Tháng
Tám năm 1963, anh Thu Mim qua đời. Gia đình tôi được tin anh mất vào
một chiều Chủ Nhật, Ba Má tôi không có nhà, ông bà đang đi dự một buổi
tiệc cưới. Người đưa tin, hai người quen ở nhà thờ, nhận được cú điện
thoại từ Đà Nẵng gọi vào và đến nhà báo
tin cho gia đình chúng tôi. Họ
đứng nơi ngưỡng cửa nói chuyện, nhưng từ chối không ở lâu. Họ nói riêng
với anh Đa Vít, người em kế của anh Thu Mim. Và anh Đa Vít báo cái tin
buồn ấy cho chúng tôi, bầy em nhỏ, lúc ấy còn đang cười đùa, chọc phá
lẫn nhau. Anh Đa Vít lặng thinh rất lâu trước khi báo tin cho chúng tôi.
Anh Mim chết rồi. Bốn chữ ngắn. Không thất thanh. Không nước mắt tuôn
trào. Bốn chữ lặng lẽ. Nhưng chúng tôi bàng hoàng, và cả bốn đứa em gái
cùng khóc. Những chữ ngắn ngũi ấy đã thay đổi cái nhìn của chúng tôi,
những đứa em nhỏ của anh tôi, với cuộc đời, từ đấy.
Anh tôi tử
trận ở Quảng Tín. Ngày xưa Quảng Tín là một phần của tỉnh Quảng Nam. Đối
với đầu óc của một đứa trẻ con học lớp Nhì, tôi không biết rõ Quảng Tín
nằm ở một địa thế nào, ngày ấy. Nhưng tôi không còn thấy thương yêu cái
tên ấy nữa, vì nó chỉ gợi cho tôi một cảm giác mất mát nào đó mà mình
không cầm giữ được. Một cảm giác rất buồn, rất đau không sao diễn tả
được.
Chiến trường Việt Nam dạo ấy chưa sôi động ra mặt, nhưng
tình hình chính trị miền Nam Việt Nam lại rất bất ổn. Những cái tên đăng
trên trang nhất của báo chí mỗi ngày: Tổng Thống Diệm, Cụ Cẩn, Bà Nhu,
Viện Hóa Đạo, những động từ xuống đường, đàn áp, tự thiêu đầy ngập trên
tin tức. Gia đình tôi không ai về được Đà Nẵng kịp để đón anh Thu Mim vì
tình hình miền Trung rất xáo động giữa Phật Giáo và Công Giáo, máy bay
Hàng Không Việt Nam không bay được. Quan tài anh được mang về Sài Gòn
bằng máy bay quân sự. Hôm ấy là ngày thứ ba, và quan tài anh được quàn
tại nhà thờ Cơ Đốc ở Ngã Tư Phú Nhuận. Đó cũng là lần đầu tiên tôi thấy
một quan tài, và trong ấy là một người thân yêu của tôi nằm bất động,
không còn nói, còn cười, còn suy nghĩ nữa. Và tôi hiểu những chữ “vô
cùng thương tiếc” người ta hay gắn trên những tràng hoa tang là thế nào.
Chi
tiết về cái chết của anh tôi, gia đình tôi biết mập mờ. Những người bà
con ở Đà Nẵng cho Ba Má tôi biết anh tôi chết vì bị đạn bắn trúng bắp
vế, viên đạn thấu vào động mạch chính, nhưng trực thăng vần hoài trên
trời không xuống kịp để đón anh vì đạn Việt Cộng bắn như mưa không cho
trực thăng đáp. Anh tôi tử thương vì máu ra quá nhiều không kịp cấp cứu.
Anh qua đời vừa lúc chiếc trực thăng cứu thương hạ cánh để mang anh về
căn cứ quân sự ở Đà Nẵng.
Nhiều năm đã qua, câu hỏi ngày xưa được
đặt trở lại. Vì sao không có một đại diện nào của Lực Lương Đặc Biệt
Hoa Kỳ đích thân nói rõ ràng lý do sự tử trận của anh tôi, mà chỉ qua
những tin tức từ người bạn cùng đội ngũ kể lại.Viên đạn oan nghiệt kia,
chưa ai khẳng định đó là đạn từ phe bạn hay đạn của phe thù. Nhưng trong
chiến tranh điều gì cũng được người ta chấp nhận một cách đơn giản cả.
Và trong những ngày thương khó ấy, thêm một niềm uất hận hay phẫn nộ
cũng không thay đổi cái chết của anh tôi và cũng chẳng phải là một điều
dễ dàng cho gia đình Ba Má và các em anh. Người kề cận với anh Thu Mim
những ngày gần cuối của đời anh là người bạn cùng đội ngũ, anh Toản.
Nhưng anh Toản lúc tỉnh, lúc say không rõ ràng; những gì anh nói lúc anh
say không giống lúc anh tỉnh. Và gia đình tôi không gặp được anh Toản
những ngày ấy để hỏi thêm chi tiết cái chết của anh Thu Mim cho tường
tận. Anh Toản chết gần một năm sau ngày anh Thu Mim chết. Anh Toản không
chết trận, nhưng chết trong lần về phép Sàigòn, chết trong một cơn say,
gia đình anh không hay biết. Những gì anh biết, theo anh về bên kia thế
giới.
Anh Toản và anh Thu Mim là những người bạn thân từ những
ngày tiểu học, bạn cùng lớp, cùng thầy, cùng nhà thờ, cùng tuổi thơ,
cùng Đội Bạch Mã. Nhưng cái tuổi nhỏ yêu đời và đầy nhiệt huyết của các
anh, tôi không biết được vì lúc ấy tôi chưa ra đời. Đối với tôi, tuổi ấu
thơ của các anh tôi là những huyền thoại mà tôi chỉ được nghe các anh
kể lại cho đám đàn em.
Anh Thu Mim chỉ mới 21 tuổi khi anh mất.
Cái chết của anh tôi đã đánh thức gia đình tôi, những người quen biết
trong nhà thờ, các bạn bè của anh rằng, cuộc chiến tranh Việt Nam là có
thật, và cuộc chiến ấy có ảnh hưởng đến mọi người, kể cả chúng tôi,
những người ở Sàigòn, chứ không chỉ làvới đời sống của riêng những người
ở miền quê. Những năm đầu của thập niên 60 là những ngày đầu người Mỹ
bước chân vào cuộc chiến tranh chống cộng của Miền Nam Việt Nam. Những
cố vấn chiến sự, chiến lược Mỹ bắt đầu qua Việt Nam. Họ cần những người
thông thạo Anh ngữ để làm thông dịch viên đi theo họ những nơi họ đi.
Trường dạy Anh ngữ mở nhan nhãn khắp nơi. Anh Thu Mim giỏi Anh ngữ. Tôi
còn nhớ những năm tôi bốn, năm tuổi, mỗi buổi sáng tôi thường bị đánh
thức bởi bài học Anh Ngữ trong radio của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ mà anh tôi
đang tập đọc theo. Những bài ca của giọng ca Astrud Gilberto và The
Platters đã là những bài ca tôi nghe quen thuộc mỗi sáng trong Đài Tiếng
Nói Hoa Kỳ. Rớt Tú Tài, anh tôi bỏ trường nội trú mà Ba tôi đang gởi
các anh theo học, quyết định dùng khả năng Anh ngữ của mình để đi làm
thông dịch viên cho Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ. Tôi còn nhớ Má tôi đã âu
lo, đã khóc khi anh báo tin anh đã gia nhập quân ngũ với chức Trung sĩ
đồng hóa. Má tôi đã buồn rầu nói, “Má nghe người ta nói Việt Cộng thà
giết một người thông dịch viên còn hơn giết mười người lính.” Sự lo âu
của Má tôi không đủ để làm chùn chân anh tôi. Trong một bức hình anh gởi
về cho Má tôi sau ngày ra đi, anh đứng giữa núi rừng miền Trung, mặc đồ
trận, mang súng. Trong thư gởi kèm theo anh cho biết đơn vị anh đã đổi
về Quảng Tín. Anh hứa với Má, “Con vẫn đọc Kinh Thánh và cầu nguyện mỗi
đêm.” Phía sau bức hình anh viết, “Con hy vọng Chúa không để con phải
bao giờ dùng những vũ khí này.”
Khi anh tôi mất, Chính phủ Mỹ gởi
thư chia buồn với Ba Má. Lời chia buồn đơn giản như mọi lời chia buồn
gởi đến gia đình các tử sĩ. Và tuy gia đình chúng tôi không biết và cũng
không trông đợi, nhưng họ lại báo tin cho Ba Má tôi hay, ông bà được
chính phủ Hoa Kỳ bồi thường một số tiền tử tuất vì cái chết của con trai
mình. Có lẽ đã là hợp đồng anh tôi đã ký kết khi gia nhập làm thông
dịch viên cho các cố vấn quân sự Hoa Kỳ? Và phòng khách nhà Ba Má tôi,
vừa mới dọn về trong một khu phố ở Cầu Kiệu, treo đầy những tràng hoa
cườm màu tím sẫm của bao nhiêu người thân quen gởi đến phân ưu.
Anh
Thu Mim mất đúng ba tháng sau ngày sinh nhật thứ 21 của anh. Nhưng anh
đã sống rất nhiều. Anh già dặn hơn đám em của anh khi chúng lên tuổi 21.
Ba tôi mua đất ở Hội Trung Việt Ái Hữu ngoài Hạnh Thông Tây để chôn con
trai. Ba tôi, năm ấy, mới 50 tuổi. Để những người họ hàng xa, tin dị
đoan bảo Ba tôi rằng, năm này là năm tuổi của ông. Ngày đám ma anh Thu
Mim, trời mưa lất phất buồn thê lương. Bãi tha ma với ngôi mộ mới đắp,
trông thật ảm đạm. Lần đầu tiên tôi biết mất một người thân yêu là như
thế nào, và tôi hãi hùng cái chết. Anh vẫn còn sống, nói cười, chỉ mấy
tháng trước đây. Anh tôi đã đi học xa nhà gần ba năm, lần chót chúng tôi
gặp anh khoảng mùa hè năm trước, gia đình tôi còn ở Đà Lạt. Anh về lại
Đà Lạt để giã từ Ba Má và các em. Bức hình anh chụp với gia đình ngày
ấy, trông anh cũng như bao giờ, đẹp trai, lãng bạt, và phong trần. Những
năm đầu thời niên thiếu, anh mê phim cao bồi Mỹ, tự tay anh, anh đã
khâu sửa bao nhiêu chiếc quần Levi’s mua ở chợ trời Đà Lạt và may những
chiếc áo choàng da. Người anh lớn của chúng tôi, khi du học ở Singapore
đã mua gởi về cho các em trai một cặp súng Colt giả bằng sắt. Những con
đồi sau nhà thờ Đà Lạt đã là nơi các anh tôi chơi bao nhiêu trò chơi cao
bồi và da đỏ của thời niên thiếu. Anh Thu Mim và anh Đa Vít đã biến
những con đồi ấy thành ngọn đồi OK Coral không biết bao lần. Các anh tôi
biết cởi ngựa, biết quay vòng lasso, rút súng và quay tay súng nhanh
như Kirk Douglas, Gary Cooper và Robert Taylor. Những năm vào đời, anh
Thu Mim bỏ các trò chơi cao bồi da đỏ để trở thành James Dean và nổi
loạn.
Đám tang anh Thu Mim có nhiều người đi tiễn đưa anh. Cả nhà
thờ đi dự. Anh có giọng hát hay trong nhà thờ. Anh giỏi Kinh Thánh nên
anh đã hướng dẫn nhiều lớp học Kinh Thánh cho thanh niên. Anh chọc phá
bao nhiêu người trong trường nội trú khi Ba gởi anh vào học đạo. Mọi
người đều yêu anh vì anh trêu diễu mọi người, vì anh ăn nói có duyên và
vì tính nhũn nhặn của anh. Nhưng tất cả những thương yêu ấy không kềm
giữ được con ngựa chứng trong anh tôi. Anh chết bất ngờ, để những người ở
lại không phải chỉ là một nỗi buồn thương mà còn là niềm sững sốt, bàng
hoàng. Anh không phải là mẫu người chết sớm. Anh là tinh thần của những
cuộc vui, những buổi họp mặt. Nhưng anh Thu Mim trở thành người thanh
niên đầu tiên trong nhà thờ chúng tôi thuở đó chết vì chiến tranh với
Việt Cộng. Nối tiếp sau anh, bao nhiêu thanh niên trong nhà thờ tôi đã
trở về lại khuôn viên nhà thờ, cũng là sân trường tiểu học của thời thơ
bé, trong quan tài; và bao nhiêu bà mẹ trong nhà thờ tôi đã thành như Má
tôi, mất con trai trong cuộc chiến dai dẳng ấy.
Ngày đưa tang
anh trời mưa, một chiều tháng tám ngoài nghĩa trang buồn não ruột. Lúc
chôn anh, có bốn người con gái, chưa hề biết nhau, cùng ngã quị khóc anh
như khóc một người tình. Ba chị trong ấy, tôi có nghe nói đến tên nhưng
chưa dịp gặp, và một người thứ tư, đó là lần đầu tiên gia đình tôi biết
đến tên chị, Chị Lệ. Đám tang người nào cũng mặc áo màu trắng, chị Lệ
bước vào nhà thờ, mặc áo dài đen, tóc xõa dài, đeo mắt kiếng màu đen.
Chị đẹp não nùng. Cả bốn chị đều đẹp cả. Mỗi người mỗi vẻ đau thương,
mỗi người mỗi vẻ sang cả. Trông họ như những đóa hoa hồng bị bão tố dập
vùi, tan tác. Tôi còn quá nhỏ để cảm thấu được niềm đau của một người
con gái vừa lớn mất người yêu mình ngoài trận mạc, rồi cũng để bẽ bàng
nhận thức rằng người tình hào hoa ấy, bao nhiêu lời chàng hứa cho mình,
chàng còn hứa hẹn gì với bao người khác nữa.
Anh Thu Mim đào hoa.
Anh lớn rất vội. Thế hệ anh chịu ảnh hưởng triết lý và văn chương của
tuổi trẻ thời đại, Jean Paul Sarte, Phạm Công Thiện, và Bonjour
Tristesse của FranVoise Sagan. Anh để mái tóc bồng bềnh như James Dean,
áo sơ mi trắng không cài hết nút, cổ áo bẻ cao, quần jean, áo blouson da
màu đen. Những đêm đi chơi về khuya ở Đà Lạt, anh về nhà, áo blouson
khoác hờ hững trên vai, Má tôi không muốn nhìn anh. Anh có mùi rượu
trong hơi thở, mùi thuốc lá trong áo jacket. Mỗi lần trông thấy con mình
như vậy chắc lòng Má tôi lại tan tác thêm chút nữa. Con người thật của
anh Thu Mim, tuy hay đùa giỡn với mấy em, nhưng những tấm hình chụp anh
bất thần những năm anh theo học trường đạo của nhà thờ, tôi không thấy
anh cười. Lúc nào cũng ngồi riêng trong một góc, mắt nhìn xuống đất như
đang nghĩ ngợi gì. Anh mất rồi mà các chị bạn gái, tình nhân của anh khi
đến nhà thăm Ba Má tôi, chị nào cũng vẫn muốn được gọi Ba Má tôi là Ba
Má. Những năm sau khi anh Thu Mim mất, lần lượt các chị đến nhà thăm
chào Ba Má tôi để xuất ngoại, người thì theo gia đình về Pháp, người thì
đi du học, người thì lập gia đình và theo chồng về Mỹ. Người nào cũng
giữ mối tình cho anh tôi không phai lợt dầu sau ngày đám tang anh, đã có
chị vẫn còn giận dữ hỏi anh Đa Vít, “Mấy con bé nào dám khóc trong đám
tang của anh Thu Mim vậy?”
Ba tôi đặt tên cho các con theo tên
trong Kinh Thánh. Thu Mim là một viên ngọc quý đeo trên áo của Thầy Tế
Lễ Thượng Phẩm. Bản Kinh Thánh tiếng Việt, gọi viên ngọc ấy là viên ngọc
Hoàn Thiện. Nhưng ở nhà Ba Má gọi anh là Thu Mim. Anh tôi chỉ mới 21
tuổi, nhưng anh không còn ngây thơ. Những thùng thư cũ của anh, những
thùng hình của anh mang về nhà Ba Má tôi, anh Đa vít thâu soạn cất tất
cả, không cho chúng tôi và Ba Má được cất giữ. Những tập truyện ngắn anh
viết, những chuyện tình mà mấy chị tôi đọc và mắt bỗng ướt long lanh.
Bao nhiêu là những lá thư tình của những người con gái yêu anh Thu Mim.
Bao nhiêu là hình chụp những ngày còn vui của anh với những người đàn bà
mà chắc anh cũng đã yêu. Mấy đứa em nhỏ thừa hưởng mấy thùng sách của
anh để lại. Ba Má tôi chỉ giữ được hai cuốn album những hình anh Thu Mim
cất giữ ghi lại những ngày thơ ấu với gia đình và bạn hữu. Xem album
anh như xem cả chuyện đời anh. Anh đã ngăn nắp sắp những bức hình theo
ngày tháng với những lời chú thích tên mọi người trong hình. Xem album
anh mới thấy anh đã quí mến kỷ niệm và thương yêu gia đình và các em anh
đến chừng nào. Trang đầu của cuốn album ngày thơ ấu, anh tôi để những
hình của mình từ ngày tiểu học, những hình thẻ học sinh và căn cước của
anh, với tựa đề, “Thu Mim qua các thời đại”. Từ hình năm vỡ lòng, hình
nào của anh cũng một cặp mắt buồn và đầy vẻ trầm ngâm. Tâm hồn anh từ
những ngày còn trẻ đã là một giòng sông với những đợt sóng ngầm Ba Má
tôi không bao giờ hiểu nổi. Tư tưởng anh được bồi đắp bằng những ưu tư
và những cuộc nổi loạn mà tâm hồn bình dị của Ba Má tôi đã không sao cảm
thấu. Con ngựa chứng trong anh không tìm thấy trong đám bầy em anh.
Trong album anh có hình, một tấm thẻ căn cước cũ năm 18 tuổi của anh.
Anh có cặp mắt to và buồn, người làm giấy tờ đánh máy nhầm tên Việt Nam
của anh là Nguyễn Hoàn Thiên, thiếu mất một dấu nặng. Ba tôi cứ chép
miệng than hoài đó chắc là một điềm anh phải qua đời quá sớm.
Ba
Má tôi có được mấy cuộn magnetic tape anh Thu Mim thâu những bài ca anh
hát với bạn bè. Giọng anh buồn và ấm trong máy hát. Anh hát nhiều bài,
trong ấy có hai bài ca Lạnh Lùng và Tà Áo Xanh của Đoàn Chuẩn và Từ
Linh, nghe mà tưởng như lời trăn trối của một người tình nhân, như thể
anh biết những ngày chia xa sắp đến, “Lúc anh ra đi, lạnh giá tâm hồn,
hoa mai rơi từng cánh bên đàng, lạnh lùng mà đi luyến tiếc thêm chi ...”
và “Khi nào em đến với anh, xin đừng quên chiếc áo xanh... Em ơi có đâu
ngờ đến rằng, có tình nào không phai như tình anh với em?” Ba Má tôi mở
nghe giọng anh hát hằng đêm, nghe tiếng hơi thở của anh trong lời ca,
để ngỡ là con trai mình vẫn còn sống đâu đó. Tôi thuộc lòng những bài ca
anh tôi hát. Và tưởng tượng đấy có thể nào đã là lời anh nhắn lại với
chị nào trong bốn chị “người yêu” của anh. Ba tôi cũng như Má tôi không
bao giờ nguôi ngoai được sự mất mát của đứa con trai tài hoa, yêu dấu
cho đến ngày ông bà qua đời. Hai mươi lăm năm sau, khi Má tôi qua đời,
dọn dẹp lại những đồ vặt vãnh của Má, tôi tìm thấy một chiếc bóp màu đỏ
rất đẹp của Má từ thời ở Sàigòn, trong ấy là tấm hình anh tôi đứng trên
đồi Quảng Tín, và bức hình anh đã chết, trước giờ tẩm liệm. Bà đã cất
dấu cho riêng bà, mang theo với bà ngày di tản. Anh Thu Mim đã là đứa
con bà yêu nhất trong bầy con tám đứa.
Có thật chiếc trực thăng
cứu thương đến nhưng không đáp kịp hay nó đã đến trễ nên anh tôi phải
chết vì một vết thương không đáng chết; hay là viên đạn kết liễu đời anh
tôi là viên đạn bạn hay thù, vẫn là những câu hỏi, lâu lâu bất chợt đến
giữa vòng mấy anh chị em tôi. Là những câu hỏi được đặt ra, và không ai
muốn lặp lại, hay tìm cách trả lời. Chúng tôi muốn quên. Muốn tránh vì
sợ phải phải đối diện với những câu trả lời mình không muốn nghe hay
những sự thật nào thêm tức tưởi. Lý do nào, những dữ kiện ngày ấy không
rõ ràng, và gia đình tôi, những người Việt vô tư, những người dân hiếu
hòa, không ai đặt một câu hỏi tại sao. Bốn mươi năm trước, hình ảnh
những người cố vấn Mỹ đầu tiên đến Việt Nam là những hình ảnh ân cần.
Người Mỹ với sự văn minh, và lòng tử tế của họ. Người Việt Nam mộc mạc,
ít ai nghĩ rằng nước Mỹ cũng có những kẻ bệnh hoạn có lòng khinh bỉ và
coi thường mạng sống của một người dân da màu, dân nhược tiểu. Có thật
anh tôi đã được hết lòng cứu cấp chăng? Hay tai nạn của anh chỉ được thờ
ơ xem là một tai nạn của các vai phụ trong những phim chiến tranh, chỉ
có sinh mạng của những người tài tử da trắng vai chính mới là hệ trọng.
Đối với Ba Má tôi, anh tôi muôn đời là người chiến sĩ đã ngã gục nơi
chiến trường giữa núi rừng trùng điệp của tỉnh Quảng Tín. Những gì Ba Má
không biết ngày xưa, một giả thuyết mới về cái chết của anh tôi hai
mươi mấy năm sau cũng chẳng ích gì hay thay đổi được gì, hoặc giúp gì
cho ai đặng điều tra cho tận tường hơn được nguyên nhân cái chết của
anh, và cũng chẳng làm cho thân nhân anh thêm hạnh phúc hơn. Chỉ một
người duy nhất may ra có thể biết rõ ràng cái chết của anh Thu Mim. Anh
Toản. Anh Toản chết, sự thật nào anh biết cũng đi theo anh xuống tuyền
đài. Nhưng mà rồi sự thật nào cũng chẳng ích chi cho những người ở lại.
Anh tôi đã chết. Chúng tôi chẳng cùng được lớn lên có anh và biết thêm
về anh. Cái chết đến với mỗi người. Như một người đi vào giấc ngũ đợi
chờ, mọi kỹ niệm, mọi ý thức thương đau của họ rồi cũng bị họ quên lãng;
như một máy điện toán đã tắt, một tủ lạnh bị rút điện. Xác thân còn đó
nhưng mọi ý niệm đã tan biến vào không gian.
Đôi khi mấy chị em
tôi hỏi nhau, nếu anh Thu Mim đã không qua đời năm anh 21 tuổi, bây giờ
anh đang ở đâu, làm gì, anh sẽ ra sao? Anh và nếp đời phóng túng, có thể
nào anh đã bằng lòng đứng lại lập gia đình với một chị nào trong bốn
người thiếu nữ khóc bên quan tài anh ngày ấy, như anh đã hứa với Ba Má
tôi rằng, tháng tám anh sẽ về Saigòn đi hỏi vợ? Và có chắc gì anh đã
mang được hạnh phúc đến cho người ấy như một người chồng, người cha yêu
bổn phận mình?
Anh Thu Mim qua đời sớm, anh còn hoài là một huyền
thoại trong lòng chúng tôi. Anh Thu Mim năm 16 tuổi, tạc bức tượng bán
thân của Baden Powell, và triển lãm trong kỳ trại họp mặt Hướng Đạo toàn
quốc tại Đà Nẵng. Bức tượng anh khắc đã được giải thưởng đặc biệt của
Phó Tổng Thống. Anh được ban khen và được Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ
bắt tay khen tặng. Anh Thu Mim với những ngón tay tài hoa đã vẽ lại bao
nhiêu là những bức phác họa những người đàn bà đẹp đã đi qua đời anh.
Anh Thu Mim với những truyện ngắn làm nao nao lòng người đọc. Và anh Thu
Mim tự học và ngồi đàn dương cầm những chiều mưa Đà Lạt trong căn nhà
sau nhà thờ. Giọng ca anh trầm, ấm và lãng đãng buồn theo những lời ca
của điệu nhạc buồn của Chopin, “Ôi đàn năm xưa, réo rắt buồn ngân rung
bao lời cũ nhắc ta bao ngày xa xưa ... ” và lời ca tiếng Việt của bản
Chủ Nhật Buồn, “... Bước chân người đến bên tôi, đến với tôi thì muộn
rồi... Dẫu qua đời mắt tôi cười vẫn đăm đăm nhìn về người...” Và giọng
ca ấm và mạnh của anh, mỗi buổi sáng, buổi chiều anh hát bản Besame
Besame Mucho trong phòng anh trên đồi Đà Lạt. Anh Thu Mim, đứa con trai
hoang đàng của Ba Má tôi. Anh tôi và những người bạn thân tình của anh.
Chúng tôi nhìn xem cuộc đời những người bạn lãng tử của anh để xem cuộc
đời họ đã ra sao. Có thể đấy là con đường anh cũng sẽ đi nếu anh đã còn
sống? Có những người đã qua đời hoặc đã tử trận trong lứa tuổi thanh
xuân hay trong cuộc chiến dai dẳng như các anh Toản, anh Yên. Hay anh
Tuyền, lạc lõng giữa xứ người, và mất sau mấy năm đầu qua Mỹ? Hay các
anh Cự, Long, Hổ, Chi, Đê, Bổn, bây giờ đang ở phương trời nào? Các anh
đã vào lứa tuổi 60 rồi. Những người bạn tuổi thơ Đà Nẵng của anh tôi,
Sanh, Thương, Xếp, Hồng, Thành, và những người anh, người bạn thời Bạch
Mã: U rim, Mạo, Hưng, Tuấn, Minh, Nghĩa, và Đa Vít? Hay anh Khoa, chú
Đại? Như câu thơ cuối của bài thơ tiền chiến, còn lãng đãng, “Những
người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ?”
Và các chị Therèse, Lệ,
Bạch Mai, Linda? Trong cõi đời này có ai còn nhớ gì mối tình và người
tình nhân của những ngày 18, đôi mươi nữa không?
Nguyễn Thị Ngọc Liên Cho ngày sinh nhật thứ 60 của anh tôi California, 2002
2008-03-13 06:44:32
|
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire