Rồi đến
cuối tháng tư tôi thu xếp đem cả đơn vị xuống tầu quân vận ở bến Khánh
Hội mà chạy theo hải quân. Từ ngày đó không gặp lại đại tá Trường tổng
tham mưu. Không gặp lại đại tá Huy dù. Không gặp lại tướng Thủy. Các
ông bạn một thời chinh chiến lặng lẽ ra đi. Cùng ở nước Mỹ mà ra đi lúc
nào, ai có hay.
Nhưng
sau cùng tôi có dịp tiễn đưa ông Diệp Quang Thủy lần cuối. Dù bên
ngoài trông ông Thủy bình thản hiền lành nhưng thực ra những năm qua,
trong phạm vi kín đáo ông vẫn sinh hoạt nhiệt thành với các chính đảng
hướng về đại nghĩa quang phục quê hương. Chuyện này ngay anh em hải
quân cũng ít người biết đến. Ông Hoàng Cơ Minh một đời sôi nổi.
Từ mặt trận duyên hải cho đến kỳ hạm đội ra khơi lần cuối. Tiếp theo là
thời kháng chiến hay là chết. Sau cùng ông đã hy sinh tại Hạ Lào. Đề
đốc Thủy kín đáo hơn, nhưng vẫn 1 lòng nghĩ về quê hương cho đến giây
phút cuối cùng. Hai ông hải quân mỗi người đeo một sao. Một ông người
Bắc, một ông Nam Kỳ. Cả 2 ông đều làm tôi nhớ lại Cam Ranh. Trên sân
khấu của đại hội hải quân ngày 1 tháng 12-2013 tôi có dịp kể chuyện Cam
Ranh và ngỏ lời cảm ơn ông hạm trưởng con tầu tháng tư đã chở tôi về
Phú Quốc mà thực sự tôi đã quên tên. Chỉ còn nhớ chuyện cô gái chết rất
đau thương. Tối qua, tìm được điện thoại, ngay tại San Jose từ hơn 30
năm qua, anh em mới có dịp hàn huyên. Tôi mới được biết con tầu đầy kỷ
niệm là HQ.500 của ông hạm trưởng trung tá Lê Quang Lập, quê Phan Rang,
xứ sở của ông Thiệu. Danh hiệu hết sức tình cảm của HQ 500 lại là
Dương vận hạm Cam Ranh. Sự tình cờ làm đậm đà cho bài hồi ký 38 năm
sau.
Nhớ
mãi ông Trường TTM, ông Huy Dù, ông Thủy hải quân và tôi trong chuyến
bay buổi sáng đầu tháng tư, năm 75. Ông Trang ngồi trong phòng lái. Anh
em mình ngồi một dãy bên nhau, tin tan hàng mất đất dồn dập, chẳng ai
nhìn thấy tương lai. Tuy nhiên không ai biết rằng đến lượt Cam Ranh,
chỉ còn đứng vững ba ngày rồi tan ra như lửa thiêu nước đá. Chẳng thấy
bóng quân thù. Không một tiếng súng. Các binh đoàn cứ mờ dần như đang
mộng du. Lúc đó chúng tôi 20 tuổi học trò, 20 tuổi lính, 40 tuổi đời.
Gần 40 năm sau, chỉ còn mình tôi ngồi nhớ khung trời Cam Ranh mà chẳng
biết bây giờ các ông ở đâu.
Giao Chỉ, San Jose.
nguồn net từ Hải Ngoại Phiếm Đàn
Giao Chỉ, San Jose
Đại tá Vũ Quang, người khách lạ ở lại San Jose.
Thời kỳ trước 75, chúng tôi có nghe tiếng Đại tá Vũ Quang, nhưng không có dịp gặp gỡ. Dù sao ông cũng là niên trường đi trước 2 năm. Ông thuộc họ Vũ miền Cự Đà, tỉnh Hà Đông. Tôi là họ Vũ, tỉnh Nam Định. Chỉ biết qua loa thời kỳ đi thuyết trình tại trường Cao Đẳng Quốc Phòng. Sang đất Mỹ, chúng tôi cùng làm với ông Vũ Khiêm tại cơ quan IRCC, San Jose. Có nghe nhắc đến ông Quang lập nghiệp bên Minnesota. Ông Quang là anh ruột Vũ Khiêm.
Mới đây được bác Trịnh Tùng không quân, cũng dân Cự Đà báo tin anh Quang mất tại San Jose. Như vậy ông Quang chỉ là khách vãng lai, con chim di tản 40 năm trước từ xứ lạnh về Cali trốn tuyết rồi bỗng ở lại đây luôn. Xúc động trong cảnh chiến binh cao niên lần lượt ra đi, tôi hỏi thăm chị Bạch Tuyết xin tấm hình để thông báo cho chiến hữu bốn phương. Chị Tuyết giới thiệu qua anh Vũ Thượng Đôn là vai anh họ. Anh Đôn cho mượn cuốn hồi ký của tác giả kể chuyện đường đi từ con sông Nhuệ mà sang đến sông Mississippi. Cuốn sách nầy tác giả phát hành cho gia đình và bằng hữu, không bán.
Đọc hết tác phẩm 237 trang trong 3 giờ. Tôi bị lôi cuốn và phải khen ngợi tác giả dù đã chậm mất cả tuần. Tôi không ngờ cuộc đời của anh ông Vũ Khiêm lại hấp dẫn như thế. Bạn Vũ Quang rõ ràng là người có khả năng, có thiện chí và có thời vận, sau cùng anh bắt nắm được thời vận. Thời vận trong quân đội. Đời quân ngũ của ông trải qua rất nhiều hoàn cảnh. Xuất thân khóa 6 Võ bị Đà Lạt giữa lúc chiến tranh Việt Nam diễn tiến khắp các mặt trận. Ngay khi còn là cấp úy đã tham dự các chiến trường khốc liệt tại Bắc Việt.
Một chi tiết hết sức đặc biệt là Trung úy Quang là Đại đội trưởng Đại đội trước đó đã từng được chỉ huy bởi Trung úy Bernard de Lattre là con trai của danh tướng Pháp Jean de Lattre de Tassigny. Bernard đã tử trận tại Ninh Bình. Anh Quang còn giữ các di vật của Bernard sau trả cho gia đình bên Pháp. Suốt của đời binh nghiệp, Đại tá Quang đã từng có cơ hội làm việc trực tiếp với các vị lãnh đạo quốc gia từ Tổng thống Diệm, Tổng thống Thiệu và hầu hết các vị Tướng lãnh QLVNCH.
Ngoài ra ông cũng có quá nhiều cơ hội sống bên cạnh các biến chuyển quốc gia đại sự trong suốt 25 nằm dài trong chiến tranh từ Bắc vào Nam. Với lời văn đơn giản và trong sáng, tác giả kể chuyện đời mình bao gồm quê hương, quân ngũ, tình yêu,chiến hữu và gia đình hết sức thành thực với niềm tự hào đáng ghi nhận của một người quân nhân xứng đáng với những danh từ Danh Dự, Tổ Quốc và Trách Nhiệm.
Tôi mong rằng tác phẩm này nên có dịp phổ biến rộng rãi hơn để các độc giả biết rõ về người viễn khách đã chợt một lần nằm lại San Jose.
Tôi viết bài này để tưởng nhớ cả người anh lẫn người em: Ông Đốc phủ sứ Vũ Khiêm của IRCC, San Jose và ông Đại tá Vũ Quang của Ngày Nay Minnesota.
Xin chia buồn cùng chị Bạch Tuyết và tang gia. Phải mà tôi được đọc sách của anh năm trước, đã có dịp ghé lại nói chuyện nhiều hơn. Rất tiếc. Thôi cũng đành. Tôi biết anh đi chẳng trở về.
Vũ văn Lộc,
(Trại Trần Hưng Đạo, TTM).
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire