Kính gửi quý anh chị đọc bài viết về lịch sử.
Caroline Thanh Hương
CHUYỆN
NĂM LỬA VÀ BA CỤT
Lữ
Giang
Trong việc thống nhất lực lượng quốc gia để tiến tới thành lập Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam, các lực lượng quân sự của các giáo phái và đảng phái là một trở ngại lớn. Việc thống nhất các lực lượng này vẫn còn là những vấn đề tranh luận, trong đó vụ án Ba Cụt là vấn đề được tranh luận nhiều nhất. Nhân kỷ niệm 50 năm ban hành Hiến Pháp VNCH, chúng tôi xin trình bày lại một số sự kiện lịch sử để độc giả có thể thấy rõ vấn đề hơn.
Như chúng tôi đã nói trong VietCatholic News số ra
ngày 13.10.2006, trong thời gian quân đội Pháp còn chiếm
đóng ở Đông Dương, ở trong Nam, Pháp dùng
lực lượng của các giáo phái và Bình Xuyên như là
Phụ Lực Quân (Suppletif Forces) để giữ lãnh
thổ, và dùng các viên chức thân Pháp để cai trị.
Tại miền Bắc, Pháp dùng Đại Việt và
Việt Nam Quốc Dân Đảng để bình
định nông thôn. Khi tình hình lộn xộn, các lực
lượng này đã trở thành những “sứ quân”, hùng
cứ tại những phương khác nhau. Các lực
lượng này thường xử dụng luật
rừng và chẳng coi luật pháp quốc gia ra gì.
Theo quan điểm của Ngoại Trướng Hoa
Kỳ Foster Dulles, “Cao Đài và Hòa Hảo có thể
được xử dụng, nhưng không xài Bình Xuyên.” (Cao
Dai and Hoa Hao could be used but not Binh Xuyen). Nhưng việc
thương lượng với hai giáo phái Cao Đài và Hòa
Hảo để thống nhất lực lương quốc
gia không phải là chuyện dễ, vì những đòi
hỏi mà họ đưa ra không phù hợp với luật
pháp và khả năng tài chánh của quốc gia (xem những
đòi hỏi của Ba Cụt ở sau). Trong Phật Giáo
Hòa Hảo, chỉ có hai lực lượng chịu về
hợp tác với chính phủ quốc gia là lực lượng
của Tướng Nguyễn Giác Ngộ và của
Đại Tá Nguyễn Văn Huê, còn các lực lượng
của Trần Văn Soái (Năm Lửa), Ba Cụt và Lâm
Thành Nguyên, đã đi theo Bình Xuyên chống lại chính
phủ vì có sự khuyến khích và hổ trợ của
Pháp. Vậy chỉ còn một cách là đánh dẹp.
TRANH CHẤP GIỮA HAI TƯỚNG HỌ
DƯƠNG
Ngày 23.5.1955, chính phủ quyết định cho thành
lập Khu Chiến Miền Tây bao gồm ba Phân Khu
Vĩnh Long, Cần Thơ và Sóc Trăng. Đại Tá
Dương Văn Đức, Chỉ Huy Trưởng
Phân Khu Sóc Trăng được chỉ định làm
Chỉ Huy Trưởng Khu Chiến này. Nhiệm vụ Khu
Chiến này là bình định miền Tây.
Mặc dầu đã có những nỗ lực của
Đại Tá Dương Văn Đức và Khu Chiến
Miền Tây, loạn quân Hòa Hảo vẫn chưa bị
đánh bại hoàn toàn, lý do có lẽ không phải vì
Tướng Đức thiếu khả năng mà vì vùng
được giao phó bình định quá lớn với
địa thế hiểm trở, trong khi đó
phương tiện được cung cấp rất
giới hạn.
Quân của Ba Cụt bị săn đuổi đã
rút về vùng biên giới Việt – Miên để củng
cố rồi quay trở lại quấy phá các đồn
bóp và thôn xóm, đồng thời phục kích quân chính
phủ ở các trục lộ giao thông, gây tình trạng
bất an. Trong khi đó, quân của Tướng Trần
Văn Soái rút về vùng Đồng Tháp Mười lập
cơ sở mới với sự giúp đỡ của Pháp
qua ngả biên giới Việt – Miên. Tình báo của chính
phủ còn phát hiện cả máy bay Pháp thả tiếp
liệu và võ khí cho quân của Tướng Trần Văn
Soái. Ngoài ra, hai đơn vị Cao Đài ly khai vẫn
đang lẫn trốn, một hoạt động
động ở vùng Giồng thuộc Đồng Tháp
Mười và một tại Châu Đốc.
Để sớm bình định miền Tây và ổn
định tình hình chính trị, theo lời khuyền cáo
của Giáo sư Westly R. Fishel, ông Diệm đã mời ông
Nguyễn Ngọc Thơ góp phần vào việc thanh toàn các
phần tử phiến loạn Hòa Hảo còn lại.
Mặc dầu ông Nguyễn Ngọc Thơ có quen
biết với ông Phan Văn Hoành, cậu của Ba Cụt,
trong thời gian ông làm Tỉnh Trưởng các tỉnh
Cần Thơ, Long Xuyên và Mỹ Tho, Ba Cụt đã mưu
sát ông đến 6 lần vì cho rằng ông theo Pháp, nhưng
ông đã thoát được. Đối lại, ông Thơ
cũng đã cho mở các cuộc hành quân để truy kích
Ba Cụt nhiều lần, nhưng không bắt
được. Do đó, khi nghe ông Ngô Đình Nhu hỏi ý kiến
về việc dẹp loạn Trần Văn Soái và Ba
Cụt ở miền Tây, ông xin lãnh trách nhiệm ngay. Đây
là một cơ hội tốt giúp ông thanh toán một kẻ
thù luôn theo đuổi ông. Ông đề nghị cử
Tướng Dương Văn Minh làm chỉ huy
trưởng chiến dịch, còn ông phụ trách việc
thương lượng với các phe ly khai, vì ông đã
từng quen biết hay đối đầu với họ
khi làm tỉnh trưởng một số tỉnh trong vùng.
Ông Diệm đồng ý.
Ngày 29.12.1955, ông Diệm đã ra lệnh chấm
dứt chiến dịch Đinh Tiên Hoàng do Đại Tá
Dương Văn Đức chỉ huy và thăng
Đại Tá Đức lên Thiếu Tướng.
Tướng Đức vẫn tỏ vẽ bất bình
về chuyện chấm dứt công tác một cách
đột ngột này và khi được biết ông
Nguyễn Ngọc Thơ là người đã đề
nghị Tướng Dương Văn Minh thay mình,
Tướng Đức rất giận ông Thơ. Do đó,
sau khi chiến dịch này chấm dứt, ngày 10.6.1956, ông
Diệm phải cử Tướng Đức đi làm
Đại Sứ tại Nam Hàn.
Rất hận về chuyện ông Nguyễn Ngọc
Thơ đưa Tướng Dương Văn Minh
xuống cướp chỗ của mình, khi tham gia cuộc
chỉnh lý của Tướng Nguyễn Khánh ngày 30.1.1964
lật đổ Tướng Dương Văn Minh, công
việc đầu tiên của Tướng Đức là
đi tìm ông Nguyễn Ngọc Thơ, lúc đó đang là
Thủ Tướng Chính Phủ, kéo ra và đánh mấy cái
bớp tai trước mặt mọi người!
Mặc dầu Tướng Dương Văn Minh
đang bị điều tra về việc biển thủ
một thùng phuy vàng lấy được của Bảy
Viễn, ngày 1.1.1956, ông Diệm đã cử Tướng
Dương Văn Minh làm Chỉ Huy Trưởng Chiến
Dịch Nguyễn Huệ bình định miền Tây,
nhằm thực hiện ba mục tiêu sau đây: Phong
tỏa biên giới Việt – Miên từ Hà Tiên đến
sông Vàm Cỏ, không cho loạn quân chạy sang; cắt
đứt sự liên lạc của loạn quân giữa Khu
Chiến Miền Tây và và Khu Chiến Đồng Tháp
Mười; và thanh toán các lực lượng giáo phái ly
khai, đặc biệt là lực lượng của
Trần Văn Soái và Ba Cụt.
Sau đây là phần tòm lược tiến trình và
kết quả của Chiến Dịch Nguyễn Huệ:
THANH TOÁN LỰC LƯỢNG NĂM LỬA
Với sự giúp đỡ của cả Pháp lẫn
Việt Cộng, Tướng Trần Văn Soát, tức
Năm Lửa, đã lập được những căn
cứ vũng chắc trong vùng Đồng Tháp Mười.
Lúc đó Tướng Soái có khoảng 3.800 quân
được chia ra thành 7 trung đoàn có tên như sau: Thiên
Hộ, Lê Lợi, Nguyễn Trải, Thường Kiệt,
Quang Trung, Quốc Tuấn và Huỳnh Đức. Tuy gọi
trung đoàn nhưng mỗi đơn vị này chỉ có
khoảng trên dưới 400 quân, có trung đoàn như
Quốc Tuấn chỉ có 65 quân. Ngoài 7 trung đoàn này, còn có
một số tiểu đoàn độc lập.
Quân chính phủ được chia làm 3 cách tiến vào
Đồng Tháp Mười. Ngày 9.1.1956, đoàn quân của
Khu Chiến Đồng Tháp và Sư Đoàn 15 khinh chiến
tảo thanh vùng Gò Bắc Chiên, trong khi đó, hai Trung Đoàn
43 và 44 theo sông Vàm Cỏ Tây tiến vào Bình Châu. Cánh quân
thứ ba của Tướng Nguyễn Giác Ngộ và Trung
Đoàn 42 từ Sađéc lên, bố trí chận
đường của địch. Quân của
Tướng Soái chỉ bỏ chạy.
Theo chiến thuật “vừa đánh vừa đàm”
đã trù, sau khi dồn quân Tướng Soái vào ngỏ
cụt, một đại diện của chính phủ
đã tiếp xúc với Đại Tá Phan Hà, Đổng Lý
Văn Phòng của Tướng Soái, tại đồn Cây
Tre, làng Tân Phú, tỉnh Đồng Tháp. Đại Tá Hà bày
tỏ ước muốn được trở về.
Cuộc tiếp xúc thứ hai với bà Lê Thị Gấm,
vợ của Tướng Soái, đã xẩy ra ngày 24.1.1956.
Bà Gấm hứa sẽ thuyết phục Tướng Soái
về quy thuận. Ngày 11.2.1956, ông Nguyễn Ngọc Thơ,
đại sứ lưu động của Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm, đã tiếp xúc với
Tướng Soái. Tướng Soái đưa ra một
số điều kiện. Sau khi thảo luận, chính
phủ đã đồng ý như sau:
- Tướng Soái đặt toàn bộ lưu
lượng võ trang của ông dưới quyền của
chính phủ.
- Các tài sản đã tịch thu thuộc quyền chính
phủ. Các tài sản chưa tịch thu, Tướng Soái có
quyền xử dụng.
- Binh sĩ Hòa Hảo được quyền tự
do lựa chọn hoặc gia nhập quân đội chính
phủ hoặc trỡ về với gia đình và làm ăn.
Ngày 17.2.1956, Tướng Soái đã mang quân ra quy
thuận. Ngày 2.3.1956 Tướng Soái đã đưa ra
lời tuyên bố nói rõ lý do lực lượng của ông
về quy thuận với kết luận như sau:
“Tôi tha
thiết kêu gọi anh em Phật Giáo Hòa Hảo hãy đoàn
kết lại, noi theo lời tuyên bố của Đức
thân sinh của Đức Thầy, đúng sau lưng Ngô
Tổng Thống để cương quyết thanh
trừng bọn phản đạo và tiêu diệt bọn
Thực – Cộng, để xây đắp tự do dân
chủ và độc lập phú cường cho đất
nước.”
Cuộc hành quân thanh toán lực lượng Trần
Văn Soái từ 9.1.1956 đến 17.1956 đã đem
lại sự thiệt hại về nhân mạng như sau:
Quân của Tướng Soái có 268 người bị
giết và 3750 về quy thuật, còn quân chính phủ mất
31 người và bị thương 98 người.
Lễ tiếp thu lực lượng Trần Văn
Soái được tổ chức long trọng tại Cái
Vồn ngày 7.3.1956. Sự trở về của lực
lượng này đã làm cho thình hình miền Tây lắng
dịu. Buổi lễ này cũng đã chấm dứt
cuộc đời hoạt động chính trị và quân
sự của Tướng Trần Văn Soái. Sau buổi
lễ, ông và gia đình đã lên Sài Gòn sống đời
bình thường như những người dân khác. Sau
đó ông đi Pháp và đã chết ở Pháp.
THANH TOÁN LOẠN QUÂN BA CỤT
Sau Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng 2, Ba Cụt còn
khoảng 2.000 quân, rút về hoạt động ở các
khu Giồng Riêng (Rạch Giá), Ba Thê, Hà Tiên và Châu Đốc.
Số quân còn lại của 4 trung đoàn chủ lực
như sau: Bắc Tiến khoảng 200 quân, Nguyễn
Huệ khoảng 200 quân, Lê Quang trên 300 quân và Lê Lợi
khoảng 100 quân. Trong 4 trung đoàn này, Trung Đoàn Lê Quang do
Nguyễn Thời Rê chỉ huy được coi là thiện
chiến nhất và được trang bị đầy
đủ nhất. Ba Cụt là Tổng Thư Lệnh và Ba
Bụng, tức Phan Công Cẩn, là Phó Tổng Tư
Lệnh.
Chiến dịch thanh toán lực lượng Ba
Cụt được chia thành nhiều giai đoạn.
Kể từ ngày 5.1.1956, Sư Đoàn 11 khinh chiến
mở cuộc hành quân vào vùng Giồng Riêng để truy
lùng hai trung đoàn Lê Quang và Nguyễn Huệ. Tuy nhiên, vì
cuộc hành quân được tổ chức quá gấp
rút, không nghiên cứu kỷ càng, thiếu phương
tiện vận chuyển, nên quân Ba Cụt chạy thoát
gần hết. Nhưng ngày 8.1.1956 quân Ba Cụt đột
nhập xóm Thầy Quân ở Cà Mau, bắt Thiếu Úy Bùi
Quang Thừa và một số viên chức hành chánh đem ra
mổ bụng. Ngày 10.1.1956, Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung
Đoàn 36 do Đại Úy Trần Hữu Hạnh chỉ huy
mở cuộc hành quân truy lùng địch bị lọt vào
ổ phục kích bị thiệt hại rất nặng.
Ngày 13.1.1956, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 4 đã
cho mở cuộc hành quân tiến vào Rạch Cần
Thảo vì được tin quân Ba Cụt đang thu
thuế lúa của dân. Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 12 đã
tiêu diệt toàn bộ đại đội bảo vệ
việc thu lúa.
1 - Thương thuyết với Ba Cụt: Ông Nguyễn Ngọc Thơ quen biết với
cậu ruột của Ba Cụt là ông Huỳnh Kim Hoành,
thường gọi là ông giáo Hoành, ở Bằng Tăng.
Ông Hoành là người đã dạy cho Ba Cụt học
hết chương trình tiểu học, nên Ba Cụt
rất kính trọng ông giáo Hoành. Ông Thơ về Bằng
Tăng tìm gặp ông giáo Hoành và nhờ ông giáo Hoành giúp
để có thể nói chuyện với Ba Cụt, nhưng
Ba Cụt nhất định không thương thuyết.
Tại sao lúc này Ba Cụt chịu thương thuyết? Có
giả thiết cho rằng Ba Cụt chịu thương
thuyết vì đang bị quân đội quốc gia dồn
vào đường cùng. Nhưng một giả thiết khác
cho rằng Ba Cụt đã chấp nhận thương
thuyết như một kế hoãn binh. Lợi dụng
cuộc ngưng bắn tạm thời diễn ra lúc có
thương thuyết, Ba Cụt cho chỉnh đốn
lại hàng ngũ và tái phối trí lực lượng để
tiếp tục đương đầu với quân chính
phủ. Các diễn biến sau đây cho thấy giả
thuyết này đúng.
Theo Ba Cụt khai trước tòa thì cuộc hội
kiến sơ bộ diễn ra ngày 26.3.1946 tại làng
Thường Phước, quận Hồng Ngự. Đây
là một làng nằm sát biên giới Việt - Miên. Nói
đúng và rõ hơn, ông Nguyễn Ngọc Thơ đã
gặp Ba Cụt ở Cồn Tảo nằm trên sông Mêkông
cách quận Tân Châu lối 15 cây số về hướng Bắc.
Trong cuộc hội kiến này, ông Nguyễn Ngọc Thơ
hỏi Ba Cụt có chịu đưa lực lượng
của ông về sát nhập vào Quân Đội Quốc Gia và
đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ
Tổng Tham Mưu hay không. Ba Cụt trả lời rằng
trên nguyên tắc ông đồng ý, nhưng chính phủ
phải cam kết thi hành những điều kiện ông
sẽ đưa ra.
Ba Cụt khai trước Tòa rằng cuộc hội
kiến thứ hai đã diễn ra ngày 6.4.1956. Thật ra,
cuộc hội kiến này được dự trù sẽ
diễn ra vào ngày 4.4.1956, nhưng khi ông Thơ đến
Cồn Tảo thì Ba Cụt không chịu hội kiến mà
đưa cho ông Nguyễn Ngọc Thơ một “bản
điều kiện” do Ba Cụt ký tên và đề ngày
2.4.1956. “Bản điều kiện” này gồm 16
điểm, đại lược như sau:
1.- Chính phủ thừa nhận Đảng Việt Nam
Dân Chủ Xã Hội (gọi tắt là Đảng Dân Xã) là
một chánh đảng hợp pháp, được phép
hoạt động trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam.
Phóng thích tất cả các chính trị phạm do
Đảng Dân Xã nhìn nhận và bảo đảm an ninh cho
toàn thể cán bộ chính trị của Đảng Dân Xã.
2.- Không nhìn nhận hiệp định Genève, tẩy
ban kiểm soát đình chiến ra khỏi nước.
3.- Với số vũ khí hiện có của lực
lượng Đảng Dân Xã, chính phủ bổ sung thêm
để thành lập hai sư đoàn, một sư
đoàn Bắc Tiến và một sư đoàn Bảo An lo
giữ an ninh trật tự ở miền Tây. Hai sư
đoàn này do Trung Tướng Lê Quang Vinh (tức Ba Cụt)
chỉ huy. Trung Tướng Vinh chịu hệ thống
trực thuộc của Bộ Quốc Phòng. Tướng Lê
Quang Vinh có quyền đặt bản doanh tại Long Xuyên,
Sài Gõn và một bản doanh lưu động.
4.- Công nhận Trung Tước Lê Quang Vinh là sĩ quan
quân đội quốc gia, và công nhận cấp bậc
sĩ quan và hạ sĩ quan của binh sĩ Đảng
Dân Xã. Trợ cấp cho gia đình các tử sĩ và
thương binh chống Thực – Cộng do Tướng
Lê Quang Vinh chỉ huy.
5.- Tái võ trang cho một số đơn vị Bảo
An Hòa Hảo để giữ an ninh trật tự vùng thánh
địa.
Dĩ nhiên, chính phủ không bao giờ chấp nhận
những điều kiện như thế, nhất là khi
lực lượng Ba Cụt đang đến ngày tàn.
Chấp nhận những điều kiện đó thì
chẳng khác gì công nhận một quốc gia trong một
quốc gia. “Bản điều kiện” của Ba Cụt
cho thấy Ba Cụt không thật sự muốn
thương thuyết mà chỉ coi thương thuyết
như một kế hoãn binh. Quả thật, trong thới
gian hưu chiến từ 26 tháng 3 đến mồng 6 tháng
4, Ba Cụt đã củng cố lại hàng ngũ và tái
phối trí để tiếp tục cuộc chiến.
Riêng về điều kiện buộc chính phủ
phải công nhận Ba Cụt là Trung Tướng của
Quân Đội Quốc Gia, cần nhắc lại những
diễn biến sau đây: Ngày 20.8.1950 Ba Cụt đã
về hợp tác với Pháp lần thứ tư và
được gắn lon Thiếu Tá, nhưng sau đó ông lại
ra đi. Tháng 11 năm 1953, ông về hợp tác lần
thứ năm và đến này 1.12.1953, ông được
Pháp gắn lon Đại Tá. Sau đó ông lại ra đi. Ông
đã về rồi đi tất cả 6 lần. Nay từ
Đại Tá ông đòi lên Trung Tướng!
Ngày 6.4.1956, ông Nguyễn Ngọc Thơ thông báo cho Ba
Cụt biết “Bản điều kiện” của ông không
được chính phủ chấp nhận.
2 - Đuổi bắt Ba Cụt: Sau khi cuộc thương thuyết thất bại,
ngày 8.4.1956 Bộ Tư Lệnh Chiến Dịch Nguyễn
Huệ cho hai trung đoàn mở cuộc hành quân truy lùng Ba
Cụt và quân của Ba Cụt, một trung đoàn bố
trí trong khu Châu Phú Bắc để chận đường
quân Ba Cụt chạy qua biên giới, còn Trung Đoàn 41 phát
xuất từ quận Hồng Ngự mở cuộc
tấn công vào Thường Phước, nơi có Bộ
Tư Lệnh của quân Ba Cụt. Cuộc hành quân này
chỉ đụng độ lẻ tẻ. Ba Cụt đã
vượt được vòng vây, chạy về
đến Chắc Cà Đao cách Long Xuyên khoảng 7 cây
số thì bị bắt vào ngày 13.4.1956. Bộ Tư Lệnh
Chiến Dịch Nguyễn Huệ đã từờng trình
về vụ bắt Ba Cụt như sau:
“... Cuộc
thương thuyết thất bại, Ba Cụt len lỏi
cùng một số sĩ quan cận vệ và tùy tùng trốn
thoát vùng phong tỏa của quân ta. Từ vùng Thường
Phước, Ba Cụt rút xuống Đồng Tháp và trú
ẩn với lực lượng quân sự nghĩa quân
cách mạng tại vùng rạch Ba Răng, Ngày 11.4.1956, vào lúc
tối lâu, Ba Cụt và Thế Xương (Dương
Thế Xương - Đổng Lý Văn Phòng Dân Xã
Đảng), Thiếu Úy Vinh (Bí Thư của Ba Cụt),
Thiếu Úy Tốc (Sĩ quan cận vệ) và một
số nhân viên cận vệ rời Đồng Tháp để
về khu vực Long Xuyên với mục đích trốn
thoát vùng phong tỏa.
“Nội
bọn dùng một xuồng và một ghe khởi hành từ
ngọn rạch Ba Răng và tiến về phía Nam dọc
theo sông Hậu Giang đến đồn Hòa Hảo (7 cây
số Tây Bắc Chợ Mới) vào lúc 24 giờ và số
cận vệ được để nghỉ đêm
tại nơi đây.
“Sáng ngày
12.4.1956, Ba Cụt cùng Thế Xương qua sông, ngừng
tại Xẻo Bưng (ấp Mỹ Thuận) để
gặp người cậu ruột tên là Hoành và một
số người khác bàn luận việc mua vũ khí và
đạn dược.
“Chiều hôm
đó, vào khoảng 18 giờ, toán cận vệ còn lại
rời khỏi cồn Hòa Hảo để theo Ba Cụt.
Khi toàn này rời khỏi cồn Hòa Hảo độ 2 cây số
và đang qua sông thì bị nhân viên biệt động
đội Phòng Nhì trông thấy, xả súng bắn theo.
Được báo động, quân đội quốc gia
đóng ở Chợ Mới liền tổ chức ruồng
bố để tìm bắt loạn quân.
“Bị
động, Ba Cụt cùng đoàn tùy tùng rút xuống phía Nam
vào lúc 21 giờ 00, riêng Thế Xương được
lệnh Ba Cụt tiến lên Đồng Tháp.
“Xuồng và ghe
chở Ba Cụt cặp theo hữu ngạn sông Hậu Giang
và đúng nửa đêm thì cả bọn rẻ vào
Đồng Xúc (Mỹ Hòa).
“Nghỉ
lại nơi đây, coi rằng đã ra khỏi cuộc
ruồng bố của quân đội chính phủ, không
ngờ đến 6 giờ 00 sáng 13.4.1956, Ba Cụt và toán
cận vệ bị quân đội quốc gia truy kích, nên
vừa băng qua sông ngang vàm Chắc Cà Đao (trên bản
đồ gọi là Chắc Cần Đào), vừa cập
bến thì bị tiểu đội tình báo Bảo An
bắt được.
“Biết trước không thể chống cự
được, Ba Cụt ra lệnh đầu hàng.
Thật ra, việc bố trí để bắt Ba
Cụt phức tạp hơn nhiều. Những
người liên hệ cho biết, sau khi Tướng
Trần Văn Soái chịu quy thuận nhưng Ba Cụt vẫn
từ chối, ông Ngô Đình Nhu đã bàn với
Tướng Dương Dương Văn Minh soạn
thảo một kế hoạch rất tỷ mỷ
để bắt Ba Cụt. Các nhân viên tình báo có nhiệm
vụ theo dõi sự di chuyển của Ba Cụt cho
biết Ba Cụt thường hay lui tới vùng Chắc Cà
Đao cách Long Xuyên khoảng 7 cây số và thỉnh
thoảng dừng chân tại đồn này. Đồn
Bảo An Chắc Cà Đao do các binh sĩ Bảo An giữ
và Trung Sĩ I Giầu làm trưởng đồn,
nhưng các binh sĩ này là tín đồ Phật Giáo Hòa
Hảo, rất cảm phục Ba Cụt, nên Ba Cụt
thường ghé vào nghỉ ở đó.
Đại Úy Hiển phụ
trách về an ninh của Bảo An được ông Ngô
Đình Nhu trao cho thành lập và thực hiện kế
hoạch phục kích bắt Ba Cụt. Đại Úy
Hiển đã tuyển chọn 15 binh sĩ Bảo An tinh
duệ và giao cho Trung Sĩ Lợi, một
người rất giỏi về võ thuật huấn
luyện. Sau khi huấn luyện xong, một đội
đặc nhiệm đã được thành lập
lấy tên là Đội Bảo An Trần Quốc
Tuấn. Bên ngoài, đội này được giao
nhiệm vụ theo dõi các hoạt động của
Việt Cộng ở vùng Chắc Cà Đao, nhưng mục
đích chính là theo dõi và bắt Ba Cụt. Cả đội
này đã mặc thường phục đến bố trí
vùng quanh đồn Bảo An Chắc Cà Đao.
Ngày 8.4.1956, sau khi hai trung đoàn mở cuộc hành quân
lục soát vùng Châu Phú Bắc và Thường Phước
không bắt được Ba Cụt, Bộ Tư Lệnh
Chiến Dịch Nguyễn Huệ tin rằng Ba Cụt có
thể trở về vùng Chắc Cà Đao lẩn trốn
nên đã bí mật ra lệnh cho Đội Bảo An
Trần Quốc Tuấn của Đại Úy Hiển
đến chiếm đóng đồn Bảo An Chắc Cà
Đao, kết hợp với lực lượng của
Trung Sĩ Giầu thành Liên Đội Bảo An Trần
Quốc Tuấn do Đại Úy Hiển chỉ huy.
Đại Úy Hiển đã cho liên đội bố trí quanh
đồn Chắc Cà Đao để chờ bắt Ba
Cụt.
Đêm 13.4.1956, Ba Cụt và toán cận vệ đâm
xuồng qua sông về phía Long Xuyên, ngang vàm Chắc Cà
Đao, cập bến gần đồn Đồn Bảo
An Chắc Cà Đao, lên bộ, băng qua một thửa
ruộng nhỏ rồi lên lộ chính và tiến về
đồn Bảo An Chắc Cà Đao với sự tin
tưởng rằng sẽ được các binh sĩ
Bảo An trong đồn đón tiếp như những
lần trước. Tất cả có 8 người
đều mặc đồ đen, 5 người mang súng
trường hay tiểu liên, Ba Cụt mang súng lục, còn
hai người không mang súng. Khi họ đang từ từ
tiến về phía đồn thì các binh sĩ phục kích
hai bên lộ nhảy ra hô đưa tay lên và bắt trói
lại, toán cận vệ của Ba Cụt không trở tay
kịp.
Người đè Ba Cụt xuống và trói chặt là
Trung Sĩ Lợi nhưng trong thông báo nói là Trung Sĩ I
Giầu để che dấu hoạt động
đặc biệt của Đội Bảo An Trần Quốc
Tuấn. Trung Sĩ Giầu vẫn còn trung thành với Ba
Cụt, nên khi ra tòa Trung Sĩ Giầu có khai rằng Ba
Cụt nói về để thương thuyết.
Năm cận vệ mang súng bị bắt cùng với
Ba Cụt là Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Văn Phú,
Nguyễn Văn Thơ, Nguyễn Văn Tóc và Võ Văn
Vĩnh. Hai người còn lại không mang vũ khí là Phan
Văn Hoành và Trần Tấn Hanh. Hai người này phụ
trách chèo đò. Ngoài ra, các binh sĩ Bảo An còn tịch thu
được hơn một triệu đồng.
Ngày 29.5.1956, trong một buổi lễ trao lệnh
kỳ và huy chương, Đại Biểu Chính Phủ
tại Nam Việt đã trao tặng Liên Đội Bảo
An Trần Quốc Tuấn một triệu đồng vì có
công bắt được Tướng Ba Cụt. (Đoàn
Thêm, 1945 – 1964, Việc từng ngày, Xuân Thu, Hoa Kỳ, tr.
197). Số tiền này được chia cho các toàn viên
của Liên Đội. Riêng Đại Úy Hiển
được thưởng 1 triệu đồng, Trung
Sĩ Lợi 200.000 đồng và được
đặc cách thăng Thiếu Úy. Tuy nhiên, khoảng
một năm sau khi Ba Cụt bị xử tử, Thiếu
Úy Lợi đang nằm ngủ trưa ở đồn
Bảo An Thốt Nốt, Long Xuyên, thì bị một kẻ
lạ mặt bắn bằng súng Colt 12 ly, đạn xuyên
qua đầu và chết ngay tại chỗ. Cơ quan an ninh
nghi rằng một tay chân bộ hạ của Ba Cụt
đã hạ sát Thiếu Úy Lợi để báo thù cho Ba
Cụt.
Ngay sau khi Ba Cụt và đồng bọn bị
bắt, hơn 10 xe nhà binh đã đến giải họ
về Long Xuyên. Ít lâu sau, họ bị giải về
Cần Thơ để lập hồ sơ truy tố ra
Tòa Đại Hình.
3 - Vấn đề tranh luận: Trong cuốn “Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật
Chí” , Chánh Đạo, tức Vũ Ngự Chiêu, đã
viết: “Có tin cho rằng Ba Cụt đã bị Phó
Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ dụ hàng với
cấp bậc Thiếu Tướng, rồi sau đó
bắt sống trên đường tới phó hội.” (tr.
197).
Việt Cộng cũng viết như Vũ Ngự
Chiêu: “Ngô Đình Diệm đã nhiều lần phái quân
đội đến tiểu trừ nhưng vẫn không
thanh toán được. Sau Ngô Đình Diệm âm mưu
“thương thuyết”, chấp nhận cho Ba Cụt
về cộng tác với chính quyền (do Nguyễn Ngọc
Thơ làm trung gian), nhưng vào phút cuối, Ngô Đình
Diệm trở mặt, bắt cóc ông rồi đưa ra
tòa xử tử hình với tội “phản loạn”.” (Tự
Diễn Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam, Văn Hóa, Hà
Nội 1997, tr. 1190).
Chuyện Ba Cụt trở về để
thương thuyết đã được ba Luật
sư của Ba Cụt là Lê Ngọc Chấn, Vương
Quang Nhường và Đinh Xuân Các đưa ra thanh luận
trước Tòa Án Quân Sự Cần Thơ trong một phiên
xử kéo dài trong hai ngày 3 và 4.7.1956, dựa trên lời
kể lại của Trung Sĩ I Giầu rằng khi bị
bắt, Ba Cụt có nói ông về Long Xuyên để
thương thuyết. Tuy nhiên, Kể từ ngày Ba Cụt
không chịu tiếp tục thương thuyết và
đưa ra các điều kiện bắt chính phủ phải
thi hành là ngày 4.4.1956, đến ngày bị bắt là ngày
13.4.1956, tính ra là 10 ngày. Không có bằng chứng nào cho
thấy trong thời gian đó có một cuộc
thương thuyết giữa Ba Cụt và đại
diện chính phủ đã được dự trù sẽ
diễn ra tại Long Xuyên. Vậy nếu Ba Cụt về
Long Xuyên để thương tuyết thì thương
thuyết với ai? Nhiều người tin rằng sở
dĩ Ba Cụt nói với Trung Sĩ Giàu như trên là
để chạy tội sau khi đã bị bắt mà thôi.
Trong phiên tòa, Đại Tá Mai Hữu Xuân ngồi
ghế Ủy Viên Chính Phủ còn dẫn chứng thêm
rằng khi các điều kiện Ba Cụt đưa ra
không được chính phủ chấp nhận, Ba Cụt
đã viết cho vợ là Trần Thị Hoa tự Phấn
một lá thư đề ngày 6.4.1956, trong đó có
đoạn như sau: “Anh nói cho mình rõ, anh và Diệm
ăn thua nhau lớn rồi, quyết một mât một còn,
lần này anh không nhịn...” Ba Cụt cũng đã
viết thư báo tin cho Phó Tổng Tư Lệnh của ông
ta là Ba Bụng, tức Phan Công Cẩn, biết cuộc
hội kiến đã thất bại để ông này
tiếp tục cuộc chiến. Hai tài liệu này đã
bị Quân Đội Quốc Gia bắt được khi
hành quân. Như vậy, làm gì còn có chuyện thương
thuyết nữa?
Sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật
đổ, ông Nguyễn Ngọc Thơ cũng đã xác
nhận không hề có chuyện lừa Ba Cụt về
thương thuyết rồi bắt. Trong một cuộc
họp báo vào tháng 12 năm 1963 tại Hội Trường
Diên Hồng, khi một ký giả hỏi rằng có phải
Ba Cụt bị gạt về họp tại Chắc Cà
Đao rồi bị bắt, có phải không, Thủ
Tướng Nguyễn Ngọc Thơ đã trả lời: “Vì
sự đòi hỏi của Ba Cụt quá đáng, như
chính phủ phải nhìn nhận anh là Trung Tướng Quân
Đội Quốc Gia anh mới trở về hợp tác
nên cuộc thương thuyết với Ba Cụt bất
thành. Sau đó, Ba Cụt bị bắt trong khuôn khổ
một cuộc hành quân ở miền Tây.”
Sau khi Ba Cụt bị bắt, ngày 24.4,1956, Ba Bụng,
tức Phan Công Cẩn, Phó Tổng Tư Lệnh của Ba
Cụt và một số quân sĩ khác bị bắn chết
tại Châu Đốc. Sau đó, Nguyễn Van Ca, Chính
Trị Bộ Chủ Nhiệm của quân Ba Cụt bị
bắt tại kinh Thần Nông và Dương Thế
Xương, Đổng Lý Văn Phòng của Ba Cụt
bị bắt tại Mỹ Thuận, quân của Ba Cụt
tan rả. Ngày 31.5.1956, Chiến Dịch Nguyễn Huệ
chấm dứt. Qua Chiến Dịch Nguyễn Huệ, có 918
quân của Ba Cụt, trong đó có 11 sỹ quan, đã quy
thuận.
4 - Xét xử và hành quyết Ba Cụt: Vì việc truy tố và xét xử Ba Cụt và
đồng bọn sẽ diễn ra tại Tòa Đại
Hình Cần Thơ, nên ông Nguyễn Văn Sĩ, Bộ
Trưởng Tư Pháp, đã cử ông Huỳnh Hiệp
Thành ngồi ghế Chánh Án, và ông Lâm Lễ Trinh, Biện Lý
Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, ngồi ghế Công Tố Viện.
Các hội thẩm do Tòa Đại Hình Cần Thơ
chỉ định.
Ngoài hai tội chính là “phản loạn” và “dùng vũ
lực chống lại Quân Đội Quốc Gia”, Ba
Cụt và đồng bọn còn bị dân chúng tố cáo
về vô số hành vi phạm pháp khác như ức hiếp
và giết hại thân nhân của họ, thu thuế bất
hợp pháp, v.v. nên Bộ Tư Pháp phải chỉ thị
hai ông Chánh Án (kiêm Biện Lý và Dự Thẩm) Tòa Hòa Giải
Rộng Quyền Long Xuyên và Châu Đốc nhận
đơn khiếu nại của dân chúng, lấy khẩu
cung các nhân chứng rồi gởi hồ sơ về cho ông
Biện Lý Lâm Lễ Trinh để lập thủ tục
truy tố và đưa ra Tòa Đại Hình xét xử.
Chỉ với hai tội “phản loạn” và “dùng
vũ lực chống lại Quân Đội Quốc Gia”, Ba
Cụt cũng đã có thể bị tuyên án tử hình
rồi. Đây là hai tội khó có thể biện minh
được. Ngoài ra, Ngày 10.6.1955, Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm đã ban hành Dụ số 43 đặt
Tướng Trần Văn Soái (tức Năm Lửa) và
Tướng Lê Quang Vinh (tức Ba Cụt) ra ngoài vòng pháp
luật. Riêng Tướng Trần Văn Soái đã quy
thuận nên đã được ân xá. Tướng Ba
Cụt lại thuộc loại “sớm đầu tối
đánh”. Trong thời gian từ 1946 đến 1953 Ba
Cụt đã quy thuận 6 lần nhưng sau đó lại
ra đi. “Bản điều kiên” Ba Cụt đã đưa
ra khi thương thuyết là một hành động thách
thức chính phủ. Vì thế, nhiều người tiên
đoán Ba Cụt khó thoát khỏi án tử hình.
Tòa Đại Hình xử sơ thẩm vụ Ba
Cụt và đồng bọn được mở tại
Cần Thơ ngày 11.6.1956. Gia đình Ba Cụt đã thuê hai
luật sư danh tiếng để biện hộ cho Ba
Cụt là Luật Sư Vương Quang Nhường,
Thủ Lãnh Luật Sư Đoàn Sài Gòn, và Luật sư Lê
Ngọc Chấn, lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân
Đảng. Nhưng hồ sơ quá nặng, việc
tận tình biện hộ của hai luật sư tài
giỏi cũng không cứu vãn được gì. Tòa đã
tuyên án tử hình. Ba Cụt kháng cáo.
Lúc đó, tại miền Nam Việt Nam chỉ có hai
tòa thượng thẩm là Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn và
Tòa Thượng Thẩm Huế, nhưng chính phủ
muốn việc tái thẩm diễn ra tại Cần Thơ
để dân chúng miền Tây có thẻ dễ theo dõi, nên ngày
14.6.1956, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã ban hành
Dụ số 33 cho phép thành lập TòaThượng Thẩm
Đại Hình đặc biệt tại Cần Thơ
để tái thẩm. Bộ Trưởng Tư Pháp đã
cử ông Lê Văn Thụ làm Chánh Án và ông Lê Văn Tuấn
ngồi ghế Công Tố Viện.
Ngày 26.6.1956 Tọa Thượng Thẩm Đại
Hình tại Cần Thơ đã họp để tái
thẩm vụ này. Phiên Tòa kéo dài trong hai ngày. Ngày 29.6.1956 Tòa
tuyên bố y án của Tòa Sơ Thẩm Đại Hình ngày
11.6.1956.
Vì hai tội “mưu phản” và “dùng võ khí chống
lại Quân Đội Quốc Gia” thuộc thẩm
quyền Tòa Án Quân Sự nên ngày 4.7.1956, Tòa Án Quân Sự
lại được lập tại Cần Thơ do ông
Vũ Tiến Tuân ngồi Chánh Án và Thiếu Tướng Mai
Hữu Xuân ngồi ghế Ủy Viên Chính Phủ để
tiếp tục xét xử. Tòa cũng tuyên án tử hình Ba
Cụt, tước đoạt binh quyền và tịch thu
tài sản.
Như vậy, Tướng Lê Quang Vinh, tức Ba
Cụt, đã được xét xử đến ba
lần, một lần ở Tòa Sơ Thẩm
Đại Hình, một lần ở Tòa Thượng
Thẩm Đại Hình và một lần ở Tòa Án Quân
Sự. Sau khi đơn xin ân xá của Ba Cụt bị bác,
Ba Cụt đã bị hành quyết tại nghĩa trang
ở đường Hòa Bình, Cần Thơ, vào lúc 5 giờ
45 phút sáng ngày 13.7.1956, bằng cách chém đầu. Lúc đó
Ba Cụt chỉ mới 32 tuổi. Trước khi bị
hành quyết, Ba Cụt có khuyên dặn vợ nuôi dạy các
con cho nên người và xin được mai táng tại Núi
Sam, Châu Đốc.
Tuy nhiên, trong cuốn “Les Guerres du Viet Nam”,
Tướng Trần Văn Đôn có ghi lại như sau:
“Một trong
những người đã hạ sát ông Diệm, ông Nhu là
Đại Úy Nguyễn Văn Nhung, được thăng
cấp Thiếu Tá sau đó. Nhung đã được chú ý
về các thành tích đặc biệt của anh ta. Mỗi
ngày Nhung chặt vài ba cái đầu Việt Minh xách về.
Do đó, Dương Văn Minh đã lấy Nhung về làm
cận vệ, bởi vì ông ta lo sợ bị ám sát, cần
một tay dữ dằn để hộ vệ.
“Trong chiến
dịch Dương Văn Minh tấn công Hòa Hảo,
Tướng Hòa Hỏa Lê Quang Vinh tự Ba Cụt bị
bắt và bị xử tử hình. Sau khi bị chém
đầu, thi hài ông được chôn tại chỗ
(tại nghĩa trang ở đường Hòa Bình). Nhưng
sau đó, Dương Văn Minh hạ lệnh cho Nguyễn
Văn Nhung đến đào mã, móc xác lên và băm thành
nhiều khúc, làm như thế để phòng ngừa
người của Ba Cụt đến lấy xác đem
về chôn cất trong chiến khu của họ...
“Nhung đúng là
loại người thích hợp để thi hành các
loại công tác ghê tởm đó. Có người nói rằng
mỗi khi Nhung giết người, đôi mắt hắn
đỏ như máu. Có người còn nói rằng hắn
thích ăn gan nạn nhân vừa bị hắn giết
chết...” (tr. 171)
Trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng” ,
Tướng Trần Văn Đôn đã viết thêm:
“Xưa kia
Đại Úy Nhung ở trong đơn vị Commando Pháp là
đơn vị chuyên đi khủng bố giết
người. Lúc Ba Cụt, tướng Hòa Hảo Lê Quang
Vinh bị án tử hình xử chém ở Cần Thơ,
Đại Úy Nhung lấy xác Ba Cụt chặt từng khúc,
thả cùng mọi nơi để không toàn thây cho khỏi
ai tìm xác xây mộ thờ cúng. Ông Minh nói lại cho tôi biết
như vậy.” (tr. 238).
Trong cuốn hồi ký “Đôi Dòng Ghi Nhớ” ,
Đại Tá Phạm Bá Hoa có viết:
“Đại Úy
Nhung, ít ra hai lần (trước thời gian có biến
cố chính trị này) khoe với tôi rằng, mỗi
lần anh ấy giết một người thì anh khắc
lên báng súng một vạch, anh vạch khắc theo chiều
thẳng đứng ở báng súng bên trái. Căn cứ vào
lời nói và dấu tích trên báng súng của Đại Úy
Nhung, tôi cho rằng Đại Úy Nhung là một sĩ quan
đã từng giết người nếu không nói là thông
thạo thì cũng quen tay.” (tr. 141).
Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị
lật đổ, ngày 14.7.1964, Việt Nam Dân Chủ Xã
Hội Đảng đã đưa kiến nghị xin
Tướng Nguyễn Khánh hủy bỏ bán án của Ba
Cụt và phục chức cho ông. Tướng Nguyễn Khánh
đã ra lệnh cho tòa án làm việc này. Tuy nhiên, phải coi
việc hủy án và phục chức đó chỉ là một
hành vi chính trị (acte politique) chứ không phải là
một hành vi pháp lý (acte juridique). Chiếu theo các bộ hình
luật và quân luật đang có hiệu lực lúc đó, việc
kết tội Ba Cụt không có gì sai luật hay oan uổng.
Lữ
Giang
Nguồn: VietCatholic News (01.11. 2006)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire