Đồng tiền mồ hôi , nước mắt có giá trí riêng của người khổ chủ. Qua đó, chúng ta ngẫm nghĩ lại xem , tiền của cha mẹ ta nuôi ta khó khăn thế nào để chúng ta được tương lai may mắn hơn người.
Kế tiếp chuyện cuộc đời và gia tài của từng cá nhân, gia đình và sau cùng hãy bỏ chút thì giờ nghĩ đến chuyện kinh tế chính phủ đất nước ta đang sống và xa hơn nữa hệ thống tiền tài trên thế giới.
Chúng ta cũng có thể thờ ơ, cứ quên đi ta cứ hưởng những gì ta có, hưởng nhiều hơn thế, vì nhà băng nào cũng thích làm chủ nợ chứ họ không bao giờ thích khách hàng không chịu mượn nợ để chi tiêu mà cứ dành dụm.
Khi kinh tế đang cho nhiều việc làm, ai ai cũng ăn chơi thỏa thích và tha hồ mượn nợ và bất chợt một hôm ta chợt nghĩ ra tuổi già, tuổi hưu đã đến hay đến rồi mà ta mở ngăn tù nào cũng chứa giấy nợ, ít nhiều chưa thanh toán.
Việc làm của mình thì bấp bênh vì kinh tế đang xuống dốc thì hãng xưởng chỉ thích đầu tư và mướn ai cho gía rẻ nhất.
Kết quả của những năm mua hàng rẻ, mướn ngoại quốc sản xuất rẻ là đời con cháu chúng ta dần dần không còn việc, tuổi ta thì không biết hãng còn giữ ta đến hôm nào.
Thế hệ trẻ lớn lên trong xã hội khan hiếm việc, trước đây một bằng cấp kỷ sư trường giỏi, hãng nào cũng tranh nhau mướn, bây giờ thì... hỡi ơi!!!
Vì vậy , hôm nay tôi chỉ muốn mượn một bài trong Blog Đỉnh Sóng để gửi đến quý anh chị sống trong hay ngoài nước những ý thức về đồng tiền, đến tình hình kinh tế thế giới mà hướng dẫn cho con cháu mình một hướng đi chính chắn và vững vàng.
Caroline Thanh Hương
Dòng họ Rockefellers
Và âm mưu thống trị thế giới
của Do Thái
Nếu mục tiêu đó đạt được, thì ai sẽ là bên hưởng lợi nhiều nhất? Đương nhiên là những người không có tổ quốc: Do Thái. Khi những kẻ vô gia cư kêu gọi bạn đoàn kết, điều đó có nghĩa là: (1) Bạn sẽ ra đường sống chung với họ - kịch bản của những tên khùng (2) Họ sẽ vào chiếm nhà của bạn và đuổi bạn ra đường - kich bản của những nạn nhân cộng sản. Trường hợp nào thì họ cũng thắng cả. Khi người Do Thái không có quốc gia riêng theo công pháp quốc tế thì các dân tộc khác khó lòng có quốc gia riêng của họ.
Nguồn
gốc Do Thái của dòng họ Rockefellers
Theo Willie Martin, dòng họ Rockefellers thuộc
hệ Sephardic (có nghĩa là Do Thái trong tiếng Tây Ban Nha và Bồ
Đào Nha). Thông tin nầy được tìm thấy trong cuốn
"Americans of Jewish Decent" do Malcolm H. Stern, một sử gia
người Do Thái biên soạn, và chỉ ấn hành cho
người Do Thái một vài năm trước đây. Sách
nặng 10 pounds và cung ứng tiểu sử của 25
ngàn người Do Thái ở Hoa Kỳ. Điều đáng
lưu ý là chỉ có 550 ấn bản được in ra và
mỗi ấn bản được đánh số thứ
tự. Sách được trao cho những lãnh tụ Do Thái
chóp bu ở Hoa Kỳ dùng làm tài liệu tham chiếu cá nhân
khi hành xử và tiếp xúc với những người mệnh
danh là "Marranos" (tức những người Do Thái giả
vờ làm tín đồ Cơ Đốc trong cộng đồng
của họ trong khi vẫn bí mật duy trì tôn giáo và chủng
tộc Do Thái khi gặp những người Do Thái khác.)
Cũng theo tài liệu nầy, nhiều thế kỷ
trước, người Do Thái đã tràn ngập Tây Ban Nha
với số lượng lớn và nhờ cho vay nặng
lãi và ăn cắp họ đã trở thành những đại
điền chủ. Người Do Thái kiểm soát cả
Tây Ban Nha lẫn Bồ Đào Nha nhờ vào độc quyền
trên hệ thống tài chánh của hai quốc gia nầy. Vào
năm 1942, Hoàng Đế Ferdinand và Hoàng Hậu Isabella của
Tây Ban Nha đã trục xuất người Do Thái khỏi
nước và tịch thu tài sản bất chính của họ.
Chính trong thời kỳ nầy gia đình Rockefellers đã di
cư sang Đế Quốc Thổ bấy giờ đang
chào đón người Do Thái, vì tin họ là một "dân tộc
đáng thương bị ngược đãi."
Ông nội
của cựu phó tổng thống Hoa Kỳ, Nelson
Rockefeller, đã thú nhận rằng gia đình ông ta đã có
lần di cư từ Thổ Nhĩ Kỳ sang Pháp. Từ
Pháp họ di cư sang Hoa Kỳ. John D. Rockefeller, Sr. là một
người giàu có ngay cả trước khi tiếp quản
công ty Standard Oil Co., khiến gia đình họ trở
thành một trong những gia đình giàu nhất thế giới.
Chưa thấy ai giải thích tại sao gia đình nầy
tự nhiên lại giàu có như thế ngay khi từ Pháp
đến Hoa Kỳ. Không có thông tin chính thức giải
thích tại sao gia đình Rockefellers có được những
số tiền khổng lồ ở Pháp. Có thể họ
đã nhận những số tiền đó từ tập
đoàn tài chánh Do Thái Rothschilds và ngay từ buổi
đầu đã làm việc cho tập đoàn nầy bằng
cách mua đứt những cơ sở thương mại
Cơ Đốc ở Hoa Kỳ. Như thế, cho dù Rockefellers
không thực sự Do Thái đi nữa thì cũng là tay sai của
tập đoàn tài phiệt Do Thái Rothschilds. "Marranos"
là những người Do Thái giả vờ cải đạo
sang Cơ Đốc Giáo để đánh lừa các tín
đồ Cơ Đốc trong khi làm ăn nhưng vẫn
bí mật tiếp tục theo đạo Judaism trong những
buổi lễ riêng tư. Do đó, một gia đình như
Rockefellers thường là công cụ hoàn hảo cho tập
đoàn Rothschilds ở Pháp vốn từ nhiều
thế kỷ đã từng xử dụng những mật
vụ để thi hành âm mưu của họ.
"The Thunderbolt" là tờ báo đầu
tiên khiến công chúng chú ý đến nguồn gốc Do Thái
của Phó Tổng Thống Nelson Rockefeller. Cuối cùng, thông
tin giải thích tại sao ông luôn luôn có
thể chăm sóc kỹ lưỡng những quyền lợi
Do Thái như thế và tại sao khi làm Thống Đốc
New York, chính quyền của ông lại đầy người
Do Thái từ trên xuống dưới. Những chiến dịch
tranh cử của ông trong quá khứ luôn luôn
được người Do Thái điều khiển và
ông luôn luôn được hậu thuẫn của cộng
đồng Do Thái trong bất kỳ đợt tranh cử
chính trị nào của ông. Thông thường người Do
Thái không hậu thuẫn một tỉ phú Cơ Đốc
nào vào vị trí chính trị vì họ sợ sẽ không thể
điều khiển được người đó sau
khi đắc cử. Các lãnh tụ cộng đồng Do
Thái từ lâu đã biết Rockefellers là những đồng
bào Do Thái của họ và sự kiện đó chắc chắn
giải thích tại sao các cộng đồng Do Thái đã
luôn luôn hậu thuẫn những tham vọng chính trị của
Rockefellers. Bây giờ chúng ta có thể thấy tại sao
Nelson Rockefeller và David Rockefeller tiến cử Henry Kissinger,
đồng chí Do Thái của họ, vào chính quyền của
Nixon; và Kissinger ngược lại đã xử dụng chức
vụ của mình để cất nhắc đồng chủng
Rockefeller của ông ta vào hệ thống công quyền. Leonard G. Horowitz đã phơi bày một
trong những cấu kết giữa Kissinger và Rockefeller trong
một tài liệu mang tựa đề "Kissinger and
Rockefeller Connections to American Central Intelligence and the Origins of
AIDS and Ebola" ở địa chỉ:
Rockefellers và Hệ thống Bilderberg Group
Bilderberg
Group là một trong bốn nhóm
đầu nậu của hệ thống siêu quyền lực
ẩn danh thường được gọi với nhiều
tên khác nhau như Shadow Government, New World Order, Conspiracy for
World Domination
1. The Council on Foreign Relation (4500 thành viên),
2. The Trilateral Commission ( 87 Americans 337 từ
các quốc gia khác),
3. The Bilderberg Club (120-140 "khách") và
4. Nhiều cơ quan được miễn
thuế khác như The Rockefeller Foundation, trong đó những
đại biểu và quản gia then chốt cùng với những
quyền lợi của tập đoàn tiêu biểu cho
những kế hoạch trước mắt và toàn cầu;
và nghị trình được bàn thảo, cải thiện
và sau đó được thi hành bởi những đám
lưu manh chính trị nô bộc.
Trên thực tế, phần lớn những nhân
vật chủ chốt của các hệ thống nầy
đều là những chủ ngân hàng Do Thái, đứng
đầu là David Rockefeller. Nhân vật nầy vừa nắm
chức chủ tịch của tỏ chức Council on
Foreign Relation vừa nằm trong thành phần lãnh đạo
của nhóm Bilderberg Club lại vừa có một
tổ chức riêng mang tên The Rockefeller Foundation, vừa
là nhà sáng lập của Ủy Ban Trilateral Commission. Chính
Ủy Ban The Trilateral Commission và David Rockefeller, kẻ dựng
ngôi vua ở Hoa Kỳ, đã đưa một gã vô danh là
Jimmy Carter vào Tòa Bạch Ốc năm 1976.
Sự nghiệp chính trị
của nhiều người đã vươn lên như phép
lạ sau khi tham dự buổi hội nghị Bilderberg
đầu tiên của họ: Margaret Thatcher, Bill Clinton, and Tony
Blair. Obama đã bổ nhiệm 11 thành viên của Ủy Ban Trilateral
Commission (nghĩa là hơn 10%) vào những chức vụ
hàng đầu và then chốt trong chính quyền của ông trong
mười ngày đầu của nhiệm kỳ của ông.
Giữa 1945 và 1972, khoảng 45% những viên chức ngoại
giao hàng đầu phục vụ trong chính phủ Mỹ cũng
là những thành viên của Hội Đồng Tài Phiệt The
Council on Foreign Relation, khiến một trong những thành
viên hàng đầu có lúc nói rằng việc gia nhập vào Hội
Đồng chủ yếu là một "nghi thức thăng tiến"
thành một viên chức của chính sách ngoại giao...Khoảng
42% những chức vụ ngoại giao hàng đầu trong chính
quyền Truman do các thành viên của Hội Đồng Tài Phiệt
nắm giữ; con số đó là 40% trong chính quyền của
Eisenhower, 51% trong chính quyền của Kennedy, và 57% trong chính quyển
của Johnson. Hội Đồng Tài Phiệt đã và tiếp
tục có những ảnh hưởng lớn lao trong thế
giới truyền thông, nhờ đó nó có thể quảng bá
ý thức hệ của nó, thăng tiến những nghị
trình của nó, và che đậy ảnh hưởng của nó...
Cơ Quan Tình Báo Trung Ương CIA cũng không phải là kẻ
xa lạ trong hệ thống nầy, vì thường xuyên trong
những thập niên đầu khi mới hình thành, những
giám đốc của nó đều đến từ Hội
Đồng, như Allen Dulles, John A. McCone, Richard Helms, William Colby,
và George H.W. Bush." Nhóm Bilderberg Club cũng có "mời" những chức sắc vớ vẩn
trong giới hàn lâm và khoa học để làm "bình phong" che mắt,
như Fouad Ajami, Giám đốc của Middle East Studies thuộc
Đại Học John Hopkins University, và Martha Farrah, Giám
Đốc của Trung tâm Center for Cognitive Neuroscience thuộc
Đại Học University of Pennsylvania, trong khi thành phần
nồng cốt vẫn là những tay Do Thái sừng sỏ như:
- Ben Shalom Bernanke: Chủ tịch Ngân Hàng
Dự Trữ Tư Nhân Liên Bang
- James Wolfensohn: Nhà tài chánh Do Thái Quốc tế.
Chủ tịch công ty đầu tư Wolfensohn & Company
Investments. Vì là một cựu Giám Đốc Ngân Hàng Thế
Giới, tay Do Thái nầy có hơn 140 nhân viên và văn phòng ở
Luân Đôn , Tokyo và
Moscow. Wolfensohn cũng có một cổ phần
với ngân hàng Fuji Bank của Nhật và Jacob
Rothschild của Anh.
- Robert Zoellick: Chủ Tịch tổ hợp
ngân hàng US World Bank
Group, một chi nhánh ngụy trang của Quỹ
Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) do tập đoàn tài chánh
Do Thái Rothschild điều hành.
- Josef Ackermann: Chủ Tịch của Ủy
Ban Điều hành của Deutsche Bank AG
ở Thụy Sỹ. Ackermann là một đồng lõa của
tập đoàn tài chánh Do Thái Rothschild về
tội phạm tài chánh.
- Kenneth Jacobs: Phó Giám Đốc của Lazard
Bank North America. Lazard Bank, một trong những
đại bài của tập đoàn tài chánh Do Thái Rothschild,
hoạt động trong 39 thành phố khắp Bắc Mỹ,
Âu Châu, Úc, Á Châu, và Nam Mỹ.
- David Rockefeller: Chủ nhân của Chase
Manhattan Bank. Cựu Chủ Tịch của Hội
Đồng Council on Foreign Relations và là nhà sáng lập
của Ủy Ban Trilateral Commission. Cho dù không thực
sự là người Do Thái đi nữa thì Rockefeller cũng là tay sai của tập
đoàn tài chánh Do Thái Rothschild .
Rockefeller
và Cộng sản Quốc tế
Trong
tài liệu "The Rockefeller File," Gary Allen cho thấy rằng
Liên Xô đã được giữ cho tồn tại nhiều
thập niên nhờ vào những khoản tiền vay khổng
lồ lãi suất nhẹ, do những người thọ
thuế Hoa Kỳ tài trợ, và những khoản vay nầy
được thực hiện thông qua Ngân Hàng Export-Import
Bank ở New York do gia đình Rockefellers thành lập. Từ
lâu thế giới đã bị điều khiển theo một
nghị trình quốc tế nhằm tiến tới một
chính phủ thế giới với giới thượng
lưu (Do Thái) của Nga và Mỹ cùng làm việc với
nhau. Đó là lý do tại sao gia đình Rockefellers lại dính
líu với Liên Xô. Năm 1938, Trotsky nói rằng kế hoạch
New Deal báo hiệu sự cáo chung của chủ
nghĩa tư bản ở Hoa Kỳ:
"You will have a revolution, a terrible revolution. What
course it takes will depend much on what Mr. Rockefeller tells Mr. Hague to do.
Mr. Rockefeller is a symbol of the American ruling class and Mr. Hague is a
symbol of its political tools."
(Bạn sẽ thấy một cuộc cách mạng,
một cuộc cách mạng khủng khiếp. Cuộc cách mạng
đó đi về đâu thì tùy thuộc phần lớn vào
những gì Mr. Rockefeller bảo Mr. Hague phải làm. Mr. Rockefeller
là một biểu tượng của giai cấp cai trị
của Mỹ và Mr. Hague là một biểu tượng cho những
công cụ chính trị của giai cấp đó).
Gia đình Rockefellers dàn dựng tổ chức Council
of Foreign Relations của hệ thống siêu quyền lực
ẩn danh, hoạt động như một chính phủ ma
(shadow government) ở Hoa Kỳ. Hầu như mọi tay
chơi quan trọng trên chính trường và truyền thông
đều là thành viên của tổ chức đó, kể cả
Tổng Thống Obama và George Bush Jr. Chính David Rockefeller cuối cùng đã thú nhận
có một âm mưu toàn cầu nhằm "đoàn kết" thế
giới lại dưới một "chính phủ quốc tế
(World Government)."
"Some even believe we are part of a secret cabal working
against the best interests of the United States, characterizing my family and
me as internationalists and of conspiring with others around the world to
build a more integrated global political and economic structure - one world, if
you will. If that is the charge, I stand guilty, and I am proud of it." -
David Rockefeller
(Một số người tin rằng chúng tôi dự
phần vào một âm mưu bí mật chống lại những
quyền lợi tốt nhất của Hoa Kỳ, cho rằng
gia đình tôi và tôi theo chủ nghĩa quốc tế và
đang âm mưu cùng với những người khác trên thế
giới để xây dựng một cơ cấu toàn cầu
- hay một thế giới, nếu bạn muốn - về
chính trị và kinh tế liên kết hơn. Nếu đó là
lời cáo buộc thì tôi xin nhận tội, và tôi hãnh diện
về điều đó.)
Nga và Mỹ đã từng luôn luôn
cấu kết với nhau ở cấp cao, và điều nầy
đã không thay đổi với nước Nga hiện tại,
một nước Nga đang được Giáo Hội
Chính Thống Do Thái hậu thuẫn tuyệt đối, một
nước Nga trong đó một số ít tay trùm Do Thái chiếm
50% những tập đoàn cả nước. Những tên trùm Do Thái này, cùng với
những
cơ sở tài chánh và kinh tế của chúng thường được
gọi là "Big Seven": Rem Vyakhirev (Gazprom), Boris Berezovsky
(Logovaz), Vladimir Gusinsky (Most Bank), Vaghit Alekperov (Lukoil),
Alexander Smolensky (Stolichnyy Bank), Mikhail Khodorkovsky (Rosprom),
and Andrey Kazmin (Sberbank).
Mục tiêu của cái Trật Tự Thế Giới
Mới (New World Order) là phối hợp chủ nghĩa cộng
sản và chủ nghĩa tư bản thành một chính phủ
thế giới tập đoàn-cộng sản
(corporate-communist world government), thường được
gọi là "Global Governance ," "Collectivism" hay "Third Way."
Từ đó, trong đời
thực ở hai chế độ cộng sản Bắc Kinh
và Hà Nội xuất hiện những tháp ghép quái đản:
tư bản đỏ, tư sản
đỏ, kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, toàn trị độc
đảng nhưng lại có "luật pháp" và "hiến pháp" theo
lối Tây Phương, có "quốc hội" và có "bầu cử"
dù là "đảng cử dân bầu," có đối lập cuội
v.v.. Và cũng từ đó phát sinh chủ thuyết
toàn cầu hóa (Globalization),
Thuyết Duy Lợi, Thuyết Big Money, chủ nghĩa Dollarocracy,
nhập cư bất hợp pháp, lao động xuất khẩu,
buôn người xuyên biên giới, kinh doanh hôn nhân;
từ đó mới có chiêu bài "bình thường hóa quan hệ với cộng
sản". Từ đó mới có Liên Hiệp Quốc,
Asean, Liên Âu, World Bank, IMF,
WTO, APEC, TPP..., những định chế phần lớn do
bọn mủi két nắm đầu. Thuật ngữ Địa Chính Trị (Geopolitics) ngày nay có nghĩa
là nhìn đâu cũng thấy Do Thái và sờ đâu cũng chạm
phải Do Thái; và ở đâu có Do Thái ở đó có chiến tranh, mâu
thuẫn, và tranh chấp vì chiêu thuật sở trường
của Do Thái là dùng quốc gia nầy đánh đổ quốc
gia khác, dùng xung đột để xuất khẩu vũ khi,
chiến cụ và nhất là NỢ, một món quà được
làm bằng giấy lộn và không khí để tạo cảnh
phồn vinh giả tạo nơi những quốc gia "đồng
chí". Rồi ra, tất cả mọi quốc gia đều trở
thành con nợ của Do Thái, kể cả những quốc gia
giàu "tiền bỏ ống" như Trung Quốc. Khi một chính
phủ cai trị bằng tiền vay ngân hàng thì chính các chủ
ngân hàng cai trị chứ không phải chính phủ, và những
chủ ngân hàng đó đương nhiên là các tập đoàn
tài phiệt
Do Thái. Những chính trị gia hàng đầu của
thế giới đang trở thành những công sai Do Thái. Giới
lãnh đạo đầu não của
Kremlin, Trung Nam Hải, và Bắc Bộ Phủ Hà Nội, trước
hết và trên hết, dứt khoát không thoát được vòng cương tỏa của
con bạch tuộc Do Thái. Chung qui, cái mệnh danh là "phối hợp" đó chỉ là một
tên gọi khác
của thế giới đại đồng hoang tưởng
trong thuyết Mác-Lê. Nếu mục tiêu đó đạt
được, thi ai sẽ là bên hưởng lợi nhiều
nhất? Đương nhiên là những người không có tổ quốc: Do Thái. Khi những kẻ vô gia cư kêu gọi bạn
đoàn kết, điều đó có nghĩa là: (1) Bạn sẽ
ra đường sống chung với họ - kịch bản
của những tên khùng (2) Họ sẽ vào chiếm
nhà của bạn và đuổi bạn ra đường -
kich bản của những nạn nhân cộng sản. Trường
hợp nào thì họ cũng thắng cả. Khi người
Do Thái không có quốc gia riêng theo công pháp quốc tế thì các dân tộc khác
khó lòng có quốc gia riêng của họ.
(Vì
không có quốc gia riêng nên chúng ta phải biến toàn bộ
thế giới nầy thành thế giới của chúng ta, bắt
đầu với những quốc gia chứa chấp chúng
ta và chấm dứt với Trật Tự Thế Giới Mới,
một tên gọi khác của Thế Giới Đại
Đồng Mác-Lê - nghĩa là một chế
độ cộng sản toàn cầu Do Thái trị, một loại
trật tự do bọn vô gia cư làm chủ, trong đó, cũng
giống như Do Thái, mọi dân tộc khác sẽ không có biên
giới quốc gia: ARMAGEDDON - TẬN THẾ).
** [Cộng đồng Người Việt
tị nạn ở Mỹ chống cộng thì cứ chống,
nhưng xin đừng quên rằng cộng sản đang ở
chung quanh bạn; và chúng được Mossad và CIA bảo
vệ đấy (Sorry, just kidding)].
Vài nhận định:
- Tzipora Menache, Israeli spokeswoman: "Quý vị biết rất rõ, và những
người Mỹ ngu xuẩn cũng biết rất rõ,
rằng chúng ta kiểm soát chính phủ của chúng, bất
luận ai ngồi trong Tòa Bạch Ốc. Như quý vị thấy,
tôi biết và quý vị biết rằng
không một tổng thống Mỹ nào có thể đủ
tư cách thách thức chúng ta cho dù chúng ta có làm chuyện khó
tin. Chúng nó - bọn Mỹ - có thể làm gì được
chúng ta? Chúng ta kiểm soát quốc hội, chúng ta kiểm
soát truyền thông, chúng ta kiểm soát kỹ nghệ
giải trí, và chúng ta kiểm soát mọi thứ ở
Mỹ. Ở Mỹ, bạn có thể chỉ trích Thượng
Đế, nhưng bạn không thể chỉ trích Israel..."
- Thomas Jefferson: "Mặc dù sống rải rác, người Do Thái vẫn tạo
thành một quốc gia như những người ngoại
quốc trên vùng đất họ đang sống."
- Napoleon Bonaparte: "Những ác quỷ Do Thái không phát xuất
từ những cá nhân, mà từ bản chất nền tảng
của giống dân đó."
- George Washington: "Người Do Thái chống lại chúng ta hữu hiệu hơn quân thù. Họ nguy hiểm gấp trăm lần cho tự do và lý tưởng mà chúng theo đuổi...."
- Benjamin Franklin: "Mối đe dọa là Do Thái.... Trong bất kỳ quốc gia
nào mà họ định cư với số nhiều, họ
đều hạ thấp đạo đức, xem thường
chính trực thương mại, tự tách rời và không chịu
đồng hóa.... Nếu không loại họ ra khỏi Hoa Kỳ
nầy, trong Hiến Pháp, thì không đến 200 năm nữa
họ sẽ sinh sôi nẩy nở ở đây đông đảo
đến độ họ sẽ đô hộ và nuốt hết
cả nước và thay đổi hình thức chính phủ
của chúng ta, và triệt hạ tự do của chúng ta."
(Còn tiếp)
References:
Xin cám ơn Thanh Hương về đề tài
RépondreSupprimerLàm thế nào bảo đảm tương lai kinh tế gia đình/ Âm mưu thống trị thế giới của Do Thái
Và xin chuyển tiếp để chia xẻ với mọi người.
ĐS