Caroline Thanh Hương
Bài số 2
Lời thú tội của một sát thủ kinh tế - Phần 2
Tiểu sử John Perkins. 146 ******
Ghi chú. 148 ******
Về tác giả. 155
========================================
LỜI TỰA Những sát thủ kinh tế (EHMs) là những chuyên gia được trả lương hậu hĩnh để đi lừa các nước trên khắp thế giới lấy hàng nghìn tỷ đôla. Họ đổ tiền từ Ngân hàng Thế giới, Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) và các tổ chức “viện trợ” nước ngoài khác vào két sắt của các tập đoàn khổng lồ và vào túi của một số ít các gia đình giàu có – những người đang nắm quyền kiểm soát các nguồn tài nguyên thiên nhiên của hành tinh này. Công cụ của họ là các báo cáo tài chính gian lận, những vụ bầu cử gian trá, các khoản hối lộ, tống tiền, tình dục và giết người. Họ diễn một trò cũ của chủ nghĩa đế quốc, song đã biến đổi theo những chiều hướng mới đáng ghê sợ hơn trong thời đại toàn cầu hóa. Tôi biết điều này; tôi đã từng là một EHM. Tôi viết những dòng đó vào năm 1982 để mở đầu cho cuốn sách có tiêu đề là Lương tâm của một sát thủ kinh tế.
Cuốn sách này dành tặng cho hai vị tổng thống của hai nước đã từng là khách hàng của tôi, những người mà tôi đã kính trọng và luôn coi như ruột thịt – Jaime Roldós (Tổng thống Êcuađo) và Omar Torijos (Tổng thống Panama). Cả hai đã mất trong những vụ tai nạn khủng khiếp. Cái chết của họ không phải là ngẫu nhiên. Họ bị ám sát vì họ đã đứng lên chống lại phe phái các công ty, chính phủ và các trùm ngân hàng, những người có chung mục tiêu là thống trị toàn cầu. Những sát thủ kinh tế chúng tôi đã không thể mua chuộc được Roldós và Torrijos, và vì thế một loại sát thủ khác, những tên giết người thực sự của CIA, những kẻ luôn đi sau chúng tôi, đã vào cuộc. Người ta đã thuyết phục tôi không viết cuốn sách đó nữa. Trong 20 năm tiếp sau đó, tôi đã bốn lần bắt tay vào viết tiếp. Lần nào cũng là do tôi bị chứng kiến những sự kiện đang xảy ra trên thế giới: đó là cuộc xâm lược Panama của Mỹ năm 1989, chiến tranh vùng vịnh lần thứ nhất, sự kiện ở Somalia, sự xuất hiện của Osama bin Laden. Nhưng rồi những lời đe dọa hay những khoản đút lót lại níu chân tôi. Năm 2003, Chủ tịch một nhà xuất bản lớn thuộc một tập đoàn quốc tế hùng mạnh đã đọc bản thảo của cuốn sách mà giờ đây có tên là Lời thú tội của một kẻ sát thủ kinh tế. Ông ta đã mô tả nó như “Một câu chuyện mê ly và cần phải được kể lại”. Nhưng rồi ông ta cười buồn bã, gật đầu và nói với tôi rằng, vì các nhà quản lý tại những cơ quan đầu sỏ thế giới có thể sẽ phản đối nên ông ta không dám mạo hiểm xuất bản nó. Ông ta gợi ý tôi viết nó lại dưới dạng một tiểu thuyết. “Chúng tôi có thể quảng bá ông như một tiểu thuyết gia kiểu John Le Carré hoặc Graham Greene.” Nhưng đây không phải là một cuốn tiểu thuyết. Nó là một câu chuyện thực về cuộc đời tôi. Một nhà xuất bản khác dũng cảm hơn, chẳng thuộc một tập đoàn quốc tế nào, đã đồng ý giúp tôi kể lại nó. Câu chuyện này phải được kể ra. Chúng ta đang sống trong thời đại của những cuộc khủng hoảng trầm trọng - và cả của những cơ hội vô cùng lớn lao. Câu chuyện về sát thủ kinh tế này kể lại công việc chúng tôi đã vươn tới vị trí hiện tại như thế nào và tại sao giờ đây chúng tôi phải đối mặt với những cuộc khủng hoảng tưởng chừng không thể vượt qua. Cần phải kể ra câu chuyện này bởi vì chỉ khi chúng ta hiểu ra những sai lầm trong quá khứ, chúng ta mới có thể tận dụng những được những cơ hội trong tương lai; bởi sự kiện 11/9 đã xảy ra, và chiến tranh Iraq lần thứ 2 cũng đã xảy ra; bởi vì ngoài 3000 người đã chết vào ngày 11/9/2001, mỗi ngày còn có thêm 24000 người chết đói, vì họ không thể kiếm nổi thức ăn(1) . Quan trọng nhất là, câu chuyện này cần phải được kể ra vì đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một quốc gia có đủ khả năng, tiền bạc và quyền lực để thay đổi tất cả những điều này. Đó là quốc gia đã sinh ra tôi và tôi đã từng phụng sự với vai trò là một EHM : Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Vậy cuối cùng cái gì đã khiến tôi lờ đi mọi mối đe dọa và những khoản hối lộ? Câu trả lời ngắn gọn là con gái duy nhất của tôi, Jessica, đã tốt nghiệp đại học và đang bước vào thế giới bằng chính đôi chân của nó. Gần đây khi tôi nói với nó rằng tôi đang cân nhắc có nên xuất bản cuốn sách này không và nói cho nó về nỗi sợ của tôi, nó đã nói “Đừng sợ, cha à. Nếu như họ bắt cha, con sẽ tiếp tục những gì cha để lại. Chúng ta cần phải làm điều này cho những đứa cháu mà con hy vọng sẽ sinh cho cha sau này!”. Đó là một câu trả lời ngắn gọn. Câu trả lời dài hơn liên quan đến sự cống hiến của tôi cho đất nước tôi lớn lên, liên quan đến tình yêu của tôi với những lý tưởng mà ông cha tôi, những người khai quốc đã tuyên bố từ ngày thành lập nước, liên quan đến lời cam kết chắc chắn của tôi với một nước Mỹ mà hiện đang hứa hẹn những điều về “cuộc sống, quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc” cho tất cả mọi người, ở mọi nơi và liên quan đến cả quyết tâm sẽ không chịu ngồi yên nữa sau khi xảy ra sự kiện 11/9, khi mà các EHMs đang biến nền Cộng hòa đó thành một đế chế toàn cầu. Đó là những nét phác họa về nội dung của câu trả lời dài hơn; chi tiết cụ thể sẽ được trình bày ở những chương tiếp theo. Đây là một câu chuyện thực. Tôi đã trải qua từng giây phút của câu chuyện này. Cảnh vật, con người, những cuộc đối thoại và những cảm giác mà tôi miêu tả đều là một phần trong cuộc sống của tôi. Mặc dù đó là câu chuyện về cuộc đời riêng của tôi, nhưng được đặt dưới bối cảnh của các sự kiện thế giới lớn lao đã làm nên lịch sử của chúng ta, đã đưa chúng ta đến vị trí hiện tại và xây dựng nên nền tảng cho tương lại của con cháu chúng ta. Tôi đã hết sức cố gắng truyền đạt lại những gì tôi đã trải qua, những con người, những cuộc hội thoại đó một cách chính xác. Mỗi khi bàn về một sự kiện lịch sử hoặc tái tạo lại các cuộc đối thoại với người khác, tôi đều dùng đến nhiều công cụ như: những tài liệu đã xuất bản; những hồ sơ và ghi chép cá nhân; các sưu tập - của tôi và của những người đã từng tham gia; 5 bản thảo tôi đã bắt đầu trước đó; những tài liệu lịch sẻ của các tác giả khác, trong đó đáng chú ý nhất là những tài liệu xuất bản gần đây, có tiết lộ các thông tin mà trước đó được coi là mật hoặc không tồn tại. Các tài liệu tham khảo được liệt kê ở phần cuối để giúp những độc giả quan tâm có thể tìm hiểu sâu hơn về những đề tài này. Nhà xuất bản hỏi tôi liệu chúng tôi có thực sự coi mình là những sát thủ kinh tế không. Và tôi cam đoan với họ rằng chúng tôi thực sự nghĩ như vậy, mặc dù thường chỉ qua những từ viết tắt. Thực tế, vào cái ngày của năm 1971 khi tôi bắt đầu làm việc với “cô giáo” tôi, Claudine, cô đã cho tôi biết “Nhiệm vụ của tôi là huấn luyện anh trở thành một sát thủ kinh tế. Không ai được biết về công việc thật sự của anh – thậm chí cả vợ anh”. Rồi cô ấy nghiêm giọng: “Một khi anh đã dấn thân vào con đường này, anh sẽ không còn đường lui.” Từ đó trở đi, ít khi cô ta dùng tên đầy đủ; chúng tôi chỉ đơn giản là những EHMs. Vai trò của Claudine là một ví dụ hấp dẫn về những mánh khóe thao túng đã làm nên nghề nghiệp của tôi. Đẹp và thông minh, cô thực sự có ảnh hưởng sâu sắc; cô ấy biết các điểm yếu của tôi và tận dụng chúng một cách tôi đa. Nghề nghiệp của cô và cách thức cô thực hiện nó là một thí dụ về sự khôn ngoan của những con người đằng sau hệ thống này. Claudine chưa nói thẳng hết về những gì mà tôi phải làm. Cô ấy nói, công việc của tôi: “khích lệ các nhà lãnh đạo trên thế giới trở thành một phần của cái mạng lưới khổng lồ được dựng nên để củng cố các lợi ích thương mại của Mỹ. Rút cục, những nhà lãnh đạo này sẽ rơi vào gánh nặng của nợ nần và điều này sẽ đảm bảo cho lòng trung thành của họ với Mỹ. Chúng tôi có thể nhờ đến họ bất cứ khi nào chúng tôi cần_để đạt được những nhu cầu về quân sự, chính trị hay kinh tế. Đổi lại, họ củng cố địa vị chính trị của mình bằng việc xây dựng những khu công nghiệp, các nhà máy điện và sân bay cho nhân dân của họ. Những ông chủ của các công ty kỹ thuật_xây dựng sẽ trở nên giàu có một cách khó tin”. Ngày nay chúng ta có thể thấy những kết quả mà cái hệ thống này sản sinh ra bắt đầu quay cuồng. Các vị lãnh đạo ở những công ty được kính trọng nhất đang thuê nhân công với mức lương gần như cho nô lệ để làm quần quật trong những điều kiện làm việc phi nhân đạo tại những xí nghiệp chuyên bóc lột công nhân hết sức tàn tệ ở Châu Á. Các công ty dầu lửa cố tình đổ các chất độc hại xuống các dòng sông trong vùng rừng rậm nhiệt đới, giết chết con người, động vật và thực vật một cách có chủ ý và hủy diệt các nền văn hóa cổ xưa. Ngành công nghiệp dược từ chối cung cấp thuốc men để cứu sống hàng triệu người Châu Phi nhiễm HIV. 12000000 gia đình ở ngay chính nước Mỹ cũng đang phải lo kiếm ăn hàng ngày(2) . Ngành năng lượng thì sản sinh ra Eron. Ngành kế toán lại sản sinh ra Adersen. Nhớ năm 1960, thu nhập của 1/5 dân số các nước giàu nhất thế giới chỉ gấp 30 lần thu nhập của 1/5 các nước nghèo nhất thế giới, thì đến năm 1995 khoảng cách này đã tăng lên 74 lần(3) . Nước Mỹ đã tiêu tốn 87 tỷ USD cho cuộc chiến ở Iraq, trong khi đó Liên Hợp Quốc ước tính chỉ cần chưa đến một nửa số tiền đó là chúng ta có thể mang lại nước sạch, khẩu phần ăn đầy đủ, dịch vụ y tế và giáo dục cơ bản cho tất cả mọi người trên hành tinh này(4) . Và chúng tôi tự hỏi, tại sao những kẻ khủng bố lại tấn công chúng tôi? Một số người đổ lỗi cho việc chúng tôi mắc phải những vấn đề như hiện nay là do một âm mưu có tổ chức. Tôi ước gì nó chỉ đơn giản như vậy. Các thành viên của một âm mưu có thể bị phanh phui và đưa ra xét xử. Song, những gì thực sự đang nuôi dưỡng hệ thống này còn nguy hiểm hơn cả âm mưu. Nó không do một nhóm người nhỏ lẻ nào điều khiển mà nó chịu sự chi phối của một khái niệm đã được coi là chân lý: đó là ý tưởng cho rằng mọi sự tăng trưởng kinh tế đều có lợi cho mọi người và rằng càng tăng trưởng thì lợi ích càng lớn. Đức tin cũng dẫn tới một hệ quả cho rằng, những người có khả năng tạo ra tăng trưởng phải được khen ngợi và trả công, còn những kẻ khốn cùng sinh ra là để bị bóc lột. Tất nhiên khái niệm này là hoàn toàn sai lầm. Chúng ta biết rằng ở rất nhiều nước, tăng trưởng kinh tế chỉ đem lại lợi ích cho một bộ phận nhỏ người dân và thực ra đẩy đa số những người còn lại đến bờ tuyệt vọng. Ảnh hưởng này còn sâu sắc hơn bởi một niềm tin tất yếu rằng những người lãnh đạo dẫn dắt toàn bộ hệ thống phải có một vị trí đặc biệt. Chính niềm tin này là gốc rễ của nhiều vấn đề mà chúng ta đang phải đối mặt và có lẽ cũng là lý do tại sao lại có đầy rẫy các lý thuyết về âm mưu. Khi con người được thưởng vì lòng tham thì sự tham lam sẽ trở thành một động lực tồi tệ. Khi chúng ta coi việc tiêu dùng vô độ các tài nguyên thiên nhiên trên Trái đất là thánh thiện, khi chúng ta dạy con trẻ bắt chước những người đang sống những cuộc sống thiếu lành mạnh, và khi chúng ta định rõ rằng, một phần đông dân số phải quy lụy, phụ thuộc vào một số ít kẻ thuộc tầng lớp cao quý, chúng ta đã tự rước lấy tai họa. Và chúng ta đã gặp tai họa. Trong quá trình tiến tới nền đế chế toàn cầu, các tập đoàn, ngân hàng và chính phủ (gọi chung là tập đoàn trị) đã dùng tiềm lực tài chính và chính trị của họ để đảm bảo rằng, các trường học, giới doanh nhân và các phương tiện truyền thông đều phải ủng hộ khái niệm sai lầm này và hậu quả tất yếu của nó. Họ đẩy chúng ta tới một tình trạng mà ở đó nền văng minh tòan cầu của chúng ta trở thành một cỗ máy quái dị. Lượng nhiên liệu và chi phí bảo dưỡng mà hàng ngày nó đòi hỏi tăng theo cấp số nhân, cuối cùng sẽ ngốn hết những gì có trong tầm mắt và chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc tự hủy diệt mình. Chế độ tập đoàn trị không phải là một âm mưu nhưng các thành viên của nó đã thống nhất theo đuổi những mục tiêu và giá trị chung. Một trong những chức năng quan trọng nhất của chế độ tập đoàn trị là duy trì, không ngừng mở rộng và củng cố hệ thống này. Cuộc sống của những người “tạo ra nó” và gia tài của họ – biệt thự, thuyền buồm, máy bay riêng- được phô bày như những hình mẫu nhằm kích thích tất cả chúng ta tiêu dùng, tiêu dùng và tiêu dùng. Người ta lợi dụng mọi cơ hội để thuyết phục chúng ta rằng mua sắm đồ đạc là trách nhiệm công dân, rằng cướp phá Trái đất là có lợi cho nền kinh tế và do đó sẽ phụng sự cho những lợi ích cao cả. Những người như tôi được trả lương cao đến kỳ quặc để phục tùng hệ thống. Nếu chúng tôi chùn bước, sẽ có một hạng sát thủ còn tàn nhẫn hơn, những tên chó săn giết người, sẽ lại bước lên vũ đài. Và nếu chúng cũng thất bại, thì quân đội sẽ phải làm việc đó. Cuốn sách này là lời thú tôi của người từng là thành viên của một nhóm không nhiều người, từ thời tôi còn là một EHM. Ngày nay, những người có vai trò tương tự như vậy rất nhiều. Họ mang nhiều chức danh ẩn hơn. Có thể tìm thấy họ tại hành lang của các tập đoàn Monsanto, General Electric, Nike, General Motors, Wal-Mart, và hầu hết các tập đoàn lớn khác trên thế giới. Thực chất thì Lời thú tội của một sát thủ kinh tế chính là câu chuyện của họ cũng như của tôi. Đó là câu chuyện của các bạn, câu chuyện về thế giới của bạn và của tôi, câu chuyện về một vấn đề toàn cầu thực sự đầu tiên trong lịch sử. Lịch sử cho chúng ta biết, nếu chúng ta không sửa chữa câu chuyện này, chắc chắn nó sẽ có một kết cục bi thảm. Các đế chế không bao giờ trường tồn. Các đế chế đều đã thất bại thảm hại. Chúng phá hủy rất nhiều nền văn hóa, trong khi chạy đua để có được quyền thống trị lớn hơn và rồi sụp đổ. Không một quốc gia nào hoặc một nhóm quốc gia nào có thể phát triển lâu dài dựa vào việc bóc lột quốc gia khác. Cuốn sách này được viết ra để chúng ta nhận ra vấn đề và sửa chữa lại câu chuyện của chúng ta. Tôi chẳc rằng, khi nhiều người trong chúng ta nhận thức được rằng, chúng ta đang bị cỗ máy kinh tế bóc lột- cỗ máy đó đang khơi gợi lòng tham vô độ đối với các tài nguyên trên thế giới và thúc đẩy chế độ nô lệ- chúng ta sẽ không bao giờ tha thứ cho nó. Chúng ta sẽ đánh giá lại vai trò của chúng ta trong một thế giới mà ở đó, chỉ có một số ít người đang bơi trong sự giàu sang, số đông còn lại bị nhấn chìm trong nghèo đói, ô nhiễm và bạo lực. Tự chúng ta sẽ không thể không hướng tới lòng bác ái, nền dân chủ, và công bằng xã hội cho tất cả mọi người. Thừa nhận vấn đề là bước đầu tiên để tìm ra giải pháp. Thú nhận tội lỗi là bước đầu tiên của sự hối cải. Do vậy, hãy để cuốn sách này là khởi đầu cho việc cứu vớt linh hồn của chúng ta. Hãy để nó truyền cho chúng ta nghị lực để có được những cống hiến mới và giúp chúng ta biến giấc mơ của mình về một xã hội công bằng và cao thượng thành hiện thực. Nếu như không có những người mà tôi đã cùng sống và chia sẻ, và những người mà những trang tiếp theo của cuốn sách này sẽ mô tả, thì có lẽ sẽ không bao giờ có được cuốn sách này. Tôi biết ơn những kinh nghiệm và bài học mà tôi có được từ họ. Hơn nữa, tôi xin cảm ơn những người đã khuyến khích tôi vượt qua tất cả và kể ra câu chuyện này, đó là: Stephan Rechtchaffen, Bill và Lynne Twist, Ann Kemp, Art Roffey, và còn rất nhiều người nữa đã từng tham gia các cuộc hành trình “Thay đổi giấc mơ” và các hội thảo đặc biệt là những người đã cùng tạo điều kiện cho tôi, Ever Bruce, Lyn Roberts- Herrick, Mary Tendall, người vợ tuyệt vời của tôi, người bạn đời của tôi trong suốt 25 năm- Winifred, và con gái Jessica của tôi. Tôi biết ơn những người đã truyền cho tôi những thông tin và hiểu biết riêng về các ngân hàng đa quốc gia, các tập đoàn quốc tế và những ẩn ý chính trị của nhiều quốc gia; tôi đặc biệt cảm ơn Michael Ben-Eli, Sabrina Bologni, Juan Gabriel Carrasco, Jamie Grant, Paul Shaw và rất nhiều người khác, những người tuy không nêu danh tính song họ biết họ là ai. Khi tôi viết xong bản thảo, Steven Piersanti, người sáng lập Berrett-Koehler, không những đã dũng cảm đón nhận tôi mà còn dành rất nhiều thời gian để biên tập lại cuốn sách, giúp tôi chấp nối cuốn sách và hoàn thiện nó. Tôi đặc biết cảm kích Steven, Richard Perl, những người đã giới thiệu tôi với Steven Piersanti, đồng thời tôi cũng cảm ơn Nova Brown, Randi Fiat, Allen Jones, Chris Lee, Jennifer Liss, Laurie Pelloushoud, Jenny Williams, những người đã đọc và cho nhận xét về bản thảo của tôi; tôi cảm ơn David Korten người không chỉ đọc bản thảo và nhận xét giúp tôi mà còn giúp tôi vượt qua khó khăn để đáp ứng cho được những tiêu chuẩn tuyệt vời của ông; tôi cảm ơn Paul Fedorko, người quản lý của tôi; cảm ơn Valerie Brewster đã thiết kế cuốn sách này; cảm ơn Todd Manza, người biên tập, sửa bản in, một tác gia và triết gia tài năng. Tôi đặc biệt tỏ lòng biết ơn Jeevan Sivasubramanian, nhà biên tập Berrett-Koeler, Ken Lupoff, Rick Wilson, María Jesús Aguiló, Pat Anderson, Marina Cook, Michael Crowley, Robin Donovan, Kristen Frantz, Tiffany Lee, Catherine Lengronne, Dianne Platner, tất cả nhân viên của BK, những người ý thức được về sự cần thiết phải năng cao ý thức, những người luôn làm việc không mệt mỏi để làm cho thế giới này tốt đẹp hơn. Tôi phải cảm ơn tất cả những người đã cùng làm việc với tôi ở MAIN và không hề biết về vai trò của mình trong việc giúp EHM hình thành nên một đế chế toàn câu. Tôi đặc biệt cảm ơn những ai đã làm việc cho tôi, những người đã cùng tôi đi đến những vùng đất xa xôi và chia sẻ những khoảnh khắc vô giá. Tôi cũng cảm ơn Ehud Sperlling và nhân viên của ông ở Inner Traditions International, người xuất bản những cuốn sách về các nền văn hóa bản địa và Saman giáo trước đây của tôi; cảm ơn những người bạn đã khuyến khích tôi trên chặng đường trở thành tác giả của cuốn sách này. Tôi cũng không thể không biết ơn những người đã mời tôi tới nhà họ trong những khu rừng, những sa mạc, những vùng núi, trong những ngôi lều tạm bằng bìa các tông dọc theo những con kênh ở Jakarta và những ngôi nhà ổ chuột ở vô số những thành phố khác trên khắp thế giới, những người đã chia sẻ cùng tôi thức ăn và cuộc sống của họ, và đã trở thành nguồn cảm hứng lớn nhất của tôi. John Perkins Tháng 8/2004
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire