Rồi, một ngày nào đó…
Tao
sẽ trở về tìm lại con phố cũ có quán cà phê ở một ngã ba, ngã tư mà
những cái cột đèn chẳng thể thiếu vắng của bất cứ ai trong mảnh đời luân
lạc, với Sài Gòn hòai niệm, Sài Gòn dĩ vãng, Sài Gòn ký ức đâu đây.
***
Rồi, sẽ có một ngày…
Ngày
trời tháng Bụt, ngay lúc này đây tao đang có mặt gần phố Cầu Gỗ, tự nhủ
thầm mắc mớ gì lần mò đến những quán cà phê của Hà Nội trước 54 như
quán ông Nhân, ông Giảng, dường như nay cả hai đã có mặt trên chuyến tầu
miên viễn. Bỗng thèm một ly cà phê đá đậm đặc, thêm một ngày mưa bụi
bay bay, đan vào nhau như màng nhện, mặt đường ướt và trơn, để đẩy đưa
tao có ý đồ đi lùng cà phê…xe, cà phê gánh. Và đây mới là chuyện tao
muốn kể lể: Nghe nói ở phố Lò Sũ có những mục cà phê nhất cổ nhì…quái
ấy. Thế nhưng đến nơi tao đụng nỗi buồn chạm mặt với phố Lò Sũ là tên
mới của phố…Hàng Hòm thập niên 20. Mà sũ tiếng Nôm là quan tài, là áo
quan, nghe mất vui, mất sướng. Lại lóang thóang nghe ở một con ngõ nhỏ
có tới cả chục quán cà phê vỉa hè, thế là tao vác xác tới và ớ ra vì ấy
là ngõ…Hàng Hành. Quái quỷ gì đâu chẳng biết nữa, hết cổ mộ tha ma nay
đến hành với tỏi. Thế nhưng Hà Nội phố, ngựa xe tấp nập buổi tan tầm và
một buổi sáng ướt lướt thướt trong mưa lâm râm lạnh và tao đã lừng lững
có mặt. Nghe hãi không mày.
Sáng
tinh mơ ngày đầu tiên có mặt ở Hà Nội, dậy thật sớm, tao lò dò mò xuống
thăm phố phường, tao không bắt gặp cà phê xe mà nhè…phở xe cạnh khách
sạn. Trên bàn đã an vị sẵn một bát mình chính, điã dầu cháo quẩy, một
đĩa quất rất “mô típ”. Chưa kịp gọi thì người phục vụ viên đã mang ra
bát phở to bằng mắt muỗi, tao bèn ú ớ thì ngườiI nhấm nhẳng nơi chốn
này, độc nhất vô nhị chỉ có một món phở chín của cụ…Nguyễn Tuân. Quất
xong bát phở, tao đụng đậy hai con mắt theo đàn gà con đang chíp chíp mổ
mấy cọng rau thừa rơi vương vãi dưới gầm bàn. Chúng nhở nhơ thả rong
qua cái quán rất bụi, rất thiên hạ phong trần ngay đấy….
Ngay
dẫy tường dài, người ta chăng tấm vải bạt, bầy ba cái bàn dăm cái ghế
thấp, mà bàn đây là mấy cái thùng gỗ và gọi ấy là quán cà phê. Tao phởn
phơ bước qua, bụng bảo dạ sẽ kêu một “cái nồi ngồi trên cái cốc ” cho nó hách. Tao chắc mẩm sẽ bắt được một tách cà phê qua điệu nhạc tao đã từng nghe rách tai: “Bóng tối đen như cà phê…Bóng tối đắng như cà phê” thì
được gã chủ quán lò dò đến hỏi cộc lốc: “Uống gì”. Chưa kịp há mồm thưa
gửi cho ra dáng người Hà Nội thanh lịch, gã đã quay đi, lững thững mở
cái “fri-di-đe chạy đầy đường ”. Lấy ra một cái lọ đen xì như thuốc bắc. Rót tồ tồ vào cái cốc vàng khè. Bỏ vào cái “máy hấp”, máy chạy nghe kêu…u u nhức nhối. Và đúng ba mươi giây sau, tao có một cốc…cà phê truyền thống. Sau khi bị bắt cóc bỏ đĩa “Ly cà phê đen…đen như bóng tối” xong,
nhâm nhi cốc cà phê…mầu nâu đất, nhạt như nước ốc ao bèo, lúc ấy tao
mới ngộ ra một điều: Năm 54, các ông bác, ông chú mình gồng gánh cà phê
phin theo tầu há mồm vào Nam, bây giờ mấy ông dép râu nón tai bèo với xe
đạp đèo cà phê “bí tất” ra Thăng Long nghìn năm văn vật cho nhân sĩ Bắc
Hà. Thêm một nghịch lý nữa là dân Sài Gòn lơ đãng nhìn ra đường…nhìn
đời bằng nửa con mắt thì người Hà Nội…”trăn trở“ quay mặt vào tường loang lổ để đăm đăm nhòm cái dòng sinh mệnh nổi trôi.
Cùng Thăng Long hoài cổ, thêm một mảng văn chương chữ nghĩa với “một không gian văn hóa dân dã vô cùng thú vị ” của “văn hóa quán cóc”…Và sĩ phu Bắc Hà gọi là quán…“liêu xiêu”. Hai chữ này “đắt” không mày. Trở lại với cái “quán không nhà ”
bên đường, rằng cứ ngồi chồm hổm như cậu ông trời nên được gọi là quán
“cóc” chăng? Nhưng ấy là chuyện sau với cà phê Năm Dưỡng, thưa mày!
Bỏ
cà phê…đen như mõm chó ở cái quám liêu xiêu ấy, vào Sài Gòn và bây giờ
tao đang ngồi đây, xưa kia một thời mang cái tên là hồ Con Rùa, nằm
chình ình trên con đường Duy Tân cây dài bóng mát và ở đấy nay có quán
cà phê 47. Quán nằm trong con hẻm rộng có căn nhà của người Trịnh Công
Sơn, thế nên người Hà Nội thấy sang bắt quàng làm họ và gọi là: hẻm
Trịnh. Khách vãng lai không ngòai nhà văn Nguyễn Đạt, họa sĩ Trịnh Cung,
gần đây có thêm Đỗ Hòang Diệu với Bóng Đè. Chưa hết, sau cái ngày một
vũng tang thương nước lộn trời với một cái chấm hết, gần Bến Tắm Ngựa,
Tân Định có quán Hoa Vàng của Phạm Thiên Thư. Ông vứt bỏ áo nâu sòng,
với điếu thuốc dang dở cháy đỏ giữa hai ngón tay, như chưa tàn cuộc phù
vân, ông ngồi lặng lẽ ngắm những viên đá đang tan chẩy trong ly cà phê.
Mỗi giọt nước đọng vẽ vời những ẩn mật vô ngôn, đá trầm mặc từ từ tan
lõang để tìm về bản thể long lanh của minh, chẳng biết đá tồn tại không
tồn tại. Chỉ còn lại một làn hơi bảng lảng giữa quá khứ và hiện tại.
Nhưng nói thẳng mực tầu đau lòng gỗ thì chạy trời không khỏi nắng: Ấy
lại là quán cà phê…bí tất, thưa mày.
Như
bị bóng đè, tao thả hồn về Sài Gòn 54 ri cư và lớn lên với những con
ngõ xôn xao, nằm trong thành phố lớn cùng vài quán cà phê đầu đời…Nhà
tao ở ngay đường Nguyễn Tri Phương, để chẳng bao giờ quên thằng “Băc kỳ
ăn cá rô cây…” có tâm hồn ăn uống: Ăn thì tao xớ rớ ba thứ tầm ruộc,
xòai tượng. Uống thì chộn rộn mút cục đá nhận bạc hà, đến trơ cái lạnh,
nhạt trên đầu lưỡi. Vậy mà lớ ngớ đi vớt nòng nọc ở cái rãnh thóat nước
trước cư xá sinh viên Minh Mạng. Tao thấy tại cái quán chệt xập sệ cuả
một lão Tầu già, lão cầm cái vợt, giống như miếng vải buộc vào đầu đũa
để bắt lăng quăng của tụi tao. Nhưng dòm giống “cái vó” đánh dậm, vớt
tôm bắt ốc của người Bắc mình. Thế rồi lão đổ nước sôi vào, nước chẩy
tong tong thấy sướng con mắt, những giọt nước mầu đen bốc khói thơm
lừng. Và tao ngớ ra chẳng hiểu là cái chết tiệt gì. Khỉ thế đấy.
Mãi
cho đến năm trung học, mầy mò ra cái quán Năm Dưỡng khu Bàn Cờ, lúc ấy
tao mới chứng ngộ ra “cái vó” được gọi với cái tên rất Tây là “cà phê bí
tất”, điã cà phê đen nông tè gọi là “xây chừng”, thêm tí sữa kêu là
“pạc xẩy”. Thế đó. Thế nhưng chẳng có hơi hướng cà phê quái gì. Đúng ra
lão bỏ trái điệp rang hay gạo bắp vào cái túi vải dài giống như chiếc
vớ, chế nước sôi vào cho ngấm, gạn lọc đổ vào chai la-de trái dứa xanh
lè (y trang như người Hà Nôi ở khúc trên). Nốc vào tao còn nhớ
mãi cái mùi ngai ngái như mùi bọ xít, hăng hăng khét đằng. Vừa uống vừa
lấy cái của nợ…mà Nam kêu là muỗng, Bắc gọi là cái cù dìa, để vớt những
cặn bã đen như vỏ cây bị đốt, nên chả thống khóai gì sất cả.
Nhân
chuyện thổ âm với thổ ngơi, người Bắc với người Nam, hoài cố nhân qua
cà phê thì tao trộm nghĩ rằng chẳng thể vắng bóng người Bình Nguyên Lộc.
Trong “Hồn Ma Cũ”, chẳng mầu mè ba lá hẹ gì sất cả, ông
kêu đại cái giống này là cà phê…“cắc chú” thế mới cha đời, chữ nghĩa
miệt vườn như vậy là…nhứt. Và mày hãy ngồi đồng để ông kể chuyện uống cà
phê “cắc chú” bên lề đường cho mà nghe, cho đã: “Hai
chân len lén rút ra khỏi đôi dép da, đạp lên cái ghế con bỏ trống bên
cạnh, hay gác lên bờ tường thấp. Ngả người trên lưng ghế, ngước nhìn lên
trời. Bầu trời vắng vẻ cao vời vợi, chuyện cũ dâng lên trong ký ức, lan
man…Cà phê tất nhiên chỉ là cái cớ. Không có cà phê ta vẫn có thể…len
lén tự rút mình ra khỏi cuộc sống, ra khỏi đôi đép…Ngày nào cũng thế,
khách ngồi đó như…vị tiên bất tử. Khách hết lớp này lớp kia ra vào, y
như các thế hệ nối tiếp nhau mọc trên dương thế, ngồi ngoài càn khôn mà
nhìn vào kiếp sống phù du này.”
Nghe
“phê” không mày…Ấy đấy, dạo đó tao như “khách” uống cà phê của Bình
Nguyên Lộc, ngồi chơ vơ giữa phố thị, giữa trời đất mang mang ai người
tri kỷ. Và chỉ khác một điều là, còn bé tí, vậy mà những điếu thuốc đầu
đời được đốt lên, thông cảm đi, tập làm người lớn mà mày…
Ít
lâu sau như dế mèn phiêu lưu ký, với cái xe đạp Sterling khuân từ Hà
Nội nghìn năm mây bay vào, tao thả dọc theo đường Nguyễn Thiện Thuật và
táp vào một con ngõ nhỏ với quán cà phê Phong của một cụ phán Bắc kỳ ri
cư về hưu. Đúng ra là tên Foóng, là kỳ nhân dị tướng, thế nên cụ cũng
khác người, khách tới nhằm lúc cụ đang bình cờ, gài thế thì khách mặc
khách, cụ cứ nhàn nhã tiến quân xe, lùi quân pháo cho đến lúc tàn cuộc
binh đao, cụ mới thủng thẳng làm cho một tách. Gặp lúc cờ đang dở cuộc
không còn nước, cứ ngồi đó mà nhỏng tai nghe cái máy phát thanh gỗ hiệu
Phillips qua giọng hát của Ngọc Cẩm, Nguyễn Hữu Thiết lê thê…với Đêm Tàn
Bến Ngự. Như trên tao đã vung vãi, âm thanh là một phần của một quãng
đời, bám cứng không rời, để thành hòai niệm, rồi từ cái quán trong ngõ
hẹp này về sau, những cái tên của bản nhạc như đánh dấu cái mốc của thời
gian với Chuyến Đò Vĩ Tuyến của Lam Phương “Đêm nay trăng sáng quá anh ơi, sao ta lìa cách bởi dòng sông bạc hai mầu.. “. Hướng về Hà Nội của Hòang Dương “Hà Nội ơi, dáng huyền tha thướt đê mê. Tóc thề thả gió lê thê. Biết đâu ngày áy anh về…”. Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội, thơ Hòang Anh Tuấn, Phạm Đình chương phổ nhạc “Mưa hòang hôn trên thành phố heo may vào hồn…”. Nhạc
vàng, nhạc xanh như lá đổ muông chiều, cứ ối ra cả đấy trong quán cà
phê của Sài gòn đầu đường cuối ngõ. Tao sẽ hầu chuyện mày ở khúc sau.
Vì vậy có thể nói quán đầu tiền trong ngõ của Sai Gòn là quán Phong. Để
rồi Sài Gòn ngày ấy là vùng đất mới đang cần phải khai phá, thế là vẫn
với con ngựa sắt tao buồn tình ghé Phan Đình Phùng, tao…tìm ra quán Gíó
Bắc. Mãi gần đây, ghe ông cậu vợ kể chuyện một thuở hòang kim Sài Gòn 54
với quán này có cái máy đĩa lên dây thiều quay tay hiệu Béka từ năm
1938 với cái kim nhọn hoắt, biểu tượng là con chó Fox nhỏ, tai to ngồi
bên cái loa, cái đĩa 45 tua với bản J’ai deux la mours. Riêng ông chủ
ngòai có bộ râu con kiến như Clark Gable, ông còn có cô con gái rượu
và…hai cây si trồng trong chậu ngay trước quán. Và cái hình tượng nhẩy
nhót trong đầu tao chẳng phải là quán Gió Bắc, Gió Nam mà là chiếc xe
Renault con cóc hai mầu xanh vàng của miền Nam mưa gió hai mùa.
Ông
cậu vợ “nhắc nhớ” đến phở Tầu Bay, rằng sáng sáng ông tạt vào làm một
bát tái trần nước béo và ngó qua cũng một con ngõ nhỏ sâu thẳm, bên cạnh
có một hàng bánh cuốn, trên bàn bầy mấy đĩa bán rán như…đợi ruồi. Và có
một hàng cà phê. Sau này qua điển tích, điển cố, tao mới hay là quán cà
phê Lão Tử. Quán có cái tên này vì người chủ quán nhân hậu, chẳng bao
giờ nhắc khách những nợ nần tơ vương. Khách bẽn lèn đến, ông không nói
một tiếng, vẫn thong dong bình thản mang cái phin ra đặt trước mặt. Và
khách đứng lên, có thiếu một phùa chăng nữa,
ông cũng lặng lờ như gió thổi mây bay. Người chủ quán như thế, chẳng là
Lão Tử thì còn là ai và khách đây cũng không ngòai Thế Uyên, Lê
Quỳnh...Từ quán ngó qua bên kia đường Lý Thái Tổ là một cái nhà hòm với
những chiếc quan tài bé con con trước cửa bệnh viện Nhi Đông. Lại không
thể không nhắc đến nhà hòm Tobia với quán cà phê Thu Hương sau này, thưa
mày.
Từ
phở Tầu Bay hướng về khu trường đua Phú Thọ trước kia với 10 ngàn cái
lều ri cư. Bắt gặp con lộ nhỏ Đào Duy Từ ở sân vận động Cộng Hoà có quán
Đa La. Quán của chị em cô sinh viên Chính Trị Kinh Doanh mang cái hơi
hướng của núi rừng Đà Lạt với giò lan, giỏ gùi sơn nữ, tạo cho quán một
dáng hoang dã với mây ngàn, cùng những thớt bàn được cưa từ những cây cổ
thụ u nần, mang vẻ rừng núi cổ sơ đầy lạnh lẽo. Được mấy mùa trăng lá
rừng cũng rơi rụng là có quán khác, quán này căng cái bạt nhà binh màu
cứt ngựa, mặt vải vẽ sơn trăng tên Lam rất ư thư pháp của anh chị em
Quốc Gia Hành Chánh. Rầm rộ khai trương âm thầm đóng cửa, của người phúc
ta, một nhóm Luật, Vạn Hạnh, Kiến Trúc chở củi về rừng dàn máy Akai của
quán Lam. Cũng cưa sẻ mấy thân cây làm bàn ghế dựng nên quán Thằng Bờm ở
ngã ba Đề Thám với Phạm Ngũ Lão. Bên kia khung trời với dăm cây số
đường chim bay là quán Văn, nơi nhóm họa sĩ trẻ thường hay tụ họp cùng
Khánh Ly đi chân đất hát nhạc họ Trịnh trên nền Khám Lớn cũ, bên này
quán Thằng Bờm cũng sập sình với ngâm sĩ Thanh Hùng của ban Tao Đàn và
cặp Lê Uyên Phương từ Đà Lạt về.
Qua
bài viết có cái tựa dề: “Quán Lão Tử: Một Thời”, người viết Nguyễn Đạt
muốn nhắc lại một quãng thời gian của khu lều học sinh ri cư Phú Thọ.
Tiếp nối cùng Nguyễn Tiến Lập,
Lưu Trọng Đạt, Nguyễn Nam Lộc, Hà Thời Triển…và ai nữa đã săn tay dựng
lên quán như quán Lam, Thằng Bờm, Hầm Gió, Thượng Uyển…một thời của đám
học trò di cư vào Nam nằm vào cái tuổi 11, 12. Ấy là chưa tính sổ giữa
hai thập niên 60 và 70, Sài Gòn có nhiều quán cà phê mới, quán nào cũng
chọn một cái tên qua những bản nhạc thời thượng như Hạ Trắng, Hương Xưa,
Hoài Cảm…
Ấy
đấy, Sài Gòn nhiễu nhương với thế sự thăng trầm quân mặc vấn thì nếu
như mấy tiệm thịt cho trân ngay gần chùa, nhà thờ…Mấy quán cà phê cũng
bương trải với lịch sử là cuộc tái diễn không ngừng, không gần tiệm phở
thì cũng ngang ngang với nhà hòm, giống như phố Hàng Hòm với tao nhân
mặc khách khăn đầu rìu, quần sắn móng lợn. Nếu Hà Nội bây giờ có những
quám cà phê cho những người yêu nhau trời hôm tối rồi thì Sài Gòn thưở
ấy, nếu lấy con đường Lê Văn Duyệt làm làn ranh, bên này là những quán
cà phê cho những cụ Bắc kỳ ri cư “Ai ra bến nước trông về Bắc – Chỉ thấy mây trôi chẳng thấy làng”. Và bên kia là những quán cho những người trẻ tuổi đang vật vã với “Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ - Chí lớn chưa về bàn tay không”. Nhưng ấy là chuyện hậu sự, thưa mày.
Vì
rằng mày cũng đã ứ hơi vời cà phê “hàm thụ” Sài Gòn. Mà nói dại chứ,
nếu mày có rối rắm với cố hương nan khứ hậu nan quy, mày hãy leo lên cái
xe Goebel máy đuôi cá nổ bành bạch như xích lô máy của tao để tìm về
một góc Sài Gòn của những ngày tháng cũ. Ừ thì hãy bắt đầu cuộc hành
hương từ trường Chu Văn An mới, dọc theo đường Minh Mạng là gặp Ngã Sáu
Chợ Lớn với bến xe đò lục tỉnh, gần khu này còn có hãng Mic, Basto, hãng
La-de BGE. Dọc Phan Thanh Giản qua bệnh viện Bình Dân, chợ Vườn Chuối,
mày sẽ chẳng tìm lại được mấy cái Vespas phình bụng. Cái
Mobylette vàng ì ạch như ông công chức già. Cái Velo Solex với cái bầu
to đùng ở phía trước. Ngay cả những chiến Honda Dame, Lambretta, Suzuky
M15 này kia. Hết rồi, tất cả đã chìm trong quá vãng cùng một thời đã
qua. Tất cả chỉ còn là những cái tên, như những vang vọng như tiếng rao
hàng rong của một Hà Nội 36 phố phường. Thế nhưng ai chả có quá khứ còm
cõi, dù rằng chỉ có một lần phất phơ trong đời. Tao triết lý củ khoai
như vậy đấy, nghe được không mày.
Tới
chợ Chí Hòa, cùng những hình tượng trên, con đường nhân gian với nước
chẩy qua cầu này cũng chẳng còn những chuyến xe thổ mộ cùng con ngựa già
lóc cóc về ngã tư Bẩy Hiền, tất cả đã thuộc về năm tháng cùng một thời
vắng bóng. Mày hỏi đường gì ấy hả…Ấy là khúc Trương Minh Giảng qua nhà
thờ Ba Chuông, bên phải là mấy hàng chả thịt nướng khói bay nghi ngút
thơm lừng, bên kia đường là hai, ba cái xe thịt chó treo lơ lửng mấy cái
đùi trắng hếu như ếch lột. Rõ ra một ngày, lạc lối chân ai, tao lạc vào
quán cà phê Thăng Long lúc nào cũng chẳng biết nữa và chỉ nhớ mài mại
là quán thấp hơn mặt đường, phải bước xuống mấy bực thềm, trước có một
dàn hoa giấy, quán có “dàn” phin cà phê bằng đồng chứ không phải bằng
nhôm như mấy quán khác vậy thôi. Sau quơ cào trong báo bổ tao mới hay
quán có từ ngòai Bắc, theo chân vợ chồng của một ông bà di cư tên Cẩn
dọn vào. Vì vậy nhạc trong quán thường là nhạc tiền chiến như Dư Âm, Nỗi
Niềm Người Đi, Buồn Tàn Thu và khách quen của quán là nhà văn Nguyễn
Đình Tòan, Mai Thảo, Duyên Anh.
Lại
bát phố thêm một phùa nữa, từ Phan Thanh Giản rẽ phải, rải rác đâu đây
một sạp báo, quầy bán thuốc lá lẻ, quầy bán vé sổ số. Tất cả đều rời rạc
nhưng gắn bó trong tâm tư của những người đi xa, nếu có dịp hồi tưởng
lại trong một thành phố lạ và những đường Sài Gòn xô bồ, xẻ ngang chém
dọc và quan hòai là vậy đấy mày. Rồi mày sẽ suôi theo dòng đời ngược
suôi với phố Lê Lợi rộng thênh thang. Thóang qua Thanh Bạch ngập ngùi
với mùi bò kho, rau húng chấm muối tiêu chanh. Để rồi thương hòai nghìn
năm xe mía Viễn Đông. Thôi thì của khôn người khó, mày và tao hãy ngụp
lặn với khô bò gan vàng cháy, nằm gọn lỏn trong cái xe thùng mặt kính,
đầy ắp những đu đủ xanh bào mỏng, chai dấm trắng, nước tương đỏ. Nếu mày
sầu qua ngọn cỏ cùng cái chậu lõng bõng nước, cái khăn vàng ố thì bắt
cái bò bía hay chuỗi phá lấu thơm phức và gan ruột phổi phèo xiên qua
cây tăm tre quẹt tương đen cùng một chút hương xưa.
Mày
như Từ Thức về trần, thôi thì mày và tao hãy lách vào hẻm Casino Sài
Gòn, ngõ ngách Passage Eden, quán Bà Ba Bủng vớt một bát bún ốc. Cố nhân
hòai cố quận, cố tìm lại hình bóng con ốc nhồi xa xưa, ở một vùng quê
đất Bắc xa lắc xa lơ. Vẫn chỉ là con ốc nhồi ẩn náu dưới mớ ao bèo trên
mặt ao đầy váng vậy mà ngon đáo để. Hay một tô bún riêu, một tô bún chả
thơm nồng, vẫn còn một chút dư vị chợ Đồng Xuân. Hoặc giả như bát miến
gà, bát bún thang, khi đã no nê, vẫn còn hơi hưóng chút thơm tho đôi ba
gịt cà cuống dắt trong kẽ răng, ba bốn ngày sau vẫn còn nồng cay. Hay
hòai cố hương là quán cơm Bà Cả Đọi mà tao nghe hơi nồi chõ là do Nguyển
Thụy Long thấy mặt đặt tên đó mày. Quán nằm trong một cái hẻm sâu hun
hút, mâm cơm dọn trên “đi-văng” gỗ bóng mầu thời gian cũng chiếu hoa một
cõi. Cùng những món rất Bắc Kỳ rau muống như thịt đông dưa chua, canh
cua rau đay mồng tơi, cà pháo chấm với mắm tôm.
Chẳng
dấu gì mày, tao đang mặn mà với những cái tên của qúa khứ cùng lá vàng
rơi trên giấy, ngòai trời mưa bụi bay…Với chỉ một con đường Catina không
thôi cùng những cái tên như Continental, Caravelle, Majestic, Broda, La
Pagode, Givral, dẫu rằng chỉ là những cái tên. Để rồi một ngày nào đó,
theo tuổi tác của những người viễn xứ, giấy đỏ buồn không thắm, mực đọng
trong nghiên sầu và tàn lụi vào dĩ vãng. Nếu có thể được, cùng bên bờ
đôi ngả, mày cho tao một chút vấn vương không tưởng, như lối xe ngựa hồn
thu thảo, ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương cùng những…hòai vọng. Mày vén
môi: “Vậy ư “. Vậy thì mày cứ tà tà húyt gió như người Sài Gòn năm xưa
qua tiếng hát Sylvie Vartan với: ”J’attendais que ma vie recommence..” là sắp tới đường Tư Do với mini jupe, montagut để tìm kiếm cô Bắc kỳ nho nhỏ…em có nhìn anh giữa đám dông, trong đám đông.
Nếu
mỗi hẻm nhỏ, mỗi góc phố, mỗi hàng cây, đều thấp thoáng bóng hình của
bạn xưa trường cũ…Hãy khoan đã, mày muốn là thổ công Sài Gòn hay lõi đời
với ba chữ dấm dớ ở nhà Tây, lấy vợ Nhật, ăn cơm Tầu. Mày muốn chấm
bánh croissant vào cái tách cà phê sữa to bằng cái bát ăn cơm. Hoặc giả
như như ngày này năm ấy, muốn gặp Sartre, Camus da vàng mũi tẹt đeo kính
cận vuông đồi mồi to tổ bố, ngậm ống vố dài ngoằng và luận về thuyết
hiện sinh hay dấn thân cùng thân phận bèo bọt thì cứ táp vào quán Chùa.
Mày sè được ngồi trong cái ghế da to đùng, ôm cái bàn nặng chình chịch,
được nghe kể chuyện tán đào, rầu rĩ ôm gối thất tình hay châu đầu vào
nhau tính chuyện lấp bể dời sông, hay sì sầm bàn tính đường trốn lính.
Và mày sẽ được hút thuốc lá có mùi nhang thả dàn, cuối chầu là quên bẵng
chuyện ai là đầu tầu…trả tiền cà phê! Thế nên thổ địa mới được gọi là
quán…chùa chăng? Thôi thì mày cứ hòai cố nhân về những thằng áo liền
quần với cái kính ray-ban, thằng thì mầu áo hoa rừng đeo khăn quàng cổ,
dẫu gì tao cũng muốn thả rong về một thời chinh chiến cùng cái poncho
mầu cứt ngựa mà mày. Thôi…”zu-lu”.
Mày
ớ ra với “zu lu”…thì cũng “dzọt” cho phải phép đấy thôi. À mày hỏi tao
đi đâu hả, thì quay về vùng đất địa linh nhân kiệt của Sài Gòn đấy mà,
nhân tài và quán “cà phê” thời nào cũng có, đông như tổ đỉa. Vậy thì hãy
ghé quán cà phê Thu Hương, thảnh thơi bước vào một sân gạch rộng, từ
trong có thể nhìn ra đường qua những song sắt nhỏ sơn xanh, cũng với một
dàn hoa giấy phủ rợp. Mày hãy mộng dưới hoa về một ông chủ quán khó
chịu một cách…dễ thươg. Hình như với ông, bán cà phê như một nghệ thuật
kỳ thú với nghệ thuật vị nhân sinh. Mày muốn làm một cái phin chăng? Xin
cứ ngồi yên đó, việc của mày là đợi, đừng táy máy đụng vào làm hư ”tác
phẩm” của ông ấy. Cà phê bưng tới, ông ngồi đâu đó như rình thời gian
và…rình mày. Ông rình mày như mèo rình chuột. Trong lúc ông nhìn trời,
cà phê trong “nồi” lặng lẽ, từng giọt, từng giọt âm thầm theo nhau rụng
xuống đáy...trầm luân. Như tao đã giải lý, cà phê rụng xuống không hấp
tấp. Một giọt cà phê tự hư vô không bào giờ vội vã. Giữa khung cảnh của
cái thời yêu cuồng sống vội ấy. Giọt cà phê chân chính không bao giờ
biết nói dối. Vẫn bình tĩnh, thong thả, đủng đỉnh lắc lư, chán chê rồi
bấy giờ mới buông mình xuống đáy tách.
Đừng
nôn nóng gì cả, mày sẽ có tách cà phê để đời. Ông sẽ xuất hiện đúng lúc
cạn phin, sẽ bỏ đường và khuấy đều cho mày và sẽ lịch sự…“Xin mời” khi
mọi việc đã mồ yên mả đẹp. Mày táy máy mở cái nắp phin ư, nước chảy ào
ào để lỏng le còn gì là Thu Hương nữa! Mày bỏ đường ngọt như ăn chè Hiển
Khánh và còn khuấy thìa cốp cốp kiểu đó cà phê sẽ chua lét là mày giết
ông ấy rồi! Khách đến với Thu Hương là ai? Nhiều lắm, có thể họ từ bên
trường Luật qua, từ dưới Văn Khoa, Dược, Nông Lâm Súc xuống. Họ đều có
điểm giống nhau là tất cả đều tha tập cours quằn tay. Nào là “Nói Với
Tuổi 20” của Nhất Hạnh hay “Hố Thẳm Tư Tưởng” của Phạm Công Thiện với
mặt trăng hiếp dâm mặt trời. Hoặc giả như một thời buồn nôn phi lý hay
buồn ơi chào mi qua Jean Paul Satre, Abert Camus, Francoise Sagan. Ấy là
Sài Gòn một thời bút nghiên đèn sách đấy mày, họ kéo nhau ngồi đấy, bập
môi kéo thuốc nhả khói như điếu cầy, không phải Mélia vàng hay Basto đỏ
mà phải Basto xanh giống thuốc lá Gaulois cho ra dáng Tây, cho có vẻ
phong trần cát bụi. Cứ như thế mà trầm ngâm suy tư, rì rào tâm sự
và…thiêu đốt cuộc đời, đốt cháy thời gian. Nể không mày.
Vừa
ra khỏi quán Thu Hương, miệng mày mấp máy ra cái điều làm một quả…quẹo
trái đi? Ấy không được đâu, lạng quạng mày dám ngược dòng lịch sử để trở
về thời hông hoang, như ngày nào mày lại viễn mơ về những cuộc hành
trình dọc theo con đường của hai Bà, Cầu Kiệu, Võ Di Nguy, Chi Lăng là
gặp lại một thoáng hương xưa với “một tiếng kêu cha” ở bệnh viện Cộng Hòa và xa hơn một chút nữa với “hai tiếng kêu chú”
ở Ngã Ba Chú Ía. Đừng dại mày, đừng bao giờ trở về tắm lại hai lần cùng
một dòng sông để thăm…. chốn cũ người xưa. Người kỳ nữ đâu không thấy,
ngoảnh lại chỉ thấy đất xưa rày đã lên đồng, chỗ dựng nhà cửa chỗ trồng
ngô khoai. Chuyện vật đổi sao rời là vậy đấy, thưa mày.
Với
Sài Gòn không nắng thì mưa, hay tháng sáu trời mưa, trời mưa không dứt.
Hoặc giả như gọi nắng cho cơn mê chiều nhiều hoa trắng bay… Với đình
thụ bất tri nhân tận khứ, xuân lai hòan phát cựu thời hoa, để nay tao
thấy khúc phố nào cũng có dăm nhà ẩn mình sau giàn bông giây hồng tươi
mầu xác pháo hay dây thủy tiên chói đỏ... Có một điều lạ, đất khách quê
người, lóang một cái như một giấc mơ hoang, tao quên bẵng đi những bụi
hoa lạc loài ấy, mà chỉ miên man đến hoa phượng, hoa điệp như con cuốc
gọi hồn. Những con đường Sài Gòn qua ký ức của tao là vậy. Từ đầu thập
niên 60 cùng cái “sây chừng” với 1 đồng 3 điếu Ruby, để bắt đầu lớn lên
cùng tách cà phê đắng chát…sau đó phun khói mịt mù. À mày hỏi tao lầu
bầu gì ấy hả…Ừ thì tạo hóa gây chi cuộc hí trường, đến nay thấm thoắt
mấy tinh sương, rằng đường mưa ướt đất để đi xuống một chút nữa, gặp một
khúc phố…Ấy là tao muốn mày ghé quán Văn Hoa.
Quán
có món…cà phê đá, chẳng phải là đá bào, đá cục. Mỗi viên đá chỉ to bằng
đầu đũa đè lên nhau đầy ứ như bị ẩn ức. những viên đá dẫy dụa như muốn
buông thả. Cầm cái ly lên tay mát lạnh vì ẩm ướt, lắc lắc kêu lanh canh,
nhấp một ngụm, lạnh cả người, lạnh cả đầu lưỡi. Nó cứ chui tuốt xuống
cổ họng, lại thấy cái lạnh lan man khắp lục phủ ngũ tạng, len lỏi thăm
thú từng phân vuông da thịt. Ngoài một chỗ ngồi, tao muốn trở về hai bên
vỉa hè đầy cây cao thẳng tắp, để trăm nhớ nghìn thương với quán Văn Hoa
cùng gió nồm rồi lại gió hanh, bể dâu thì đành bể dâu. Chẳng là ở đấy
tao có nụ hôn đầu đời thắm mùi ngô non với người tình nắng Sài Gòn anh
đi mà chợt mát, bởi vì em măc áo lụa Hà Đông. Rồi tao đưa em vào hạ, vào
rạp Văn Hoa với bóng tối đèn mờ. Lần đầu tiên trong đời tao mới biết
thế nào là ngứa ngáy, là bàn tay năm ngón kiêu sa tháo mở với…sào khô,
sào ướt đến…khó chịu. Tao đang khơi đống tro tàn, nói dại chứ, ai chẳng
muốn làm người lớn thì cũng phải bước qua giữa lối đi hẹp trong bóng tối
âm u. Chữ nghĩa buông xả và niệm rằng: tao chỉ vọng cố hương qua đường
xưa lối cũ cùng một vạt áo dài ngang ngang...đầu gối. Trái nắng trở trời
với mưa không ướt đất nắng không ấm đầu, tao thương hoài nghìn năm về
một tà áo tiểu thư qua tách cà phê đá và…không hơn đấy thôi.
Thêm
một cái quán nho nhỏ để gợi nhớ đằng cuối đường Pasteur. Đầu ngã ba này
là nhà may Thiết Lập phía đường Nguyễn Đình Chiểu, cuối ngà tư kia là
phở Hòa: Ấy là quán cà phê Pateur. Quán nhỏ bé với một cái tên, gọi riết
thành quen vì rằng quán có tới ba chị em, cô Hồng, cô Hà và cô út tên
Khuê. Quán không có bảng hiệu, mặt tiền trông ủ ê cũ kỹ với cửa nẻo mầu
xanh lá cây. Ngày ấy tao ngất ngư với dòng nhạc mệt mỏi cở…đại bác đêm
đêm vọng về của Trịnh Công Sơn như…cánh vạc bay, để rồi bay lên vút tận
trời, từ nay xa cách mãi. Nói rõ ra là với những âm hưởng này, khách đến
quán với một chút “cát bụi” như…đàn bò vào thành phố.
Quán
hồi đó có những ai nhỉ? Vẫn hồn ma bóng quế của những dị tướng, dị
nhân. Những hiện tượng cổ quái của một thưở với tóc tai như tổ quạ, mặt
mày nhăn nhó khó coi, quái nữa là những khứa này lại sính nói chuyện…vô
vi. Lại có khứa mang vóc dáng khinh đời khinh bạc, đi guốc, mặc áo nâu
sòng, ngồi vất mật vào tường và lầu bầu một mình như…Bùi Giáng. Ấy đấy,
khách ngồi quán đếm không xuể kể không xong, nay lâu lâu lại có dăm
thằng bạn cà phê một thuở thì thào qua điện thọai, chuyện cũng chỉ nhắc
lại quán cũ cùng thằng này thằng kia cùng một thời thế sự du du hề một
thoáng bạch câu. Quán đã đi vào quá vãng, dãy phố buồn hiu trống vắng,
ảm đạm của thành phố một thời người xe tấp nập như nêm cối. Một chiều,
tao đã đứng ở đấy rất lâu, trước mặt quán bây giờ cái đống rác to bự sự
và u hòai về cô hàng cà phê tên Hồng giờ chẳng biêt luân lạc ở góc trời
chân biển nào. Thì đùng một cái, qua một bài viết của Phan Nghị, ông tự
sự cô là người tình liễu trai của ông trong cái tuổi thất thập cổ lai
hy. Đêm đêm hồn ma của bác phu quét đường, đàn bò, cánh vạc, đại bác, cứ
nhè tai ông kêu réo, sau đó ông đành giã từ cõi nhân gian. Chuyện tình
cô hàng cà phê là như thế đó. Cà phê nào mà chả đắng, cuộc tình nào mà
chả…đen đủi. Thì cũng là chuyện vậy, thưa mày.
Cùng
Sài Gòn lang thang trên đường Hồng Thập Tự chạy dài là gặp Đinh Tiên
Hòang. Mày vỗ vai tao…Ừ thì sắp về đến một vùng thổ ngơi mà âm hưởng là
bánh cuốn Thanh Trì nằm trong con hẻm Trần Khăc Chân, thứ bánh cuốn mỏng
tang, không nhân, chấm nước mắm nhĩ mầu cua đồng, cay xè vị ớt bột, kèm
miếng đậu rán nóng hổi, dòn tan, thêm miếng chả quế, giò lụa trắng
phau, ăn quên chết. Cũng nơi chốn này, còn có quán chả cá Thăng Long,
với xoong mỡ sôi đổ lên đĩa chả cá hòa nhập trong lá sung, lá ổi. lá mơ
xanh um. Nghe tiếng mỡ xèo xèo đầy “ấn tượng”, vậy mà tao vắt óc nghĩ
mãi không quán nó nằm ở cái xó xỉnh nào, thóang như hiện ra ở Xóm Chùa
đường Lý Trần Quán thì phải. Ngựa xe rong ruổi, mây chiều gió sớm, thôi
thi hãy đảo qua đường xưa lối cũ với những Đinh Tiên Hoàng, Hiền Vương,
để còn gì nữa ở vùng đất im ắng này.
Ấy
là tao muốn ngược về một buổi hoang sơ trở lại với một góc phố Đa Kao
bây giờ, mày ngó vào một căn nhà cửa đóng then gài mà trước kia là cà
phê Hân. Không nói mày cũng biết tỏng là quán loại…cao cấp vì bàn ghế ở
đây đều…cao, tạo cho khách một tư thế ngồi nghiêng ngả và bàn nào cũng
thủ sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát hành mới nhất cho nó Tây. Thì như
tao đã luận ngữ ở trên, người Sài Gòn thưở đó rất Tây. Ấy là chưa kể
cái nghĩa địa cũng Tây nốt gần đấy. Ở quán Hân này, như mày thấy đấy,
bàn này người rì rầm nói chuyện, bàn kia người trầm tư lơ đãng, tạm lắng
xuống những lo toan vất vả của đời thường, chẳng ai để ý đến ai.
Ma
đưa lối quỷ dẫn đường, tao vô tình vồ được một mớ văn chương của mấy
ông nhà văn Hà Nội viết về Sài Gòn hôm nay. Đọc mà tức anh ách vì họ vào
đến đây, kẻ thì bắng nhắng như nhặng vào cầu tiêu, kẻ thì ngơ ngác như
quạ vào chuồng lợn. Một bữa, đủng đỏang thế nào tao nhúm được một bài
viết của một người Hà Nội…đàn bà, viết về Sài Gòn với quán cà phê với
phố phường. Nên tao mới khoe mẽ với mày như thế này đây:
“Tôi,
sinh ra và sống ở Hà Nôi 25 năm. Yêu Hà Nội đến cực đoan. Bỗng thấy
trong mình tìm được những lắng đọng, trầm sâu qua nhịp cầu với thành phố
Sài Gòn phương Nam như bức tranh hiện thực ba chiều gió mưa. Nắng tràn
trề rất trẻ, nắng chạy theo người, qua kẽ lá, những phố phường…”. Và một đọan khác: “Sài
Gòn trên cao, Sài Gòn dưới thấp, Sài Gòn nhìn thẳng, Sài Gòn nhìn
nghiêng, Sài Gòn quay mặt. Sài Gòn hối hả triền miên, tất bật đa đoan
nhưng phóng khóang và rộng lượng”.
Tao chịu đèn hột vịt nhất ở khúc này:
“Sài
Gòn mất tên…Nhưng Sài Gòn vẫn mộng mơ. Sài Gòn sóng sánh cà phê, nhớ
nhung, chạy theo ký ức, chạy theo những con đường của mưa, của nắng, của
những chuyện tình trong nhịp phồn sinh…Vậy mà bao nhà thơ, nhạc sĩ,
những người gắn bó lâu năm ở thành phố này, rất hiếm khi viết được tác
phẩm thật hay về vóc dáng, phong cách của thành phố ấy. Phải chăng vì
nhiều nắng đến phát sốt, nắng đến rực lửa ầm ào để con người Sài Gòn cởi
mở hơn và cũng hồn nhiên hơn. ”.
Ngươi viết lắng đọng:
“Anh
thầm thì hát nho nhỏ bên tai em khúc nhạc “Em còn nhớ hay em đã quên”
của Trịnh Công Sơn, để em vẫn nhớ những con đường me anh chở em qua.
Không phải là kẻ hòai cổ, mà bởi vì cái đẹp của quá khứ, sao nhớ mưa
xuân Hà Nội, cũng như khi chúng mình đi trên đường phố se lạnh của Sài
Gòn, đường trải gấm hoa điệp vàng và lá me hát trong gió, lá me bay
khiến nắng trong đến lạ, trong tóc em gió từng cơn rơm rả làm những chùm
quả me rụng xuống những thanh trầm quanh những thân cây được mặc áo lụa
mầu, nắng Sài Gòn em đi mà chợt mát. “
Và chấm dứt tùy bút ngắn với:
“Nhưng cứ mỗi lần đi xa lại nhớ, lại mong trở về Sài
Gòn cà phê cùng những quán cóc vỉa hè, những vỉa hè dát nắng. Với những
người đã đến, khó mà thóat khỏi những cảm giác tiếc nuối của Sài Gòn
một thuở. Nỗi nhớ chạy theo ký ức tình yêu tình tứ-tĩnh lặng còn đến bây
giờ. Sài Gòn thăng trầm binh biến, nỗi nhớ ấy cứ cuốn hút chạy theo
những con đường, con đường chạy theo những khuôn mặt già-trẻ, cũ kỹ
thanh-xuân. Sài Gòn khao khát, đi-về, lúc mệt mỏi, vô cảm, khi viên
mãn-muôn mảng mầu sắc, bức tranh hiện thực và ấn tượng của không gian ba
chiều nắng-mưa…”
Và cô buông bút một câu để đời, tao nhớ mãi:
- Sài Gòn đổi tên, mới cũ nhập nhòa nhưng cái tên không thể mất.
Người viết có cái tên nghe rất quen. Nhưng tao lại không nhớ mới khỉ.
Trở lại với mấy ông nhà văn Hà Nội viết về Sài Gòn bây giờ, như cô phóng bút: “rất hiếm khi viết được tác phẩm thật hay về vóc dáng, phong cách của thành phố ấy”. Ngược
lại, họ…bức xúc với Hà Nội có con đường ngắn nhất tên hồ Hòan Kiếm, gần
đấy có rạp cíné Lửa Hồng ở phố Hàng Trống, xa hơn một tí nữa là phôt
Cầu Gỗ có với cà phê Giảng. Nhưng họ đâu biết Sài Gòn, đường Hiền Vương
với Cầu Bông có con phố ngắn nhất là Nguyễn Phi Khanh với rạp Đa Kao.
Con phố có từ đầu thế kỷ 19, theo cụ Hồ Biểu Chánh: “Phố là phố đúc được dựng lên chen chúc lẫn nhau không thứ tự, có cả nhà ngói, hàng rào sắt coi sạch sẽ san sát nhau…”. Hay
nói khác đi nơi đây là một góc nhỏ ẩn khuất, khu phố cổ thu hẹp, khép
kín của Sài Gòn. Mày nghĩ tao có nói quá chăng? Thì mày hãy thử ngắm mà
xem, từ con phố này gặp con phố Nguyễn văn Thạch cũng chỉ mấy trăm
thước, ở đó không có cái tập nập mắc cưởi của phố thị, nó trầm lắng cô
liêu, im ả tách biệt. Nhà nào cũng nhỏ, cất cao hơn mặt đường mấy với
bực tam cấp xi măng, mở cữa ra là có thể nghe người bên trái nói, thấy
người bên phải cười và có cảm tưởng như có thể đưa tay ra bắt tay nhau
được với người đối diện bên kia. Cả
con phố ngắn nhất Sài Gòn trên, chỉ với dăm căn nhà chật chội, mái ngói
xạm mầu rêu, trồi sụt nhấp nhô. Mà cũng có một cái lạ, như tao đã thưa
thốt, bỏ đi thì nhớ, về gặp lại thấy bồi hồi vì phố cũ vẫn như vậy chẳng
đổi thay, nhật mộ hương quan hà xứ thị, yên ba giang thượng cổ nhân
sầu, sầu qua nỗi nhớ cùng con phố ấy một thời tao đã đi lại lắm lần qua
những ngôi nhà cửa đóng im ỉm như trơ gan cùng tuế nguyệt.
Ở
đấy cũng có một quán cà phê mà gần đấy có…cái cột đèn, dường như là cái
chỗ người ta dựa lưng đợi nhau. Mà mày đang múa máy chỉ chỏ gì vậy, mày
lẩm nhẩm hình như căn nhà của cụ thầy bói mù Ba La râu tóc bạc phơ có
vườn hoa giấy, chẳng phái đâu. Thằng khỉ, thì như tao vừa nói: đó quán
cà phê Thái Chi năm xửa, năm xưa với một nhớ hai quên đấy, thưa mày. Mày
còn nhớ chứ, quán là cái phòng khách chỉ đủ chỗ cho ba bốn chiếc bàn,
không có nhạc, không gì cả ngoại trừ một bức tranh đen trắng treo trên
vách được cắt ra từ một tờ báo ngoại quốc. Tranh chụp một bàn tay giắt
một em bé vai đeo cặp sách, mắt mở to, miệng mếu máo, phía dưới có hàng
chữ: “Đi học hả? Hôm qua đã đi học rồi mà”.
Khách
đến với quán nhiều lần thành quen, từ quen hóa thân, ngồi dai dẳng như
muốn dính vào tường. Mà cũng quái, không biết từ hồi nào, khách hễ vào
quán cà phê mà ngồi không lâu y như rằng, là tự nhiên cảm thấy…áy náy.
Và chị thì dường như chẳng lưu tâm đến cái chân lý bất biến này. Khách
ngồi không mặc khách. Chị làm công việc…một ngày như mọi ngày của chị.
Cả hai không dính dấp gì đến nhau. Vậy đấy. Chị Chi pha cà phê nhưng
quen tay vần là trà xanh. Mỗi người một vẻ, như quán cà phê ông Nhân,
ông Giảng, cái này số nhà 88, cái kia số100. Quán này có rượu rhum, bơ
bretel, quán kia có cà phê…”ovaltine”. Với chị thì khác, lúc nào cũng
thế, trà được bốc một nhúm ngang lòng ấm, nước vừa độ sôi, thời gian vừa
đủ, nước trà vàng tươi, ngai ngái thơm trong những chiếc ấm gan gà nhỏ
nhắn, xinh xinh. Mỗi bộ ấm có kèm theo những chiếc tách cùng màu, to
bằng hột mít, vừa đủ cho vài hớp nước nhỏ. Nhắp một ngụm trà, chuyện
trên trời dưới đất, thóang trông nhàn cư và thoát tục như ai.
Chẳng mấy ai nhớ đến số nhà của quán chị Chi, chỉ biết rằng nó nằm ở con
phố nhỏ Nguyễn Phi Khanh. Ấy vậy mà cách đây mấy năm, ngày chị đi vào
cõi tĩnh mịch, có tới hơn hai trăm khách quen theo linh cữu chị để tiễn
đưa. Nghĩ cho cùng mấy ai được như vậy. Tất cả chỉ vì cái tình tri ngộ
qua hình bóng lắng đọng với cái tên thân quen, gần gũi: quán chị Chi.
***
Ừ
thì bằng vào tất cả những gì tao nhắc tới qua bài tản mạn này là một
thóang ngày cũ, một chút cảnh xưa, một phần hơi thở và nhịp sống của Sài
Gòn trong trí nhớ. Mây vẫn bay, ngày vẫn trôi đi, ai chẳng có một cái
quán của riêng mình còn đang bồng bềnh ở đâu đó, nơi quê nhà. Và ngẫm
cho cùng nếu có đi hết đất, có đi hết biển thì ai cũng chẳng có một hạt
sạn trong chiếc giầy, mới đầu chỉ bằng hạt cát, theo tuổi tác cứ lớn dần
bằng hạt đậu, hạt sỏi rồi thì to bằng quả núi Tu Di, và để rồi…một
ngày: “Anh về thăm chỗ đợi xưa - Cây cột đèn ấy hình như nhớ liền - Căn nhà có cội mai vàng - Ngưoi ta đã đốn mở hàng cà phê”. Ừ
thì bằng vào cái tuổi vắng gió đìu hiu này…Mấy ai chẳng một lần hòai
cổ, hoài cố quận với hoài cố nhân cùng Sài Gòn vắng những cơn mưa.
Rồi mày cũng sẽ có một ngày…
Phí Ngọc Hùng
Nguồn: Đếm sổ đọan trường có đến hơn 20 bài viết về những quán cà phê. Và bài viết này được phỏng theo những tác giả như: Văn Lang, Uyên
Giang, Lâm Thiếu Mai, Hòang Châu, Nguyễn Quốc Trụ, Đào Vũ Anh Hùng, Võ
thị Điềm Đạm, Võ Phiến và nhiều nữa, nhiều như những quán cà phê Sài Gòn
ngày nào vậy - Nay kính.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire