Người Pháp Gốc Việt Vô Danh
Thân gửi Làng tài liệu về Người Pháp Gốc Việt , để tham khảo
.
Người Pháp Gốc Việt là nhóm người có tổ
tiên xuất xứ từ Việt Nam nhưng sau định cư ở Pháp . Đây là một trong những cộng
đồng người Việt Hải Ngoại lớn nhất thế giới . Vì Chính phủ Pháp không làm thống
kê với dữ liệu về chủng tộc của công dân Pháp nên không có con số nào chính xác
để biết về số Người Pháp Gốc Việt . Số người Việt tại Pháp được ước tính từ
khoảng 200 000 đến 250 000 người ( 2002 ) . Con số này tăng thành khoảng 300 000
vào năm 2013 .
Lịch sử Trước 1945
Hoàng Tử Cảnh tại Pháp ; tranh của Maupérin ( 1787
)
Phan Thanh Giản , hình chụp tại Paris khi đi sứ năm 1863
.
Một nhân vật người Việt đặt chân lên
đất Pháp vào cuối thế kỷ 18 mà lịch sử nhắc đến nhiều là Hoàng Tử Nguyễn Phước
Cảnh khi theo Giám Mục Bá Đa Lộc cầm đầu phái đoàn sang Pháp cầu viện . Cậu bé 3
tuổi này chỉ ở lại Pháp vài năm rồi lại hồi hương nhưng để lại ấn tượng tốt
trong dư luận Pháp .
Gần 100 năm sau người Việt mới bắt đầu
sang định cư tại Pháp . Sứ bộ Phan Thanh Giản khi trong chuyến Tây du để chuộc
lại Nam Kỳ đã ghi nhận sự có mặt của người Việt tại Pháp [ 4 ] . Tuy nhiên con
số đó chỉ là những người có quan hệ gia đình nên phải sang Pháp .
Mãi đến đầu thế kỷ 20 cộng đồng người
Việt mới tăng lên con số đáng kể . Nguyên nhân chính là tình hình khó khăn tại
Pháp trong Đệ nhất Thế chiến bắt buộc chính phủ Pháp phải tìm tuyển nhân công để
sung vào các xưởng sản xuất trong khi dân Pháp chính gốc phải dồn vào phục vụ
chiến cuộc . Cùng lúc đó Pháp cũng mở cuộc tổng động viên để bổ sung quân đội .
Lệnh tuyển lính bản xứ tại Đông Dương thuộc Pháp được ban hành vào tháng 11/1915
. Sang tháng 01/1916 , triều đình Huế cũng có dụ ban thưởng 80 đồng bạc Đông
Dương cho những ai nhập ngũ . Đến năm 1918 khi có lệnh đình chiến thì đã có 48
922 lính gốc Đông Dương ( Việt ) trong quân ngũ tại Âu châu cùng Bắc Phi và 51
000 thợ ( ouvriers non spécialsés , viết tắt là ONS ; tiếng Việt gọi là « lính
thợ » hay « công binh » ) gốc Việt trong các công xưởng của Pháp . Trong số đó
có 1 548 người tử vong . Số người Việt lưu trú tại Pháp sau giảm nhiều vì đa số
chọn hồi hương . Số ở lại chỉ khoảng 3 000 người . Có người ở lại vì kết hôn với
người Pháp nhưng phần lớn vì lý do giáo dục và công việc .
Tờ bạc 100 đồng Đông
Dương
Vì tình hình khó khăn kinh tế ở Pháp
vào thập niên 1920 ảnh hưởng đến giới lao động , một số hội đoàn của người Việt
xuất hiện với mục đích tương tế , tương trợ như Hội Đồng Bào Thân Ái ( La
Fraternité des compatriotes ) , Association Amicale des Travailleurs Indochinois
, Association de Laqueurs , Association des Cuisiniers Indochinois , và
Association Mutuelle des Travailleurs . Đến năm 1928 thì có Comité de Défense
des Travailleurs Annamites ra đời để bảo vệ quyền lợi của công nhân gốc Việt
.
Con số thợ thuyền , sinh viên , học
sinh đó là hạt mầm của cộng đồng Người Pháp Gốc Việt .
Khi Đệ Nhị Thế Chiến sắp bùng nổ thì
chính quốc Pháp lại có lệnh tuyển mộ người Việt sang làm lao công thuộc địa (
viết tắt tiếng Pháp MOI : main-d'oeuvre indigène ) , nhưng lần này với dạng
cưỡng bách . Năm 1939 đã có 93 000 người , cả lính thợ lẫn lính chiến , bị đưa
sang Pháp sung vào quân ngũ hỗ trợ chính quốc theo « Kế hoạch Mandel » . Riêng ở
Baumettes khoảng 20 000 người bị giam giữ để phục dịch trong các công xưởng với
mức lương 1/10 lính Pháp . Một số đã định cư ở Pháp , nhất là vùng Camargue (
tỉnh Bouches-du-Rhône ) , mở mang nghề trồng lúa và làm muối .
1945-1975
Số người Việt sang Pháp định cư tăng
thêm vào những thập niên 1940-1960 sau Đệ Nhị Thế Chiến và cuộc chiến Đông Dương
tiếp theo . Khi chính thể bảo hộ của Pháp trên 3 xứ Việt , Miên , Lào cáo chung
, đại đa số Pháp Kiều , trong đó kể cả những người Việt mang quốc tịch Pháp đã
rời bỏ Đông Dương để hồi hương về Pháp . Sau 1954 , khoảng 50 000 người mang
quốc tịch Pháp tại Đông Dương đã hồi hương , trong đó có 12 000 người bản xứ
.
Chính phủ Pháp đưa một số về Noyant
d’Allier , một thị trấn nhỏ thuộc Allier , Auvergne , có truyền thống khai mỏ
than nhưng vào thập niên 1950 đã bị bỏ hoang . Bốn trăm gia đình , tổng cộng
khoảng 2 000 người được đưa đến đây lập nghiệp .Số khác định cư ở
Sainte-Livrade-sur-Lot ( 1600 người ) , thuộc Lot-et-Garonne , Aquitaine gần
Bordeaux miền tây-nam nước Pháp . Nơi cư trú mang tên « Trung tâm tiếp quản
Những người Pháp Đông dương » ( tiếng Pháp : Centre d'Accueil des Français
d'Indochine , CAFI ) Nơi đó có cấu trúc giống như một ngôi làng truyền thống ở
Việt Nam với đình , chùa .Trại CAFI ở Sainte Livrade tồn tại đến năm 2008 thì
chính quyền địa phương có phá đi để hoạch định lại . Phần lớn đã được tân trang
riêng có sáu căn là giữ nguyên dùng làm di tích cuộc di cư và để lưu trữ các
hiện vật lịch sử ghi dấu .
Sinh viên du học của Việt Nam Cộng Hoà
thì tập trung ở Paris , thành lập Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam , hoạt động từ năm
1960 . Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà có cơ sở bán thức ăn số 80 đường Monge , quận
V , cũng được gọi là Foyer Monge , thuộc toà đại sứ quản lý cho các sinh viên tụ
tập . Tính đến đầu năm 1975 cộng đồng ở Pháp là cộng đồng người Việt lớn nhất ở
Hải Ngoại .
Sau năm 1975
35 Vietnamese Boat People
Đợt người Việt đông nhất sang định cư ở
Pháp là vào thập niên 1970-1980 với nạn thuyền nhân vượt biển . Chỉ riêng trong
4 năm 1975-1979 , Pháp đón nhận 51 515 người tỵ nạn sang định cư , tức là quốc
gia đứng thứ ba sau Hoa Kỳ và Úc về số lượng tiếp nhận người tỵ nạn [ 19 ] .
Trong khoảng thời gian từ 1975 đến 1989 , Pháp đón nhận khoảng 150 000 người tỵ
nạn , và theo một số nghiên cứu , số người tỵ nạn chiếm khoảng 80 % cộng đồng
Người Pháp Gốc Việt đầu thập niên 1990 .
Ngoài chính sách của chính phủ cho
người tỵ nạn nhập cư , giới nhân sĩ Pháp như triết gia Jean-Paul Sartre , Michel
Foucault , Raymond Aron còn tổ chức nhóm vận động « Un bateau pour le Vietnam »
( « Một con tàu cho Việt Nam » ) kêu gọi gia tăng số người tỵ nạn nhập cảnh .
Chính nhóm này cùng với Bernard Kouchner , sáng lập viên tổ chức Médecins Sans
Frontières ( Y Sĩ Không Biên Giới ) đã tài trợ con tàu Ile-de Lumière ( « Đảo
Ánh Sáng » ) ra khơi cứu giúp người vượt biển . Chính giới Pháp như Jacques
Chirac và François Mitterrand cũng bảo trợ một số gia đình người Việt Tỵ Nạn
.
Văn Hoá
Món phở xuất hiện với bước chân người Việt ở
Paris
Hệ thống giáo dục tại Pháp , khác với
Canada và các quốc gia Châu Âu khác , không chủ trương xây dựng một xã hội đa
văn hoá . Vì thế , mặc dù Người Pháp Gốc Việt thuộc thế hệ thứ nhất cố gắng giữ
gìn văn hoá Việt Nam và sử dụng tiếng Việt trong cộng đồng , những người thuộc
thế hệ thứ hai và thứ ba sinh ra và lớn lên tại Pháp biết rất ít về quốc gia và
văn hoá của tổ tiên họ . Về ngôn ngữ họ cũng không sử dụng tiếng Việt
.
Trong một cuộc thăm dò ý kiến vào thập
niên 1990 , 41 % người trẻ từ 11 đến 30 tuổi nói rằng họ được gia đình dưỡng dục
theo truyền thống Phật Giáo , và 28 % nói rằng họ được dạy dỗ theo truyền thống
Công Giáo .
Những ngày lễ văn hoá được cộng đồng
Người Pháp Gốc Việt duy trì gồm có Tết Nguyên Đán , Vu Lan , và Tết Trung Thu .
Ngoài ra , những người ủng hộ nhà-cầm-quyền Hà Nội còn tổ chức kỷ niệm Ngày Quốc
Tế Phụ nữ ( 08/03 , gần trùng với ngày lễ Hai Bà Trưng vào Tháng Hai Âm Lịch ) ,
30/04 , và 02/09 .
Một trong những cơ sở tôn giáo lâu đời
nhất của Người Pháp Gốc Việt là Chùa Hồng Hiên xây từ năm 1917 ở Fréjus , Var ,
thuộc Provence-Alpes-Côte d'Azur . Chùa có một thời bị bỏ hoang phế nhưng từ
thập niên 1970 trở đi đã hoạt động trở lại . Tính đến năm 2000 ở Pháp có 38 ngôi
chùa của người Việt . Cũng theo chiều hướng phát triển , Người Pháp Gốc Việt đã
cho xây cất chùa Khánh Anh ở Évry ngoại ô Paris . Vào thời điểm dự tính hoàn
thành năm 2011-2012 , ngôi chùa này được coi là ngôi chùa lớn nhất Châu Âu của
người dân gốc Việt .
Chùa Khánh Anh tại Évry ,
Essonne
Dưới mắt người Pháp , Người Pháp Gốc
Việt sống tương đối bình yên và hoà nhập vào xã hội Pháp , không gây nhiều vấn
nạn như những nhóm thiểu số khác tại Pháp .Tuy không năng động như các cộng đồng
người Việt Tỵ Nạn tại Mỹ hay Úc , Người Pháp Gốc Việt cũng có những sinh hoạt
chính trị như vinh danh 60 Năm Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ ở Paris cùng Voisins Le
Bretonneux và Montigny Le Bretonneux .
Chính trị tại Pháp
Đầu thập niên 1980 , tỷ lệ nhập tịch
của người Việt tại Pháp là khoảng 5 % , một trong những tỷ lệ cao nhất trong các
cộng đồng người ngoại quốc tại Pháp ( so với khoảng 0,25 % cho cộng đồng người
Algérie , cộng đồng lớn nhất ) . Điều tra dân số năm 1999 cho thấy khoảng 75 %
người từng có quốc tịch Việt Nam đã vào Pháp tịch .
Mặc dù Người Pháp Gốc Việt có tỷ lệ
nhập tịch khá cao , họ ít quan tâm đến chính trị tại Pháp và hiếm khi tham gia
vào các cuộc bầu cử cấp địa phương và toàn quốc .Họ thường nhập tịch vì lý do
kinh tế thay vì lập trường chính trị . Tuy không thiết tha với biến chuyển trên
chính trường tại Pháp , họ rất quan tâm đến tình hình chính trị ở cố hương , và
trong quá khứ từng đóng vai trò rất quan trọng trong các phong trào chính trị
tại Việt Nam vào thế kỷ 20 .
Năm 2009 thì một số người Việt tại Pháp
đứng ra thành lập Hội Người Việt thuộc đảng Cộng Hoà ( tiếng Pháp : Union des
Vietnamiens Républicains , viết tắt là UVR ) để tạo tiếng nói chính trị cho cộng
đồng , trong đó có Bùi Kiệt Sĩ ( Alain ) , Mai Quốc Minh . Tổ chức này của Đảng
Cộng Hoà Pháp ( Parti républicain ) hoạt động với mục đích dần tiến tới tranh cử
Hạ Viện Pháp năm 2012 và các hội đồng thành phố ở các địa phương năm 2014
.
Quan điểm chính trị đối với Việt Nam
Sau 1975 , cộng đồng Người Pháp Gốc
Việt chia thành hai nhóm rõ rệt : một nhóm ủng hộ nhà-cầm-quyền Hà Nội và một
nhóm chống Cộng [ 20 ] & [ 30 ] . Hầu hết các tổ chức và hội đoàn của người
Việt , kể cả các tổ chức tôn giáo và kinh doanh , đều ngả theo nhóm này hay nhóm
kia . Những người ủng hộ nhà-cầm-quyền Hà Nội tự nhận là « di dân » trong khi
những người chống Cộng tự nhận là « Người Tỵ Nạn » . Hai nhóm này có những mục
tiêu chính trị trái ngược nhau và những thành viên của mỗi nhóm ít có quan hệ
với thành viên nhóm kia .
Nhóm ủng hộ nhà-cầm-quyền Hà Nội
Những người ủng hộ nhà-cầm-quyền Hà Nội
, dưới sự lãnh đạo của Hội người Việt Nam tại Pháp ( UGVF , Union Générale des
Vietnamiens de France ) , có tổ chức quy mô hơn và được nhà-cầm-quyền Việt Nam
công nhận . Những người trong nhóm này là những người đến Pháp trước 1975 và con
em của họ ; vấn đề mưu sinh của họ khá ổn định , và họ được xem là thành phần ưu
tú trong cộng đồng gốc Việt . Nhiều thành viên UGVF cũng là đảng viên Đảng Cộng
Sản Pháp và một số khác là đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam [ 33 ] ( nhà hoạt
động chính trị Nguyễn Khắc Viện từng là Chủ Tịch UGVF .
Trước 1975 , mục tiêu của UGVF là chấm
dứt chiến tranh tại Việt Nam và ủng hộ nhà-cầm-quyền Hà Nội . Sau 1975 , nhiều
thành viên UGVF dự định hồi hương để đóng góp trong công cuộc xây dựng đất nước
, nhưng chính phủ Việt Nam lại xem giới trí thức có nền giáo dục phương Tây là
một mối đe doạ . Những người được đào tạo tại Liên Xô được trọng dụng hơn vì họ
được xem là có quan điểm chính trị thích hợp hơn . Khi họ trở về Việt Nam ,
những Việt Kiều Pháp thường không tìm được việc làm tương đương với công việc
của họ tại Pháp .Từ đó , họ ủng hộ thành lập một cộng đồng người Việt ly hương
lâu dài tại Pháp . Mục tiêu của UGVF cũng vì đó thay đổi , chú trọng đến việc
giữ gìn di sản văn hoá Việt Nam cho các thế hệ sau . Chính phủ Pháp xem UGVF là
một tổ chức Cộng Sản và các hoạt động chính trị của tổ chức không được công khai
cho đến năm 1981 , khi được chính phủ Đảng Xã hội công nhận .
UGVF tổ chức nhiều lễ hội cho các ngày
lễ lớn như Tết Nguyên Đán và Tết Trung Thu . Các sự kiện này luôn có sự hiện
diện của đại sứ Việt Nam tại Pháp . Các thành viên của UGVF còn thành lập nhiều
hội đoàn khác để tranh đua với những tổ chức chống Cộng để giành sự ủng hộ từ
những người tỵ nạn sau 1975 . Tuy nhiên , các tổ chức này không công bố quan hệ
của họ với UGVF vì nhiều người tỵ nạn sẽ rời bỏ tổ chức nếu họ biết được UGVF
đứng sau các tổ chức này .
Mặc dù không hẳn là một bình phong cho
những người Cộng Sản Việt Nam tại Pháp , UGVF là một tổ chức với chủ trương sát
cánh với chủ trương của nhà-cầm-quyền Hà Nội .Nhiều thành viên trẻ trong UGVF ,
sinh ra và lớn lên tại Pháp , cho rằng UGVF thiếu độc lập và quá phụ thuộc vào
Hà Nội . Họ cũng đã bắt đầu quan tâm vào các vấn đề trong xã hội Pháp như nạn bị
người Pháp bản xứ kỳ thị .
Nhóm chống Cộng
Huy hiệu Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại
Paris
Khác hẳn những người ủng hộ
nhà-cầm-quyền Hà Nội , những người chống Cộng không thống nhất dưới một tổ chức
nào tương tự như UGVF , nhưng họ chung một lập trường đối lập với chế độ Cộng
Sản tại Việt Nam . Trước 1975 , những nhóm người Việt chống Cộng hoạt động tại
Pháp rất ít , và chủ yếu là các tổ chức sinh viên như Tổng Hội Sinh Viên Việt
Nam tại Paris . Sau 1975 , với số thuyền nhân tỵ nạn được nhận vào Pháp tăng vọt
, những nhóm chống Cộng mới thật sự lớn mạnh để cạnh tranh với nhóm ủng hộ Hà
Nội . Những nhóm chống Cộng bao gồm chủ yếu những người tỵ nạn đến Pháp sau 1975
, vì thế họ có tình trạng kinh tế kém ổn định hơn nhóm kia .
Trong lúc UGVF muốn miêu tả cộng đồng
Người Pháp Gốc Việt như một cộng đồng đoàn kết ủng hộ nhà-cầm-quyền Hà Nội ,
những nhóm chống Cộng hoạt động để nói rõ cho người Pháp bản xứ biết là trong
cộng đồng người Việt có sự khác biệt chính trị sâu sắc . Họ thường biểu tình
phản đối chính phủ Việt Nam , và kêu gọi những người tỵ nạn tẩy chay những cơ sở
kinh doanh có liên quan đến UGVF .
Những tổ chức của những người chống
Cộng cũng gồm những tổ chức sinh viên , lãnh đạo , xã hội , và văn hoá . Họ có
những hoạt động tương trợ những người tỵ nạn mới đến Pháp . Hầu hết các thành
viên hoạt động trong tổ chức Hướng Đạo Việt Nam tại Pháp và các tổ chức Công
Giáo của người Việt đều nằm trong phái chống Cộng . Họ cũng tổ chức các cuộc lễ
hội cho các ngày lễ truyền thống , nhưng với quy mô nhỏ hơn so với UGVF
.
Trưởng Trần Văn Khắc ( phải ) , người sáng lập Hướng Đạo
Việt Nam và BS Nguyễn Văn Thơ , Hội Trưởng cuối cùng của Hội Hướng Đạo Việt Nam
( tháng 04/1975 ) chụp hình tại Trại Họp Bạn Quốc Tế Hướng Đạo Việt Nam « Thẳng
Tiến 2 » được tổ chức tại Toronto năm 1988 .
*
* *
Di tích
Phương đình xây trên nền cũ của Đền Tử Sĩ lính Đông
Dương
Trước năm 1954
Rải rác ở Pháp có một số di tích ghi
dấu chân người Việt . Ở Nogent-sur-Marne trong Jardin tropicale de Paris , thuộc
Bois de Vincennes còn nền cũ ngôi Đền Tử Sĩ tưởng niệm lính Đông Dương , tức
Temple du Souvenir Indochinois . Đây nguyên thuỷ là một ngôi nhà cất ở Thủ Dầu
Một rồi rỡ ra đem sang Pháp dùng cho cuộc Exposition coloniale de Marseille 1906
. Qua năm sau chính phủ Pháp cho chuyển về Nogent-sur-Marne và đến năm 1917 thì
ngôi nhà đó được dùng làm Đền Tử Sĩ , có sắc phong ( 1919 ) của Vua Nguyễn Hoằng
Tông . Nhà Vua còn đến viếng ngôi đền này năm 1922 nhân chuyến công du sang Pháp
.
Năm 1984 đền bị phá huỷ hoàn toàn trong
cơn hoả hoạn , nay chỉ còn phần nền với bậc tam cấp tạc đôi rồng đá . Một phương
đình tân tạo nhỏ nay nằm ở vị trí này .
Đài Kỷ Niệm Thuyền Nhân
Ngày 12/09/2010 tượng Đài Kỷ Niệm
Thuyền Nhân Việt Nam với tên Niềm Mơ Ước Của Mẹ ( tiếng Pháp ) : Le Rêve de la
Mère ) được dựng ở bùng binh « Rond Point Saigon » , ngã tư thông lộ André
Malraux và đại lộ des Genêts thuộc xã Bussy-Saint-Georges , thị trấn
Marne-la-Vallée [ 47 ] .
Tượng đài này có bốn mục đích :
- Tưởng niệm người tỵ nạn thuyền nhân Việt Nam
- Tri ân nước Pháp
- Ghi ơn bậc phụ huynh
- Vinh danh đóng góp của Người Pháp Gốc Việt .
- Tri ân nước Pháp
- Ghi ơn bậc phụ huynh
- Vinh danh đóng góp của Người Pháp Gốc Việt .
Đây là bức tượng bằng đồng do điêu khắc
gia Vũ Đình Lâm thực hiện .
Nhân vật
Yohan Cabaye & François
Trinh-Duc
Yohan Cabaye mang trong mình dòng
máu Việt khi có bà Nội là người Việt Nam .
Yohan Cabaye ( sinh ngày 14/01/1986 tại
Tourcoing , Pháp ) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp đang chơi tại
Giải bóng đá ngoại hạng Anh cho câu lạc bộ Newcastle United
.
Trong số những người Việt sống ở Pháp
được nhiều người biết đến có thể kể tới nhà toán học Ngô Bảo Châu , thiền sư
Thích Nhất Hạnh ; nhà văn Dương Thu Hương ; Trần Thị Nam Murtin , người nhận Bắc
Đẩu Bội Tinh Premier Ministre grade Chevalier năm 2008 của chính phủ Pháp[ 49 ]
& [ 50 ] ; ký giả Bùi Tín ; kỹ sư Trương Trọng Thi ; đạo diễn Trần Anh Hùng
; và các nữ diễn viên Phạm Linh Đan , Trần Nữ Yên Khê . Bên cạnh đó cũng có
những người Pháp mang trong mình một phần dòng máu Việt nổi tiếng như Thanh Tra
Cảnh Sát Georges Nguyễn Văn Lộc , LS Jacques Vergès , diễn viên France Nguyen ,
và cầu thủ François Trinh-Duc , Yohan Cabaye ...
LS Jacques Vergès
KS Trương Trọng Thi được trao huân chương Bắc Đẩu Bội
Tinh
Vô Danh
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire