ĐÀO TIỀM
Đào Tiềm làm rất ít thơ và chỉ
có bài Quy Khứ Lai Từ được xếp vào hàng bất hủ. Nó xiêu việt đến
độ ba chữ “quy khứ lai” (về đi thôi) thường xuất hiện trên bờ môi đầu
lưỡi của những đại thi hào Trung quốc như Lý Bạch, Đỗ Phủ và trở
thành châm ngôn của Tàu và Việt.
Đào
Tiềm (365-427),tự Uyên Minh, thi hào đời Tấn (Lục Triều) nguyên quán nay thuộc
tỉnh Giang Tây. So sánh thời đại: Lý Bạch (701-762), Đỗ Phủ (712-770), Thịnh
Đường. Bạch Cư Dị (772-846)
Trung&Vãn Đường
QUI KHỨ LAI TỪ Bài
ca VỀ ĐI THÔI
Đào
Tiềm Con Cò
Qui khứ lai
hề! Về đi thôi hề!
Điền viên tương vu
hồ bất qui? Ruộng vườn hoang phế sao chưa về?
Ký tự dĩ tâm vi hình dịch Lòng
tự nhủ bản thân phục dịch
Hề trù trướng nhi độc bi?
Cớ sao còn buồn bã sầu bi?
Ngộ dĩ vãng chi bất gián
Quá khứ đã dở dang hề
Tri lai giả chi khả truy
Tương lai vẫn còn bắt kịp.
Thực mê đồ kỳ vị viễn
Lạc đường chưa quá xa hề
Giác kim thị nhi tạc phi
Xưa lỡ lầm nay còn dịp.
Châu dao dao dĩ khinh dương Thuyền
thênh thênh theo gió lướt
Phong phiêu phiêu nhi xuy y
Gió vi vu tà áo bay.
Vấn chinh phu dĩ tiền lộ Hỏi chinh phu đường phía trước
Hận thần quang chi hy vi Tiếc bình minh ánh chưa đầy.
Nãi chiêm hành vũ Thấy mái nhà xưa
Tải hân tải bôn Hân hoan rảo bước
Đồng bộc hoan nghênh Đồng bộc đón chờ
Trĩ tử hầu môn Trẻ thơ cửa trước
Tam kính tựu hoang Lối ngõ hoang sơ
Tùng cúc do tồn Cúc tùng xanh
mướt.
Huề ấu nhập thất Ẵm trẻ vô nhà
Hữu tửu doanh tôn Rượu ngon
canh ngọt
2
Dẫn hồ trường dĩ tự chước Nâng
hồ trường hề tự rót
Miến đình kha dĩ di nhan
Nhìn cây lá mỉm miệng cười.
Y nam song dĩ ký ngạo
Dựa cửa nam hề cao ngạo
Thầm dung tất chi dị an
Nhà chật chội lòng vui tươi
Viên nhật thiệp dĩ thành thú Thú
chơi vườn hề thành thạo
Môn tuy thiết nhi thường quan Cửa
sẵn có luôn then cài.
Sách phù lão dĩ lưu khế
Nương gậy tre hề bước dạo
Thời kiều thủ nhi hà
quan
Ngẩng đầu lên nhìn xa xôi.
Vân vô tâm dĩ xuất tụ
Chim mỏi cánh hề về cội
Điểu quyện phi nhi tri hoàn Mây
lững lờ qua núi khe
Cảnh ế ế dĩ tương nhập
Trời âm u hề xập tối
Phủ cô tùng nhi bàn hoàn Ôm
cây tùng đứng mải mê.
Qui khứ lai hề! Về đi thôi hề!
Thỉnh tức giao dĩ tuyệt du
Không mong giao du với ai
Thế dữ ngã nhi tương vi Ta
và đời nhiều tương phản
Phục giá ngôn hề an cầu?
Chẳng làm gì được nữa rồi.
Duyệt thân thích chi tình thoại Họ
hàng thân thương đàm thoại
Lạc cầm thư dĩ tiêu ưu
Tiêu sầu đàn sách vui chơi
Nông nhân cáo dư dĩ xuân cập Nông
dân thông báo xuân vừa tới
Tương hữu sự ư tây trù
Mùa cấy cày sắp đến nơi.
Hoặc mệnh cân xa Hoặc vời xe lại
Hoặc trạo cô châu Hoặc thả thuyền bơi
Ký yểu điệu dĩ tầm hác
Tìm nơi thâm sâu khe đá
Diệc kỳ khu nhi kinh khâu Hay
chốn gập ghềnh núi đồi
Mộc hân hân dĩ hướng vinh
Trong veo suối nguồn nước chảy
Toàn quyên quyên nhi thủy lưu
Thanh thanh cây cỏ xinh tươi
Thiện vạn vật chi đắc thời
Muôn loài gặp thời thuận lợi
Cảm ngô sanh chi hành hưu
Sinh, làm, hưu hề cảm hoài.
Dĩ hĩ hồ! Ôi vậy sao!
Ngụ hình vũ nội phục kỷ thì?
Hình hài này sống gởi bao lâu?
Hạt bất uỷ tâm nhậm khứ lưu
Sao không lui tới bất kỳ đâu?
Hồ vi hoàng hoàng dục hà chi?
Sao không nhàn hạ còn đi nữa?
3
Phú qúi
phi ngô nguyện Phú quí không thèm lựa
Đế hương bất khả kỳ Thiên đường chẳng
cầu mong.
Hoài lương thần dĩ cô vãng
Sáng đẹp một mình tản bộ
Hoặc thực trượng nhi vân ti Khuôn viên cây cỏ vun trồng
Đăng đông cao dĩ thư khiếu
Trèo lên đồi cao ca hát
Lâm thanh lưu dĩ phú thi
Vịnh thơ bên dòng nước trong
Liêu thừa hóa dĩ qui tận Thuận tử sinh về cõi
diệt
Lạc phù thiên mệnh phục hề nghi? Vui
theo thiên mệnh há ngại ngùng?
Tác
giả dùng 46 giới tự: dĩ, nhi, hà, chi, hề, ư. Bài dịch dùng
11 chữ hề. Khứ lai: đi
và lại. Từ: lời văn, bài ca. Tương: sắp, sẽ. Vu: bỏ hoang. Hồ: sao? chẳng?
Ký: đã xong. Tự: tự thân mình.
Dĩ: lấy, dùng. Vi: làm. Hình: hình thể, cái hiện ra ngoài. Dịch: sai làm việc (phục dịch). Trù trướng: buồn rầu. Nhi: mà, lời nói chuyển sang ý khác. Ngộ: thấu hiểu. Gián: can gián. Giả: học
giả. Truy: đuổi theo, kịp. Giác: biết, giác ngộ. Thị: phải,(trái với phi). Tạc: hôm qua. Dao: lay động. Khinh: nhẹ.(ngược
với trọng). Dương: gió bay tốc lên. Phiêu phiêu: gió thổi nhẹ. Xuy: gió thổi. Hy: tang tảng sáng. Vi:
nhỏ. Nãi: trợ từ. Chiêm: xem, ngẩng mặt lên mà nhìn. Vũ: mái
nhà. Tải: chở. Đồng bộc: gia nhân, đầy tớ. Trĩ tử: con trẻ. Hầu: chờ chực. Kính: lối
tắt. Tựu: sự đã nên. Hoang: ruộng bỏ hoang. Do: giống như, còn. Tồn: còn (ngược với vong). Doanh: đầy đủ. Tôn: chén uống rượu. Dẫn: dương cung lên, dẫn đến. Hồ: bình đựng rượu. Miến: trông, liếc. Đình: sân
trước. Kha: cành cây. Di: vui vẻ, dễ dàng. Y=Ỷ: dựa vào. Song: cửa sổ. Dung: tiếp
nhận bao bọc. Tất: đầu
gối. Dung tất: nhà chật hẹp. Viên: vườn hoa. Thiệp: lội qua nước, trải qua. Thiết: đặt
bày ra. Quan: đóng cửa. Sách: kế sách. Phù: cây gậy. Lưu: nước
chẩy, chuyển động. Khế: nghỉ ngơi. Thời: thường. Kiều thủ: ngẩng đầu lên nhìn. Hà:
xa, hà phương. Quan: quan sát. Tụ: hang, khe núi. Quyện: mỏi mệt. Ế ế: trời
âm u. Phủ: vỗ về. Bàn hoàn: không dứt ra được. Thỉnh: cầu mong. Tức: thôi, nghỉ. Dữ: cùng
với. Vi: lìa ra, trái ngược. Phục: đáp lại, lại lần nữa. Giá: tiến hành. Ngô: tôi. An: ở đó, há, sao,
vậy…trợ từ dùng dứt câu. Duyệt: hài
lòng. Thoại: nói chuyện. Dư: ta. Ư: ở, chưng, trợ từ. Trù :ruộng
cấy lúa. Mệnh: sai bảo. Cân: khăn tay đội đầu. Cân xa: xe có mui. Trạo châu: chèo thuyền.Yểu điệu:
sâu thẳm. Hác: khe nước ở chân núi. Diệc: cũng, cũng theo. Kỳ khu: đường khấp khểnh. Kinh
khâu: gò đất. Hân hân: vui vẻ. Vinh: cây
cỏ tốt tươi. Toàn: suối, nguồn nước. Quyên quyên: dòng nước nhỏ trong sạch.
Thủy: mới, bắt đầu. Cảm: cảm khái. Ngô=ngã: ta. Sanh. Hành, hưu: lúc sinh ra, làm việc
và nghỉ hưu. Ngụ: nhờ, ở đậu. Vũ nội: vũ trụ. Năng: tài năng. Kỷ: bao
nhiêu. Hạt: sao? chẳng? Ủy: uỷ thác. Nhậm: gánh vác. Hoàng: nghỉ
thư nhàn. Dục: muốn. Hà chi: đi đâu? Đế hương: quê nhà Trời, thiên đường. Kỳ: trông mong. Hoài: nhớ
trong lòng. Lương: tốt lành. Thần: buổi sáng sớm. Vãng: đã qua. Thực: trồng cây, cắm. Trượng:
cây gậy. Đăng: trèo lên cao. Thư: thư dãn, nhàn. Khiếu: kêu, hát to. Thanh lư:
dòng nước trong. Liêu: hãy. Thừa: cỡi xe. Hóa: thay đổi tự nhiên. Thừa
hóa dĩ quy tận: nhân cái chết đến do luật tạo hóa. Phù: giúp. Nghi: ngờ.
Lời bàn của
ConCò:
Bài thơ này
là một kiệt tác.
Tác gỉa
dùng 46 giới từ (những từ vô nghĩa, chỉ̀ giúp cho âm hưởng của câu thơ):
dĩ nhi, hà, chi, hề, ư; bài dịch dùng11 chữ hề (một giới từ rất thông dụng
trong thơ Việt), giữ nguyên thể cổ
phong và số chữ trong câu để dễ mượn cái âm hưởng của bài thơ.Ý của
từng câu được tôn trọng. Ngôn từ được lựa chọn tương ứng với ngôn từ
của nguyên bản. Một vàì từ giữ nguyên không dịch̀ vì nó đã được
Việt hóa ( thí dụ: thiên mệnh đáng lẽ nên dịch là mệnh trời) cũng
vì âm hưởng của câu thơ.
Đọc thêm bài sưu tầm trên net
歸去來辭 - QUY KHỨ LAI TỪ - ĐÀO TIỀM
歸去來辭 - QUY KHỨ LAI TỪ - ĐÀO TIỀM
10/01/2008 | |
歸去來兮,田園將蕪,胡不歸!
既自以心為形役,奚惆悵而獨悲? 悟已往之不諫,知來者可追。 實迷途其未遠,覺今是而昨非。
舟遙遙以輕颺,風飄飄而吹衣。
問征夫以前路,恨晨光之熹微。 乃瞻衡宇,載欣載奔。 僮僕歡迎,稚子候門。 三徑就荒,松菊猶存。 攜幼入室,有酒盈樽。 引壺觴以自酌,眄庭柯以怡顏。 倚南窗以寄傲,審容膝之易安。 園日涉以成趣,門雖設而常關。 策扶老以流憩,時矯首而遊觀。 雲無心以出岫,鳥倦飛而知還。 景翳翳以將入,撫孤松而盤桓。
歸去來兮,請息交以絕遊。
世與我而相違,復駕言兮焉求? 悅親戚之情話,樂琴書以消憂。 農人告余以春及,將有事於西疇。 或命巾車,或棹孤舟。 既窈窕以尋壑,亦崎嶇而經丘。 木欣欣以向榮,泉涓涓而始流。 羨萬物之得時,感吾生之行休。
已矣乎!
寓形宇內復幾時,曷不委心任去留? 胡為遑遑,欲何之? 富貴非吾願,帝鄉不可期。 懷良辰以孤往,或植杖而耘耔。 登東皋以舒嘯,臨清流而賦詩。 聊乘化以歸盡,樂夫天命復奚疑!
Phiên âm
Quy khứ lai hề, điền viên tương vu, hồ bất quy!
Ký tự dĩ tâm vi hình dịch, hề trù trướng nhi độc bi ? Ngộ dĩ vãng chi bất gián, tri lai giả khả truy. Thực mê đồ kỳ vị viễn, giác kim thị nhi tạc phi.
Chu dao dao dĩ khinh dương, phong phiêu phiêu nhi xuy y.
Vấn chinh phu dĩ tiền lộ, hận thần quang chi hy vi. Nãi chiêm hành vũ, tái hân tái bôn. Đồng bộc hoan nghinh, trĩ tử hậu môn. Tam kính tựu hoang, tùng cúc do tồn. Huề ấu nhập thất, hữu tửu doanh tôn. Dẫn hồ trường dĩ tự chước, miện đình kha dĩ di nhan. Ỷ nam song dĩ ký ngạo, thẩm dung tất chi dị an. Viên nhật thiệp dĩ thành thú, môn tuy thiết nhi thường quan. Sách phù lão dĩ lưu khế, thời kiểu thủ nhi du quan. Vân vô tâm dĩ xuất tụ, điểu quyện phi nhi tri hoàn. Cảnh ế ế dĩ tương nhập, phủ cô tùng nhi bàn hoàn.
Quy khứ lai hề, thỉnh tức giao dĩ tuyệt du.
Thế dữ ngã nhi tương vi, phục giá ngôn hề yên cầu ? Duyệt thân thích chi tình thoại, lạc cầm thư dĩ tiêu ưu. Nông nhân cáo dư dĩ xuân cập, tương hữu sự ư tây trù. Hoặc mệnh cân xa, hoặc trạo cô chu. Ký yểu điệu dĩ tầm hác, diệc khi khu nhi kinh khâu. Mộc hân hân dĩ hướng vinh, tuyền quyên quyên nhi thuỷ lưu. Tiện vạn vật chi đắc thời, cảm ngô sinh chi hành hưu.
Dĩ hĩ hồ!
Ngụ hình vũ nội phục kỷ thời, hạt bất uỷ tâm nhiệm khứ lưu ?
Hồ vi hoàng hoàng, dục hà chi ? Phú quý phi ngô nguyện, đế hương bất khả kỳ. Hoài lương thần dĩ cô vãng, hoặc thực trượng nhi vân tỷ. Đăng đông cao dĩ thư khiếu, lâm thanh lưu nhi phú thi. Liêu thừa hoá dĩ quy tận, lạc phù thiên mệnh phục hề nghi ?
Dịch thơ ( Trần Trọng San )
Về đi thôi hề, ruộng vườn sắp hoang vu, sao không về ?
Đã tự đem lòng cho hình sai khiến, sao còn một mình buồn bã, đau thương ? Hiểu dĩ vãng không can nổi, biết tương lai có thể theo. Chưa thực đi xa trên đường mê, thấy hôm nay phải còn hôm qua trái.
Thuyền phơi phới nhẹ đưa, gió hiu hiu thổi áo.
Hỏi khách chinh phu về con đường phía trước, giận ánh sáng ban mai còn mờ nhạt. Rồi trông thấy nhà, vui tươi rong ruổi. Tiểu đồng ra chào mừng, trẻ nhỏ đợi ngoài cổng. Ra lối nhỏ đến vườn hoang, tùng cúc vẫn còn đây. Dắt con vào nhà, có rượu đầy ly. Cầm nậm bối tự chuốc, ngắm cây sân, mặt vui. Dựa cửa sổ nam, lòng phóng khoáng, thấy nơi chật hẹp dễ an nhàn. Ngày ngày dạo qua vườn rồi thành thú, cửa tuy có đặt nhưng thường đóng. Chống cây gậy thơ thẩn nghỉ ngơi, thường ngẩng đầu trông ra phía xa. Mây vô tâm bay ra hang núi, chim bay mỏi biết quay trở về. Cảnh mờ mờ sắp vào trong bóng đêm, vỗ cây tùng lẻ loi lòng bồi hồi.
Về đi thôi hề, hãy đoạn tuyệt giao du.
Đời đã cùng ta lìa bỏ nhau, còn dùng lời suông hề cầu chi nữa ? Ưa lời nói chứa chan tình cảm của người thân thích, vui với cây đàn, cuốn sách để khuây lo. Nhà nông bảo ta mùa xuân đến, sắp có việc làm tại cánh đồng tây. Hoặc đi chiếc xe giăng màn, hoặc chèo con thuyền lẻ loi. Đã len lỏi tìm khe suối, lại gập ghềnh đi qua gò. Cây hớn hở hướng đến màu tươi, suối êm đềm bắt đầu trôi chảy. Ngợi khen cho muôn vật đặc thời, cảm khái đời ta xưa làm nay nghỉ.
Thôi hết rồi!
Gửi hình trong vũ trụ được bao lâu, sao không thả lòng mặc ý ở đi ?
Tại sao còn thắc mắc, muốn đi đâu ? Giàu sang chẳng phải điều ta nguyện, chốn đế hương không thể ước ao. Nghĩ buổi sáng đẹp trời một mình dạo chơi, hay dùng gậy làm cỏ vun mạ. Lên bãi đông, ngâm nga thư sướng, đến dòng suối trong làm bài thơ. Hãy thuận theo sự biến hoá của âm dương mà về chốn tận cùng, vui mệnh trời, còn nghi ngờ chi ? |
http://www.tuhai.com.vn/news/index.php?option=com_content&task=view&id=470&Itemid=88
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire