Hồ Sơ Đen Của CSVN : Những Con Bò Sữa « Thuyền Nhân »
Michel Tauriac & Hồ Văn Đồng, C/N 2010/10
Viet Nam, Le Dossier Noir du Communisme, Michel Tauriac
Những Con Bò Sữa
« Thuyền
Nhân ». Cái danh từ có một âm tự mà mỗi khi nhà cầm quyền Cộng Sản ở Hà
Nội nghe đến nó thì họ nghĩ đến danh từ « đồng đô la". Thế nhưng cho
đến bao giờ người ta mới biết hết được những bất hạnh đã xảy ra cho danh
từ đó ? Mặc dù danh từ « Thuyền Nhân » xuất hiện lần đầu tiên trên tờ
báo New York Times bởi ngòi bút của ký giả Henry Kamm, nhưng ai cũng
biết cuộc di tản bằng đường biển của người tỵ nạn Việt Nam đã bắt đầu
ngay từ khi các phương tiện bỏ chạy bằng đường bay không còn hữu hiệu
nữa vì Sài Gòn đã bị Cộng Sản chiếm đóng vào ngày 30/04/1975. Một trong
những nhóm người đầu tiên rời khỏi Việt Nam, bằng đường biển vào ngày
mất nước hôm đó, là những người tỵ nạn Cộng Sản. Họ thả xuôi theo giòng
nước sông Cửu Long ra đến cửa biển Cần Thơ, một thành phố lớn nhất vùng
châu thổ, trên hai chiếc tầu nhỏ và một chiếc ghe, cùng với hai mười
người Mỹ và trong đó có cả Tổng Lãnh Sự Mc Namara. Cùng trong ngày hôm
đó, chiếc chiến hạm Mỹ tên là Mobile, nằm ở cửa biển sông Sài Gòn, đã
thấy có đến hai mươi chiếc tầu đánh cá và một chiếc tầu chở hàng cũ chứa
đầy người tỵ nạn. Những người tiền phong cho cả một đám đông khổng lồ
ra với hành trang tuyệt vọng.
Ngày
hôm sau, thứ Năm, 01/05/1975. Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, ở cách bờ biển 35
dặm, đã chứng kiến một đoàn 27 chiếc tầu nhỏ ào ạt tắp đến từ đảo Phú
Quốc, một hòn đảo nhỏ cách Việt Nam 25 dặm. Trên khoang những chiếc tầu,
có gần 30 ngàn người tỵ nạn, trong số 50 ngàn người mà Thủ Tướng VNCH
đã quyết định cho di tản đên đảo này từ hai ngày sau khi Thủ Đô Sài Gòn
thất thủ. Rạng đông ngày thứ Sáu, mồng 02/05/1975, trên tầu Blue Ridge,
chiếc chiến hạm chỉ huy của Hạm Đội VII với 46 đơn vị, đã mang đến 25
ngàn người Sài Gòn trong số những người cuối cùng có thể thoát khỏi
thành phố bị bao vây. Trên thành tầu, những người thuỷ thủ nghiêng mình
nhìn xuống một cảnh tượng kinh hoàng mà họ không dám tin là sự thật :
mặt biển được bao phủ bởi hàng ngàn ... & ... hàng ngàn chiếc thuyền
ghe đủ loại đủ cỡ, từ những chiếc xà lan già nua rỉ sét cho đến những
chiếc thuyền đánh cá tý hon mỏng manh và lố nhố đầy người trên khoang
thuyền. Những ký giả được tầu Blue Ridge cứu lên đã ước lượng là có đến
khoảng 100 ngàn người, đó là con số những « Thuyền Nhân » đầu tiên trong
lịch sử người Việt Nam Tỵ Nạn Cộng Sản.
Từ
đêm hôm đó cho đến rạng đông ngày mồng 03/05/1975, lần lượt các nước
láng giềng gần ranh giới Việt Nam cũng đã đón nhận được những người đầu
tiên bỏ trốn ra khỏi nước mà hành lý mang theo là hai bàn tay trắng với
trái tim rướm máu và một tâm hồn tuyệt vọng. Sau này, trước sự vượt biên
thường xuyên của họ, chính những quốc gia này đã đành phải đẩy họ trở
ra biển để trả lại tử thần vì không còn cách nào khác hơn được. Một
chiếc tầu 8 ngàn tấn, có tên là Đông Hải, đã mở đầu con đường hải lộ bi
thương này khi thả lên Singapour một nhóm 822 người tỵ nạn. Trong khi
đó, ngày 04/05/1975, bốn ngàn năm trăm (4500) người khác, trong số có 1
ngàn thiếu nhi, được lên tầu Đan Mạch Clara Maersk. Họ đã rất may mắn vì
chiếc thương thuyền chở họ, có tên là Trường Xuân, đã rời khỏi Việt Nam
ngay trước mắt Cộng Sản, và còn đang ở trong tình trạng sửa chữa. Khi
sắp bị chìm thì tầu Trường Xuân được chiếc tầu cứu tinh này từ phương
Bắc đến gần và cứu vớt.
Tổng
cộng, có khoảng hơn 200 ngàn người tỵ nạn Việt Nam đã trốn ra khỏi nước
trong những ngày đầu tiên của tháng Năm. Khoảng 130 ngàn người được Hoa
Kỳ tiếp nhận sau khi qua trạm Phi Luật Tân hay đảo Guam, một hòn đảo
nằm ở vùng biển Thái Bình Dương mà trước đây có căn cứ Hải Quân của Mỹ.
Những người khác, thường thì họ mang hai quốc tịch Việt Nam và Pháp nên
đã được đi Pháp. Trong số những làn sóng người tỵ nạn đầu tiên có rất
nhiều kỹ sư, chuyên viên đủ nghành, và y sĩ, họ đều lo sợ đến sự thù hèn
hạ mà Cộng Sản dành cho giai cấp của họ.
Kể
từ năm 1975 đến năm 1977, làn sóng « Thuyền Nhân » đã gia tăng đều đặn,
và các trại tỵ nạn cũng đã được Phủ Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc (HCR) đều đặn
mở ra tại Thái Lan, Mã Lai, Phi Luật Tân, và Nam Dương hàng ngày đều có
thêm người tỵ nạn mới nhập trại. Các quốc gia Tây Phương đã rộng rãi
chấp nhận một số đông người tỵ nạn đến tạm trú như Pháp, Hoa Kỳ, Gia Nã
Đại, và Úc Đại Lợi (bỏ ra nhiều thời gian hơn để quyết định), ngoài ra
còn có thêm một số quốc gia Âu Châu ở bên ngoài bức màn sắt.
Cho đến đầu năm 1976, Cộng Sản Việt Nam lại càng thêm cứng rắn và sát máu với người dân. Những lời hứa hẹn về "hoà hợp hoà giải dân tộc"
đã vĩnh viễn bay biến, và các trại cải tạo tập trung đầy ắp người, dân
chúng miền Nam bị công an Cộng Sản theo sát như hình với bóng, và mấy
chục ngàn người dân thành phố bị đày ải đi đến các nơi khô cằn sỏi đá
hay rừng thiêng nước độc mà Cộng Sản Việt Nam che đậy bằng danh từ hoa
mỹ là "vùng kinh tế mới", mà ở đó người dân bước vào kinh tế vô sản với kiếp sống đoạ đày và khốn khổ. Cùng trong khi đó thì "luật cải cách ruộng đất" đã
tước đoạt hết đất đai của nông dân. Do đó mà người dân Việt Nam đã bất
chấp thất cả mọi thử thách kể cả những khó khăn nguy hiểm ngày càng
chồng chất, thậm chí có thể bị tù đày hay giết chết, họ vẫn cứ lén lút
và chen chúc nhau, từng đêm đi chôn dầu vượt biên, và đùa giỡn với tử
thần trên các bờ bãi. Vào năm 1977, đã có hơn 10 ngàn « Thuyền Nhân » -
danh từ này đã trở nên thông dụng - đến Thái Lan và Mã Lai. Các trại tỵ
nạn đã phải mở rộng thêm ra và các xứ sở đầu tiên tạm dung họ bắt đầu
khó chịu. Và chỉ có một nửa đơn thỉnh nguyện di trú được các nước Tây
Phương chấp thuận.
Từ
cuối năm 1977 đến đầu năm 1978, tình trạng lại càng thê thảm hơn. 80
ngàn thuyền nhân đến bờ biển các nước miền Đông và Đông Nam Á Châu, thì
có đến 70 ngàn người đổ xô vào chỉ riêng một nước Thái Lan. Đó là thời
điểm mà tiếng đại bác nổ dữ dội ở vùng biên giới Viê.t-Hoa, và "đàn anh
Trung Cộng" đang vác gánh nặng ở vùng biên giới phía Nam vì những cuộc
giao tranh giữa quân Khờ Me Đỏ và bộ đội Cộng Sản Việt Nam. Biến cố này
đã khiến cho 300 ngàn người Hoa Kiều bỏ trốn. Hoa Kiều ở miền Bắc thì
chạy bộ vượt biên giới sang Trung Cộng, Hoa Kiều ở miền Nam thì dùng
đường biển mà chạy lấy mạng. Cộng Sản Hà Nội lên án Bắc Kinh là muốn phá
hoại tình trạng kinh tế Việt Nam khi chiếm mất số dân cư rất năng động
kia, mà đa số họ là đang nắm huyết mạch tiền tệ và thương mại thời đó.
Con hát mạt hạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nguyễn Khắc Viện lại rống
lên những điệp khúc rẻ tiền do các quan thày của hắn ở Bắc Bộ Phủ đã
soạn sẵn bài bản (Sud-Vietnam au fil des années, 241. Éditions en
langues étrangères, Hanoi, 1984.) : Các gián điệp Trung Hoa dưới sự điều
động trực tiếp của toà đại sứ Trung Hoa ở Hà Nội đã xúi giục người Hoa
Kiều hồi hương "nơi đó nhà nước sẵn sàng đón rước họ để tham gia lao
động tái thiết "Đại Trung Hoa". Họ nói là người Việt Nam sẽ tàn sát họ
một khi tiếng đại bác đầu tiên phát nổ ở vùng biên giới Việt-Hoa. Như
thế, đối với các đảng viên Cộng Sản Việt Nam, nếu hàng trăm ngàn đồng
hương của họ bỏ xứ trốn đi, thì luôn luôn là do bởi sự xúi giục từ "mạng
lưới ngầm" của những người nước ngoài đáng ghét.
Mặc
dù bên ngoài thì che đậy như thế, nhưng trên thực tế thì phỉ quyền Cộng
Sản ở Hà Nội đã tìm ra hai mối lợi : một cơ hội để dứt bỏ một số dân
chúng rất dễ trở nên nguy hiểm trong trường hợp chiến tranh vùng biên
giới gây bất lợi, và một cơ hội khác là để nhét đầy túi tiền. Họ đã làm
tiền người ra đi sau khi thẳng tay bóc lột sạch sẽ đủ mọi thứ. ngày
24/03/1978, Cộng Sản Việt Nam bắt đầu tung công an ra tấn công tài sản
của "giới tư sản mại bản" ở Chợ Lớn, khu vực người Hoa-Kiều tại
Sài Gòn. Tất cả tài sản của cộng đồng người Hoa Kiều đều bị "quốc hữu
hoá" đồng lúc với tư doanh. Bàn ghế, nhà cửa, nữ trang, quý thạch, đồ sứ
đắt tiền, và đồ dùng các thứ đều trở thành "tài sản nhân dân". Kho tàng
của chiến tranh, mà Cộng Sản Hà Nội hy vọng như vậy, để bù trừ các hậu
qủa của việc bỏ trốn gây ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia. Không cần
phải phí phạm một giây khắc suy nghĩ nào, người ta cũng có thể hiểu được
rằng việc đó sẽ đưa Cộng Sản Việt Nam vào chỗ bế tắc sau này.
Vì
bị khốn đốn trong tuyệt vọng, người Hoa Kiều đã bắt buộc chân lên những
con tầu. Người ta còn nhớ câu chuyện chiếc tầu hàng hải cũ kỹ tên là
Hồng Hải sắp bị chìm trong hải cảng Klong ở Mã Lai, với 2500 hành khách
mà phần lớn là người Việt gốc Hoa, đã bị khước từ không cho lên bờ. Thảm
cảnh này đã làm rúng động lương tâm thế giới và thúc đẩy xu hướng cứu
cấp của người Tây Phương. Một trong số đó là một y sĩ người Pháp, một
cựu đảng viên đã ly khai Đảng Cộng Sản, ông ta đã tìm cách đền bù lỗi
lầm vì đã hoạt động cho Cộng Sản bằng cách mua một chiếc tầu dùng để ra
biển Đông vớt người tỵ nạn, mặc dù các "cựu đồng chí" của ông thấy động
cơ đó không đúng chỗ. Sự ra đi của tất cả những hành khách không ngày về
đó đã được tổ chức trong bóng tối, mà mỗi người đều phải mang nợ để đáp
ứng yêu sách vô hạn định. Dù cho có phải là Hoa Kiều hay không, ngày
nay người ta đều có thể rời khỏi Việt Nam "bán chính thức", cho dù người
Hoa Kiều bị cưỡng bách hay là do tự ý ra đi như tất cả mọi người, họ
đều muốn chạy thoát khỏi nanh vuốt của kẻ áp bức là Cộng Sản Việt Nam.
Để
che đậy tội ác và lừa bịp thế giới, Cộng Sản Hà Nội lên tiếng xuyên tạc
sự thật rằng : Làm sao dám giả định là các thuyền nhân trốn lánh một sự
áp bức thường trực ? Bọn này chỉ tuân theo mệnh lệnh của Washington và
muốn phá hoại nền kinh tế nước nhà bằng cách tước đoạt lấy chất xám. Và
những luận điệu này đã được chúng lập đi lập lại nhiều lần với báo chí
Tây Phương. Chưa hết, mỗi ngày, tên bác sĩ Việt Cộng hành nghề con hát
tên Nguyễn Khắc Viện, đều kể lể trong bản thông tin của bọn Phỉ Quyền
Cộng Sản và trên các tài liệu tuyên truyền của chúng dành cho "người
nước ngoài" rằng : Hoa Kỳ đã đề nghị cùng những người vượt biên là sẽ
chở họ đi với giá từ khoảng 2 ngàn đến 3 ngàn đô la, đến tận các tầu Hải
Quân Mỹ đậu ngoài khơi chờ đón. Những chuyên viên giỏi và trí thức thì
không phải trả tiền gì cả, hắn ta còn dám xác nhận rằng : "Giờ đây chúng
tôi có thể quả quyết rằng nhà nước không cưỡng bức một ai phải bỏ xứ ra
đi, và cũng không giữ một ai muốn ra nước ngoài sinh sống". Thật vậy,
nếu một vài người bị "lầm lạc" bởi các "lực lượng phản động ở trong nước
và ngoài nước", hắn ta còn thêm vào, đó là vì "họ không có can đảm đi
khai khẩn các vùng đất mới". Nguyễn Khắc Viện đưa ra thí dụ của một đồng
nghiệp bác sĩ, dưới chế độ cũ thì ông bạn đồng nghiệp này "đi xe ô tô
và sống trong vi la có gắn máy lạnh" và trở thành "quản lý của một bệnh
viện công". Như thế thì làm sao người này có thể sống trong một "xã hội
mới", thích nghi với một "xã hội cách mạng" ? Còn về phần nhà nước, tuy
rất tiếc khi thấy những người này ra đi, nhưng không thể làm được gì
khác hơn là cầu chúc cho họ được thượng lộ bình an.
Những
bài diễn văn kiểu nguỵ biện và xuyên tạc như trên, chúng ta thường thấy
xuất hiện dưới ngòi bút của các ký giả Cộng Sản, là những người duy
nhất vào thời điểm đó được ra vào Việt Nam, đóng kín ở phía sau bức màn
sắt đầy đe doạ, từ tháng Năm, năm 1975, như một con nhím đang dương
những cọng gai nhọn hoắt. Và hai mươi năm sau, nó vẫn còn nằm trong cửa
miệng của một vài tay bình luận Tây Phương. Thí dụ như miệng của một
phóng viên báo Pháp Đức, Arte [Le Grand Documentaire, ngày 11/02/1995],
đã chứng kiến cảnh đào thuỷ lợi bằng tay không của "những người dân can
đảm của mười làng ra công hợp sức", và tìm được trong "cái thú vị của sự
nỗ lực chung", và để giải thích lý do tại sao mà nhiều vạn người khác
quyết định trốn khỏi nước Việt Nam Cộng Sản, thì hắn ta châm biếm rằng
họ không thể "có cái cảm giác xây dựng quê hương xứ sở, như là cha ông
họ đã từng đánh giặc bằng vũ khí trên tay". Chỉ có những con hát mới
biết mặt thật của họ ở phía sau lớp phấn son, và chỉ có Cộng Sản mới
biết sự thật của họ ở phía sau bức màn sắt ; do đó một cựu đại tá Việt
Cộng như Bùi Tín thì dĩ nhiên là phải biết rõ Việt Cộng hơn một tên
phóng viên của tờ báo Arte. Ông Bùi Tín giải thích điều đó trong quyển
sách "Vietnam, La face cachée du regime", [147, Kergour, 1999], viết ít
lâu sau khi ông đến lưu vong tại Paris. Việc hối lộ của các người Hoa
Kiều ra đi "bán chính thức" được chính bộ Nội Vụ tổ chức. Được biết đó
là "Kế Hoạch 2", mà mục đích được giữ kín, có cả một loạt những công tác
cho phép các giới chức tổ chức cuộc ra đi của các người lưu vong mới
sau khi "nhổ sạch lông" của họ một cách rất có phương pháp. Mỗi người
phải trả giá vượt biên từ 3 đến 5 lượng vàng (một lượng = 36 grams), có
khi gấp đôi. Nhà cửa, xe cộ, hoặc của cải để lại cho
Khi
đến chỗ xuống tầu, thường thì ở ngay tại thành phố như Cần Thơ, bên bờ
Cửu Long, chẳng hạn, người ra đi phải chịu đựng những sự bóc lột cuối
cùng như : bị tịch thu do các băng đảng tự cho là có quyền lục lọi, lấy
vàng, nữ trang hoặc đô la mà người tỵ nạn có thể còn cất dấu đươ.c. Sau
đó thì xuống tầu với nỗi lo sợ rằng chiếc tầu chở mình sẽ có một phần
hai cơ hội sẽ bị hải tặc tấn công để lấy nốt những mẩu vàng còn xót lại
trên người trước khi ném họ xuống biển. Thế nhưng khi đã lên được tầu
rồi vẫn còn chưa yên với tuần cảnh địa phương nếu tầu chưa ra đến hải
phận quốc tế. Nếu muốn thoát khỏi không bị bắt lại, thì tốt hơn hết là
đưa ra chút của cải nào còn được dấu vào chỗ kín nhất. Bằng không thì sẽ
bị bắt lại, và trong trường hợp này, tội danh là phản bội và bị "đế
quốc Mỹ" mua chuộc. Tội này có thể ngồi tù từ 12 năm cho đến 20 năm (sắc
luật luôn luôn có sẵn để tham khảo.)
Những
người chọn cách đi tỵ nạn bằng đường bộ xuyên qua lãnh thổ Lào hay Căm
Bốt đến Thái Lan thì gọi là Bộ Nhân (land people). Những cuộc hành trình
vượt biên đi tỵ nạn bằng đường bộ thì luôn luôn gặp nguy hiểm. Họ sẽ bi
công an, hay bộ đội, hay là cảnh vệ nhân dân đuổi bắt, và có khi chỉ là
người đi đường, thường là có liên hệ với Cộng Sản. Còn những người vượt
biên nào "mượn được", theo với giá do quân đội Nhân Dân ấn định, một
chiếc xe vận tải quân sự chở quân nhu, cho phép họ núp bên trong thùng
lớn, cách này được xử dụng khá thường xuyên, nhưng có khi cũng bị ngộp
thở chết vì hơi xăng, và các nạn nhân trong trường hợp này cũng khá
đông.
Những
người may mắn hơn hết là có thể "kiếm" được một "giấy xuất cảnh chính
thức" và vé máy bay đến tận Hoa Kỳ. Nhờ vào một kế hoạch do Liên Hiệp
Quốc tổ chức với sự thoả thuận giữa Hoa Thịnh Đốn và Hà Nội vào năm
1979. Thế nhưng họ cũng vẫn chịu hạch sách và tống tiền thì đơn xin xuất
cảnh chính thức mới qua lọt, nhiều khi phải mất đến mười năm chờ đợi.
Ngay chí Hoa Kỳ còn bị hạch sách đủ điều, và phải trả tiền cho từng đầu
người tỵ nạn để được phê chuẩn cho phép đi.
Do đó, Cộng Sản Việt Nam đã phát minh ra được "Những Con Bò Sữa Thuyền Nhân"
của họ. Một nhà nghiên cứu ở Ba Lê tên là Bùi Xuân Quang, trong cuốn
sách La Troisième guerre d'Indochine 1975-1099 (207-590, L'Harrmattan,
2000), ông đã tính toán "mối giao dịch" này của Cộng Sản Việt Nam, kéo
dài ròng rã 20 năm kể từ 1975 đến 1995, đã mang lại cho Ngân Khố của Nhà
Nước Cộng Sản Việt Nam khoảng 25 Tấn Vàng. Với chừng
ấy vàng mà người ta thấy xuất hiện trên thị trường tiền tệ Tây Phương
dưới hình dạng các thỏi vàng mang ấn dấu của Việt Nam. Chủ yếu của nó là
dùng vào việc bồi hoàn những số nợ mà bọn Phỉ Quyền Cộng Sản Việt Nam
đã ký kết với Cộng Sản Nga và các xứ dân chủ nhân dân cùng tiền mua vũ
khí chiến tranh, số vàng ấy lên đến trị giá khoảng 2,5 tỷ Mỹ Kim, tính
trong khoảng thời gian từ năm 1979 đến năm 1983.
Hiệp
sống với nỗi ám ảnh là bỏ nước ra đi. Tôi còn nhớ tiếng nói của người «
Thuyền Nhân » mà chúng tôi đã từng gặp nhau trên bãi biển Songkla tại
Thái Lan giữa những người khác, bên cạnh chiếc tầu bị hư của họ, mà tôi
đã được nghe anh kể lại câu chuyện thống khổ của anh. Và cho đến bây giờ
bên tai tôi vẫn còn văng vẳng lời kể lại của anh : Vào một đêm nọ ở
Việt Nam, một tên cán bộ Cộng Sản Việt Nam đã nói khẽ vào tai anh : "hai
ngàn đô la, hay 4 cây vàng ...". Anh đồng ý với mối làm ăn ; thế nhưng
khi đến chỗ hẹn thì Hiệp mới nhận ra mình đã bị cướp. Thuyền thì chẳng
thấy đâu mà vàng thì bị mất. Đó là cái hoạ luôn luôn rình rập và cũng là
một trong những cái giá mà những người muốn vượt biên tìm tự do. Làm
sao để tránh khỏi bị lừơng gạt, cướp bóc hoặc bị tố cáo, và tìm ra đường
giây tốt. Tôi biết có một « Thuyền Nhân » đã không thành công trong
việc đi tỵ nạn mặc dù đã thử đến 27 lần. Hiệp thì đi hụt 3 lần, và sau
đó thì anh quyết định tự tổ chức lấy chuyến vượt biên. Anh đã lén lút tự
vá víu một chiếc tầu đánh cá cũ. Từng đêm rồi lại từng đêm cứ lo bào
rồi lại trét, và những đêm trắng đêm hì hục sửa chữa máy móc. Thế rồi
cuối cùng thì ngày khởi hành cũng đến, chiếc tầu đánh cá cũ kỹ của anh
mang theo 85 người rời bãi xuôi giòng và trôi dọc theo những con kênh
chẩy dài ra biển.
Hiệp
lặp lại cho chúng tôi nghe với một vẻ thống khổ : "Chúng tôi có 85
người trên chiếc tầu này và đã rất sung sướng vì có thể rời khỏi Việt
Nam. Bây giờ thì ông hãy nhìn xem, ngày hôm nay chúng tôi chỉ còn có 2
người. Hai người sống sót duy nhất là Ngọc, con gái của chị tôi và tôi".
Với cái đầu ướt lạnh như con mèo chết đưới và thân thể đói khát gầy trơ
xương sườn như một con chó hoang, cùng với đứa bé gái lên 6 tuổi có đôi
mắt nai khờ. Chúng tôi đã khóc. Nước mắt của những kẻ thừa mứa tự do đã
đổ xuống mặn ướt câu chuyện phiêu lưu liều chết tìm tự do của anh. Anh
đã bị kẹt lại ở trại Songkla này cùng với Ngọc sau khi thoát chết khỏi
những bàn tay đẫm máu của bọn hải tặc Thái Lan đã giết chết chị anh cùng
tất cả hành khách trên tầu sau khi chúng bắt mang theo gần hết phụ nữ.
Vào
tháng 10/1978 có 20 ngàn người tỵ nạn đặt chân lên bờ biển Mã Lai, và
chỉ đến tháng 12 năm đó con số đã lên đến 50 ngàn người. Cộng thêm vào
con số 5 ngàn người đi chân đất với ước vọng đã đến được bến bờ tự do.
Chỉ trong vòng 4 tháng cũng đủ để cho hòn đảo hoang Pulau Bidong của Phi
Luật Tân đón nhận được 20 ngàn kẻ bị biển ruồng bỏ. Vào khoảng giữa năm
1979, có 5 ngàn người tỵ nạn mới đến thêm vào con số những người anh em
khốn khổ trong trại tỵ nạn Hồng Kông, trong khi có 90.500 người khác
làm đầy ắp trại tỵ nạn Mã Lai. Những người mà cảnh sát địa phương từ
chối đẩy ra biển đã trôi giạt đến Nam Dương, hoặc xa hơn nữa, đến tận
Nam Hàn, hay Nhật Bản, và có khi đến tận Úc Đại Lợi. Hãy thử nhắm mắt và
tưởng tượng cuộc hành trình liều chết để tìm tự do của họ trên khoang
một con tầu bé nhỏ mong manh ...
Bất
thình lình, một hồi chuông báo động nổi lên khi 2 nước Thái Lan và Mã
Lai tuyên bố rằng từ nay về sau họ sẽ không nhận thêm thuyền nhân mới.
Bị dồn vào đường cùng, Liên Hiệp Quốc phải triệu tập một hội nghị quốc
tế ở Genève và thu hoạch được ba kết qủa là : Các quốc gia ở vùng duyên
hải bảo đảm là thuyền nhân sẽ không bị đẩy lui ra biển ; các quốc gia
tiếp nhận họ gia tăng thêm một số lượng hạn định tái định cư bổ túc là
130 ngàn người ; và quan trọng nhất là Hà Nội, lo ngại khi phương diện
của chúnh bị bôi đen tối dần ở biển Đông trước sự bất mãn của cả thế
giới, nên đã cho phép thuyền nhân có thể ra đi chính thức hợp pháp
"trong vòng trật tự", bằng phương tiện hàng không, chương trình này Liên
Hiệp Quốc gọi là "Ra Đi Trong Vòng Trật Tự" (Orderly Departure Program)
viết tắt là ODP. Kể từ giờ phút đó, nhịp điệu những người vượt biển đến
các trại tỵ nạn thưa thớt một cách rõ rệt. Mực độ từ 300 ngàn người vào
năm 1979, xuống chỉ còn 24500 vào năm 1984, và đến năm 1986 chỉ còn
19500 người. Cũng vào năm đó, lần đầu tiên, các cuộc ra đi tỵ nạn chính
thức bằng đường hàng không với giấy nhập cảnh nhiều hơn con số những
người trôi dạt đến bằng đường biển. Kết quả của Hội Nghị Thuyền Nhân tại
Genève đã thoả mãn thấy rõ, nơi mà Liên Hiệp Quốc nhắm vào một giải
pháp mới cho vấn đề « Thuyền Nhân ».
Nhưng
chỉ 2 năm sau thì tình hình lại đổi ngược và đã làm cho thế giới thất
vọng. Những người tỵ nạn đi tìm tự do lại trở ra biển : con số tăng lên
45 ngàn người vào năm 1988 (25 ngàn người nhiều hơn 2 năm trước đó),
71300 người vào năm 1989, trong số đó phải cộng thêm vào khoảng 17 ngàn
người "bộ nhân". Vấn đề trở nên không giải quyết được và các quốc gia ở
vùng duyên hải bắt đầu nổi giâ.n.
Đó
chính là lý do mà tại trại tỵ nạn Hồng Kông, nơi mà mỗi ngày có đến 34
ngàn « Thuyền Nhân » mới nhập trại, và chính quyền Hồng Kông quyết định
từ đó về sau họ sẽ đưa những người mới đến vào trại tạm giam. Thế là
những cuộc nổi loạn và tự tử nối tiếp theo quyết định của chính quyền
Hồng Kông. Để đóng chặt cánh cửa ngăn chận hẳn cái mạch chính của làn
sóng vượt biển tìm tự do không ngừng này, các quốc gia tiếp nhận di trú
lại tập họp lại thêm một lần nữa và họ đã tìm ra một biện pháp mới gọi
là PAG (Plan d'Action Global) tức là chương trình Hành Động Toàn Cầu.
Bất cứ thuyền nhân nào đến trước ngày 13/03/1989 ở một quốc gia lân cận
Việt Nam, kể từ đó, trên phương diện hành chánh, được xem như một người
có quyền xin cư trú, nghiã là một người tỵ nạn chính trị hoàn toàn có
quyền hy vọng được đi sống hết cuộc đời mình ở một nước Tây Phương. Dĩ
nhiên là với điều kiện xứ này phải bằng lòng cấp cho họ một visa nhập
cảnh. Ngược lại, tất cả trường hợp khác đối với một người tỵ nạn lên bờ
sau ngày 19/03/1989 ; Họ bị xắp loại là di dân kinh tế, người đó phải
chứng minh dược mình có một sự sợ hãi có căn cứ về việc bị xử tội, nếu
không thì người đó bị đe doạ là sẽ bị cưỡng bách hồi hương. Trừ phi
chính mình tự quyết định quay về nước.
Đó
là điều Hiệp đã lầm. Quy chế tỵ nạn chính trị của anh bị từ khước, anh
biết mình không còn cơ hội được nhận vào Hoa Kỳ. Tuy nhiên, anh cũng
phân vân rất lâu trước khi chấp nhận ý tưởng hồi hương. Bởi vì cũng như
phần đông các người tỵ nạn khác, anh sợ bị bắt nhốt vào tù một khi trờ
về Việt Nam. Anh chưa bao giờ làm chính trị, nhưng có người anh từng
chiến đấu trong quân dội Việt Nam Cộng Hoà, và ông nội anh làm việc cho
chính phủ bảo hộ. Hai vết đen đó trên lý lịch cá nhân có thể khiến anh
phải trả giá rất đắt. Nhưng rồi có một lá thư từ Sài Gòn gửi đến trại tỵ
nạn Thai Lan Phanat Nikhom, nơi anh tạm trú, đã trấn an anh được phần
nào. Một trong những người bạn vượt biên cũ của anh, đã tình nguyện về
Việt Nam, cho anh biết là mọi chuyện khá tốt đẹp ở đó, và khuyến khích
anh cùng về.
Năm
1993, chúng tôi gặp lại Hiệp ở quê hương anh, và lại khóc lần nữa. Thế
nhưng lần này thì chúng tôi cùng khóc mừng rỡ khi thấy anh đã thoát nạn.
Anh là một trong 110 ngàn cựu « Thuyền Nhân » kể từ năm 1989 đã chọn
hồi hương thay vì tiếp tục chết dần mòn ở một trại tỵ nạn Á Châu. Nhờ có
sự giup đỡ tài chánh của Phủ Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc (HCR) và Liên
Minh Âu Châu, mà giờ đây anh trở thành chủ nhân của một xưởng pha chế
nước mắm và một căn nhà nho nhỏ hai phòng, gần Vũng Tầu, mà tên cũ người
Pháp gọi là Cap Saint-Jacques, trên bờ biển Miền Nam mà ngày xưa anh đã
bỏ ra đi tìm tự do không bao giờ có, và tưởng rằng không bao giờ anh sẽ
phải trở lại nởi đây. Anh sống cùng bà guá phụ của một trong những
người bạn đã biến mất trên biển đi tìm tự do, cùng với người em gái và
ba đứa con của bà. "Nhà của chúng tôi tuy nhỏ như chúng tôi có thể chứa
được đủ thứ. Ở trên thuyền còn ít chỗ hơn".
Trong
những cuộc vận động và thoả thuận cùng Hà Nội, Liên Hiệp Quốc đã cố
gắng tạo điều kiện tốt cho những người cứng rắn, ngõ hầu giúp cho họ tự
quyết định sắp xếp quay về. Họ cho chiếu những cuốn phim quay tại Việt
Nam mà trong đó cho thấy cảnh những người cựu thuyền nhân tình nguyện
hồi hương "sống như những ông hoàng". Các cán bộ Cộng Sản còn đến gặp họ
để tâng bốc. Họ gáy lên những điệp khúc tuyên truyền nào là Việt Nam đã
thay đổi, và ở đó người ta sống tự do và ai đói thì cứ ăn.
Bọn Phỉ Quyền Hà Nội có thể tự khen chúng. Những
con Bò Sữa Thuyền Nhân đã mang đến cho bọn phỉ quyền Cộng Sản Hà Nội
rất nhiều quyền lợi. Chưa hết, những con Bò Sữa Thuyền Nhân vẫn còn tiếp
tục cung cấp sữa, dù ở bên kia bờ đại dương. Qua những gói quà
họ gởi về cho gia đình mà những người tỵ nạn không bao giờ ngừng gởi về
nuôi thân bằng quyến thuộc còn kẹt lại ở Việt Nam, bắt đầu từ ngày đầu
tiên họ đặt chân định cư trên một quốc gia tự do. Bằng những đồng tiền
mồ hôi nước mắt mà họ không bao giờ ngưng chuyển về ngõ hầu giúp đỡ
những người thân sống còn. Và bằng sự hiện diện của họ bởi vì ngày nay
họ được phép về nước nghỉ hè bên cạnh thân bằng quyến thuộc. Một ước
tính vào năm 1999 cho thấy có đến hai tỷ đồng Đô La hàng năm họ đã mang
lại cho Phỉ Quyền Cộng Sản, tức là một phần ba ngân sách của Nhà Nước
Cộng Sản Việt Nam.
Gần 2 Triệu người VN đã chọn đời sống lưu vong nơi
xứ lạ quê người, thay vì làm nô lệ cho Cộng Sản. Hàng trăm ngàn người
đã gục chết trên đường trốn chạy nanh vuốt CSVN. Kẻ nào dám ăn nói ngược
ngạo, và tuyên truyền láo khoét rằng toàn thể nhân dân miền Nam Việt
Nam đoàn kết cùng "các anh hùng giải phóng" vào năm 1975 ? ? ?
Nỗi
ám ảnh bỏ nước ra đi của Hiệp. Tôi còn nghe anh nói, run rẩy trong bộ
đồ bà ba ướt sũng nước biển, gia tài duy nhất còn sót lại trong đời anh.
Giữa vùng vịnh Thái Lan, tiếng máy tầu của Hiệp hình như văng vẳng
tiếng kêu của những linh hồn lìa xác. Thức ăn và nước uống đều sắp cạn.
Những người đàn bà quỳ trên khoang tầu khấn nguyện trời đất. Phải chăng
trời đất đã chấp thuận lời cầu nguyện của những thuyền nhân vừa mới
thoát ra khỏi nanh vuốt Cộng Sản và đang dẫy trên giữa lòng đại dương ? ?
? Vào giữa trưa ngày thứ sáu, có một chiếc thuyền lướt sóng chạy nhanh
về phía họ. Đó là một chiếc thuyền đánh cá Thái Lan. Rồi 2 chiếc ... rồi
3 chiếc ... Thoát Nạn chăng ? Nhưng ... Than ôi, đó là những chiếc
thuyền hải tặc Thái Lan. Chúng cướp bóc trên tầu, giết chết những người
đàn ông kháng cự, và bắt đi 18 người đàn bà trẻ nhất, rồi bỏ đi sau khi
đâm thủng tầu. Những người Việt Nam cố bám vào thân tầu thì bị chúng
dùng gậy đập chết. Khi trời sáng thì chỉ còn 2 người sống sót duy nhất
đang bám víu vào sự sống cuối cùng là chiếc thùng đựng nước bằng nhựa
hoá học mà định mệnh của học bập bềnh theo sóng biển vô tình. Hai người
đó là Hiệp và Ngọc, cô bé gái có đôi mắt của con nai bị thương vừa thoát
chết dưới lưỡi hái của tử thần. Tôi nhìn cô bé đầu nghiêng mắt nai, tựa
cằm trên bàn, và đăm đăm nhìn tôi với ánh mắt để đời. Dường như tất cả
tuổi thơ đã bỏ em mà đi. Cô bé chỉ còn lại một khoảng trống rỗng của đời
người. Một chiếc bình hoa tuyệt mỹ đã rơi xuống bên thềm địa ngục và
tan vỡ giữa trần gian.
Đó
là lịch sử của những người chạy trốn nanh vuốt Cộng Sản mà đời gọi họ
là « Thuyền Nhân », và cũng có những người còn mệnh danh họ là kẻ "Chết
Đuối Cho Tự Do". Lịch sử của một dân tộc trong suốt 20 năm trường đã bị
tàn hại dưới nanh vuốt của một thứ chính trị đầy thù hận và kỳ thị của
bất cứ một chế độ Cộng Sản nào.
Michel Tauriac & Hồ Văn Đồng, C/N 2010/10
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire