Kính gửi quý anh chị bài viết của tác giả Văn Nguyên Dưỡng kỳ 1 Tản Mạn Về Cung Trầm Tưởng.
Caroline Thanh Hương
Quý anh chị có thể tìm đọc lại bài đã post những lần trước đây khi clic vào đường dẫn bên dưới
TẢN MẠN VỀ CUNG TRẦM TƯỞNG (KỲ 1) của tác giả Văn Nguyên Dưỡng.
link trọn bài trong pdf
TẢN MẠN VỀ CUNG TRẦM TƯỞNG (KỲ 1) của tác giả Văn Nguyên Dưỡng, pdf
"TẢN MẠN VỀ CUNG TRẦM TƯỞNG của tác giả "VĂN NGUYÊN DƯỠNG (KỲ 2/4).
TẢN MẠN VỀ CUNG TRẦM TƯỞNG VĂN NGUYÊN DƯỠNG (KỲ 3/4)
TẢN MẠN VỀ CUNG TRẦM TƯỞNG Ky`4/4 cho't của tác giả Văn Nguyên Dưỡng.
Link trọn bài trong pdf
TẢN MẠN VỀ CUNG TRẦM TƯỞNG Ky`4/4 cho't của tác giả Văn Nguyên Dưỡng pdf
với những vần thơ Cung Trầm Tưởng phổ nhạc
( Mùa Thu Paris /Mùa Thu Không Trở Lại /Tiễn Em /Kiếp Sau )
LTS: Cuối
năm, Toà soạn xin gởi đến quý độc giả một bài viết về Văn Học, Học Thuật, tác
giả là Huynh Trưởng của chúng tôi, năm nay đã trên 80 tuổi, nhưng Ông vẫn
còn tráng kiện và muốn đóng góp một chút gì“ cho nền Văn Học tại Hải Ngoại…
Bài viết
được chia làm bốn (4) kỳ. Xin mời quý độc giả thưởng lãm và theo dõi.
TẢN MẠN VỀ CUNG TRẦM TƯỞNG
NHÀ THƠ LỚN CỦA NHÂN LOẠI
QUA “MỘT HÀNH TRÌNH THƠ” VÀ VĂN HỌC VIỆTNAM
VĂN NGUYÊN
DƯỠNG
(KỲ 1/4)
Đầu tháng sáu, tôi khởi đọc tập thơ của Cung Trầm
Tưởng do Tủ Sách Tiếng Quê Hương xuất bản trong năm. Nhà thơ gửi tặng.
Kèm theo là bài viết của ông về pho sách Nhân Văn Giai Phẩm Và Vấn
Đề Nguyễn Ái Quốc của nhà biên khảo văn học Thuỵ Khuê. Cuối tháng
sáu còn đọc. Tôi biết sẽ còn đọc nhiều lần nữa trong nhiều ngày
nhiều tuần nhiều tháng nữa. Tập thơ là một hành trình và là một
công trình kiến tạo độc nhất vô nhị của một nhà thơ làm tôi suy
nghĩ, thao thức, trằn trọc từng đêm của một tuần, hai tuần, ba tuần
và sẽ còn làm tôi thức ngủ chập chờn bao đêm nữa trong bao lâu nữa
nếu tôi không bỏ giấc, ngồi dậy mà gõ vào các nốt chữ của chiếc
laptop hình như cũng thôi thúc chờ tôi gõ, gõ gì đó, về chữ và chất
của thơ Cung Trầm Tưởng. Gõ chữ ray rứt không là gõ những nốt nhạc
quyến rũ của một Beethoven, một Chopin, một Stravinsky, hay một Dương
Thiệu Tước. Tôi chưa từng viết bình luận hay khảo luận về một tác
phẩm văn chương bất cứ thuộc thể loại nào, nhất là thi ca. Thôi, chỉ
viết tản mạn, và chỉ có vậy thôi.
Khi đọc bài viết của Cung Trầm Tưởng về pho
sách của Thụy Khuê, nhất là tập thơ toàn-tập độc đáo của Cung, tôi
muốn suy nghĩ chín chắn về một ngôi nhà văn học Việt Nam thực sự
trang trọng. Cầm quyển thơ đẹp trong tay --bìa cứng, giấy tốt, trang
nhã với hơn mười phụ bản tranh màu của các họa sĩ nổi tiếng hiện
đại-- trở qua trở lại, mở ra xếp vào, tôi tự nhủ: phải rồi, phải
như vậy, phải có những người làm văn học nghệ thuật chân chính --như
các nhà chủ trương TSTQH-- khi xuất bản tập thơ của Cung đã biết đang
trải thảm chính thức mời nhà thơ nầy vào ngôi nhà đó, vào khung
trời văn học vòi vọi hơn, và dành riêng cho ông một toạ độ chính xác
như buổi sáng người ta nhìn thấy ngôi sao mai và buổi tối nhìn thấy
ngôi sao hôm trên vòm trời xa xa của vô tận. Hai ngôi sao đó chỉ là một
mà đầu hôm thấy, sáng mai thấy, tự nó có một toạ độ trường cửu, ai
gọi là sao mai cũng được, sao hôm cũng hay, vì mỗi người đứng ở mỗi
góc nhìn khác nhau, ở thời điểm khác nhau.
Thoạt nhìn vào bản văn viết về pho sách của Thuỵ
Khuê tôi đã thấy ngay Cung Trầm Tưởng là chữ, tập thơ cũng là chữ.
Những chữ vô cùng mềm mại, mượt mà của loại cốt mìn dữ dội nhất,
hay những từ mang thức cá tính, ngôn tính, sử tính và thi tính
thần tình như lối ảo hoạ vũ bút của một Trương Tam Phong, mềm mại,
nhẹ nhàng, uyển chuyển, nhưng có sức mạnh ẩn tàng chuyển núi dời
non. Hay cứ nói lượt qua là tôi chưa hề nhìn thấy một lối ngôn ngữ
thi ca nào vừa bay bướm vừa quyết liệt như thế trong văn chương hay
trong các tác phẩm thi ca Viêt Nam từ trước. Lối chữ mang tính lưỡng
trạng (the sort of binary opposition) nầy là thứ mà giáo sư triết gia
cũng là chưởng giáo khoa phê bình văn học và triết học người Pháp,
Jacques Derrida, cha đẻ của lý luận văn học Hậu Cấu Trúc Luận và
phương pháp phê bình “Phân Tạo Thức”, Post-Structuralism, Deconstruction
--mà Tiến Sĩ Nguyễn Minh Triết hay nhà văn Lưu Nguyễn Từ Thức gọi là
“Huỷ Tạo” Hậu Kiến Trúc Luận (1)-- đang đốt đuốc đi tìm trong đêm tối
văn học thế giới từ mấy thập niên qua. Chữ văn xuôi (prose) của Cung
đáng nói, chữ thi ca (poésie) của Cung càng đáng nói hơn.
Xin nêu một vài chữ trong bản văn viết về pho sách
của Thuỵ Khuê trước.
Trong bản văn nầy CTT có nêu một câu Pháp văn mà
nhà phê bình kiêm lý thuyết gia phê bình văn học Pháp Roland Barthes
(1918-1980) đã viết: “c’est le frisson du sens que j’interroge en écoutant
le bruissement du langage,” mà Cung dịch ra Việt ngữ “qua nghe tiếng lao
xao của cõi chữ, tôi hỏi về cái dợn mình của nghĩa.”
Hai chữ khá khác thường trong câu dịch này
mà chúng tôi muốn nói đến là các chữ “lao xao” và “cõi’. Chữ trước
“lao xao”, hình dung từ kép, cũ, thường dùng, thuộc thể động, nói lên
cái chất của tiếng động nhẹ và đều đều như tiếng lá rung rinh theo
cơn gió thoảng, đã trở thành mới mẻ khi nói về cõi chữ. Chữ sau,
“cõi”. Cõi là danh từ nếu đứng riêng một mình --thí dụ như
trong câu “một mình một cõi”-- nhưng khi dùng chung với một danh từ
khác muốn chỉ định thì nó trở thành trợ từ (article) thuộc thể
tĩnh. Tôi nói thể tĩnh vì “cõi” thường chỉ một vùng vô cùng rộng
lớn nên cái động trong ấy trở thành li ti như hạt cát trên sa mạc khi
lặng gió. Thực vậy, “cõi” thường đứng trước một danh từ nói về một
trong các vùng vĩ mô như cõi trời là thiên đường, cõi đất là trần
gian, cõi chết là địa ngục, hay cõi mộng là mông lung. Nhưng “cõi
chữ” thì thật là thần tình, chưa từng nghe thấy trong văn viết hay văn
nói. Sự tương phản của động và tĩnh như là sự giao thoa của âm dương
làm chất sống hữu thể hay vô mục trong vạn vật sinh sôi, nẩy nở, vận
chuyển và huỷ vong, lặp đi lặp lại, như thuyết luân hồi hay thuyết
hoá thân theo quan niệm triết học Đông phương của Thích, của Lão. Động
tính hoá chữ của Cung tài tình, sống động, bay bướm như thứ langue
vivante Pháp ngữ hay Anh ngữ hơn là langue morte Việt ngữ, mặc dù
tiếng mẹ đẻ của chúng ta đã vô cùng phong phú. Cung Trầm Tưởng châm
chữ vào phong phú chữ cho văn thêm phong phú như một đại danh hoạ điểm
màu lên tinh tuý màu cho tranh thêm tinh tuý. Barthes viết các quyển
sách lý thuyết văn học –Literary Theory- với lối dùng từ hoa mỹ nhưng
câu cú mực thước, nên không mang phong thái bay bướm của một tay
bút thuộc trường phái tự nhiên --naturalisme-- như một Emile Zola
(1840-1902, nhà văn Pháp). Barthes muốn tô đẹp chữ cho cõi chữ, nhưng
đã để lộ chân tướng của một tay bút thuộc trường phái hiện thực
–réalisme-- khi viết câu trên, vì đã đóng khung câu văn quá chặt
chẽ trong qui tắc văn phạm. Mở đầu, ông dùng pronom démonstratif
“ce…que” bó động từ “être” vào giữa mà văn phạm của ngôn ngữ Pháp
bắt buộc; “est” --troisième personne du singulier, temps Présent, mode
Indicatif của động từ être-- phải nằm trong khung của “ce que” trở
thành “c’est … que”. Các đại danh từ ce qui, ce que, ce dont, ce à quoi
là lối viết rất duy luận mà các nhà văn trường phái hiện thực
thường dùng, giúp cho tứ văn rõ ràng hơn, nhưng cũng làm câu văn thực
hơn, nên nặng hơn. Chữ dùng của Barthes bóng bảy, như “le bruissement du
langage”, nhưng Barthes muốn nhấn mạnh ý của mình nên mới dùng đến
“c’est...que”. Và như vậy phải đảo ngược câu văn mà thành ra mất tự
nhiên. Hình như Cung nhìn thấy điều này nên khi dịch đã bỏ hai đại
danh từ chỉ định đó, nhờ
vậy câu dịch của CTT mang chất lênh đênh phiêu hốt
như của một nhà văn thuộc trường phái tự nhiên. Cung dùng chữ “qua”
nghe nhẹ nhàng thanh thoát, người đọc cảm thấy câu văn không bị gò bó
theo lối dịch chắc nịch, sát từng chữ, thí dụ như: “chính vì...
nên...,” quá ư la đà.
Chữ thứ ba khá khác thường Cung Trầm Tưởng
viết trong bản văn NVGP & VĐNAQ của Thuỵ Khuê mà chúng tôi ghi nhận
là chữ “quả”. Thông thường ai cũng nghe người miền Bắc nói quả cam,
quả quít, quả chanh mà người miền Nam gọi là trái cam, trái quít,
trái chanh. Quả là trái. Quả hay trái lớn nhất là quả đất hay trái
đất, ngôi nhà chung của chúng ta. Những loại nhỏ hơn quả là hạt, như:
hạt tiêu, hạt đậu, hạt thóc hay hột tiêu, hột đậu, hột thóc. Tất cả
các loại quả và hạt đều hữu hình, trừ hạt nhân --nhiều người viết
hạch nhân-- phải nhờ đến các nhà khoa học nguyên tử chỉ giùm cho. Xin
nhớ hạt nhân chớ không phải hột nhân. Cái khó và cái khôn của Việt
ngữ nằm trong cách dùng chữ. Trong bản văn này, Cung dùng chữ quả
chỉ một loại quả --không phải là trái-- không cân đo được, vô khối
lượng, vô hình dung, vậy mà đọc xong ai cũng hiểu nó đen hơn mực tàu,
đỏ hơn máu heo, cao hơn Hi Mã Lạp Sơn và rộng hơn Thái Bình Dương. Đó
là “quả lừa”. Quả lừa vĩ đại của Hồ Chí Minh. Quả lừa thì thật
hết ý. Chữ nghĩa như thế trong văn xuôi CTT dù chỉ trong bản văn không
hơn mười trang mà lắm lần tôi phải đọc đi đọc lại. Còn trong tập thơ
CTT-MHTT những chữ độc đáo giông giống như vậy quá nhiều. Chúng tôi
chưa đọc hết, đếm hết, chưa nói được. Chỉ có thể nói chữ của Cung
thì khó, chữ mới hoặc chữ cũ ý mới. Đọc thấy thâm thấm, như say
men. Nếu đi sâu vào “cõi chữ” thi ca của Cung, ta sẽ thấy “chữ” và
“chất” thơ của ông sẽ làm ta suy nghĩ chín chắn hơn khi nói ông là
một nhà thơ có phong thái viết của một tác giả học phái tự nhiên.
Không dễ dàng như vậy đâu. Muốn viết về thi ca CTT, phải đọc và nghiên
cứu có phương pháp chớ không thể nói lượt qua như trên. Thực ra, có
thể viết nhiều hơn về CTT, nếu dựa vào một, hai, hay ba, lý thuyết
phê bình văn học hiện đại --Modern Literary Theory-- như Hình Thái Luận
hay Hình Thức Luận (Formalism), Hiện Tượng Luận gồm cả Giải Dịch
Luận và Thụ Cảm Luận (Phenomenology, Hermeneutics and Reception Theory),
Cấu Trúc Luận và Ký Hiệu Thức (Structuralism and Semiotics), Hậu Cấu
Trúc Luận dựa trên Phân Tạo Thức, hay phương pháp tháo ra lắp lại
Deconstruction (Post-Structuralism based on Deconstructive Operations), Phân
Tâm Luận (Psychoanalytic Criticism), Mác Luận (Marxist Criticism), Hậu
Hiện Đại Luận (Post-Modernism), Tân Phê Bình Luận (New Criticism), Tân Sử
Luận (New Historicism), hoặc Văn Hoá Thực Trạng Luận (Cultural
Materialism) và ...còn nữa. (2)
Nhân nói về các luận phái phê bình văn học,
chúng tôi xin đề cập thêm về Roland Barthes (1915-1980), một trong các
lý thuyết gia và là nhà phê bình văn học lừng lẫy mà chúng ta đã
biết sơ qua ở trên, về tính cách tương phản trong tư tưởng của Barthes.
Nghiệm chứng cho thấy Barthes là một trong hai học giả Pháp (ông kia
là nhà Nhân Chủng học Claude Lévi- Strauss) cha đẻ của lý thuyết phê
bình Cấu Trúc Luận sau đó lại trở thành một trong hai lý thuyết gia
khai sáng lý thuyết Hậu Cấu Trúc Luận vừa là nhà phê bình đã áp
dụng phương pháp Phân Tạo Thức để phê bình văn học, (vị thứ hai là
triết gia Jacques Derrida). Lý thuyết Hậu Cấu Trúc Luận là một phản thuyết
--an antithesis-- chống lại Cấu Trúc Luận quyết liệt. Hay nói cách
khác, các nhà hậu cấu trúc luận chống các nhà cấu trúc luận dữ
dội vì hai luận phái nầy có hai học thuyết tương phản nhau trên nhiều
mặt. Chỉ riêng về mặt ngôn ngữ --“sign”-- hai luận thuyết trên như lửa
và nước.
Xin ghi lại nguyên văn một đoạn viết về sự khác
biệt nầy trong quyển “Beginning Theory” (Manchester University Press,1995)
của Giáo sư Peter Barry, thuộc Đại học Wales, Aberystwyth:
“3. Attitude to language. Structuralists
accept that the world is constructed through language, in the sense that we do
not have access to reality other than through the linguistic medium. All the same,
it decides to live with that fact and continue to use language to think and
perceive with. After all, language is an orderly system, not a chaotic one, so
realising our dependence upon it need not induce intellectual despair.
By contrast, post-structuralism is much more
fundamentalist in insisting upon the consequences of the view that, in effect,
reality itself is textual. Post-structuralism develops what threaten to become
terminal anxieties about the possibility of achieving any knowledge
through language. The verbal sign, in its view, is constantly floating free of
the concept it is supposed to designate. Thus, the post-structuralist’s way of
speaking about language involves a rather obsessive imagery based on liquids
–signs float free of what they designate, meanings are fluid, and subject to
constant ‘slippage’ or ‘spillage’. This linguistic liquid, slopping about and
swilling over unpredictably, defies our attempts to carry signification
carefully from ‘giver’ to ‘receiver’ in the containers we call words.”(3)
Ở đây tôi xin miễn dịch hai nhận xét của Giáo sư
Peter Barry ghi trên về sự nghịch biện của hai luận phái phê bình văn
học Cấu Trúc Luận và Hậu Cấu Trúc Luận riêng trong phạm trù ngôn
ngữ, và đó là sự nghịch biện thứ ba trong bốn nghịch biện chính
giữa hai luận phái nầy. Dẫn trích này mang đủ tính chất để giải
thích chữ nghĩa của Roland Barthes đồng thời cũng nói lên được tầm
quan trọng về chữ nghĩa trong văn và thơ của Cung Trầm Tưởng. Về
Roland Barthes, thoạt tiên, ông cũng như Claude Lévi-Strauss, đã áp dụng
Ký Hiệu Thức [Semiotics] của nhà ngôn ngữ học Thuỵ Sĩ Ferdinand
de Saussure (1857-1913) khai sáng-- coi ngôn ngữ [sign hay language] đạt
đến tuyệt đỉnh của nó như Giáo sư Peter Berry ghi nhận “những nhà
kiến trúc luận chấp nhận vũ trụ được kiến tạo qua ngôn ngữ” như
trích-đoạn ở trên [‘’structuralists accept that the world is constructed
through language...”] và đóng khung nó vào mực thước trong phê bình
văn và thơ của người khác, cũng áp dụng nó ngay cả trong cách hành
văn của mình, mực thước, quy củ, vì “suy cho cùng ngôn ngữ là một hệ
thống trật tự, không phải là thứ hệ thống rối rắm” [“after all,
language is an orderly system, not a chaotic one...’’ Sau đó ít
lâu, chính Barthes đã chán ngán về những gì mà ông đã khai phóng, nhất
là khuôn mẫu trong “ngôn ngữ”, và thấy nó, vào một thời
điểm nào đó, đã không còn đúng nữa, cần phá bỏ nó đi. Thực
vậy, chính ông thấy “chữ” và “nghĩa” [“signifier” and “signified”] mà môn lý thuyết phê bình
văn học coi là hai thành phần của “ngôn ngữ” được gọi là “sign” hay
“signs”, tức là những từ quy ước [conventional words] đã mất dần nguyên tính mà
trở thành “linguistic liquid” --ngôn ngữ chất lỏng-- “signs
float free of what they designate, meanings are fluid, and subject to
constant ‘slippage’ or ‘spillage.’” Hai chữ sau được Giáo sư
Peter Barry Pháp hoá nhưng cũng không khó hiểu. Ngôn ngữ chất lỏng
có nghĩa là nếu rót vào chai vuông, chai tròn, ly, tách, chum, vại,
lu, hũ, cũng được; đổ xuống suối thành nước suối, đổ vào sông thành
nước sông, đổ ra biển thành nước biển, bốc lên trời thành mây, thành
mưa. “Nghĩa” [signified hay signifieds] của ngôn ngữ [sign or signs] luôn
thay đổi khi “chữ” [signifier or signifiers] dùng trong các trường hợp
khác nhau. Có nghĩa là một “chữ” hay một nhóm chữ mang rất nhiều
“nghĩa” khi tác giả viết trong trường hợp nầy hay trong trường hợp
khác. Độc giả hiểu ngôn từ của tác phẩm theo cách riêng của mỗi
người. Chính Roland Barthes cũng cho rằng tính chất của sự mượt mà
hay lợn cợn của ngôn ngữ văn chương không còn nằm trong cách dụng từ
của người sử dụng nó --hay tác giả-- mà ở trong tầm mắt của người
đọc hay thính giác của người nghe –độc giả hay thính giả. Barthes mang
cá tính lưỡng lập, hay một biaxe théoricien. Có lẽ ông đã trăn
trở và tự đập phá mình rồi tự lập lại. Lạ thay, tính lưỡng lập (biaxial
character hoặc binary opposition) nầy là đặc tính của Ký Hiệu Thức [Semiotics]
mà các nhà Cấu Trúc Luận và cả Hậu Cấu Trúc Luận đều lấy làm căn
bản cho luận thuyết dù có những quan điểm khác nhau như đã trình bày
ở trên. Một nhà văn hay nhà thơ tân học ý thức rõ tầm quan
trọng của ký hiệu thức mà sử dụng ngôn từ sống động hơn tự đó đã
làm cuộc cách mạng văn học. Chúng tôi cho rằng Cung Trầm Tưởng là một
trong những nhà thơ của lớp trí thức mới này. Xin hiểu chữ tân
học không phài là chữ tôi muốn dùng để chỉ những nhà văn thơ
trong thế hệ tân học đem tư tưởng và học thuật từ nước ngoài về và
dùng quốc ngữ trong văn chương Việt Nam trước năm 1945, nhất là các nhà
khoa bảng xuất thân từ Pháp và Âu Châu, mà để chỉ lớp văn thi sĩ
hiện đại cảm nhận và thấu triệt tư tưởng đại đồng của nền văn học
thế giới đang rộng mở.
Chúng tôi nhân sự kiện tập thơ CTT-MHTT ra
mắt, nói về Cung và thời đại của ông, mà còn đề cập đến một khả năng
tất yếu mong đóng góp một ý kiến thật nhỏ xây dựng nền văn học cho
hiện tại và tương lai mà mọi người Việt Nam đều muốn kiện toàn. Thử
nghĩ, chỉ một câu văn của Barthes như trên đã tạo được ảnh hưởng đặc
biệt riêng cho từng độc giả, như CTT và tôi chẳng hạn, hẳn là một
áng văn như Tội Lỗi và Hình Phạt -Crime and Châtiment- của một Fédor
Dostoievski (1822-1881, đại văn hào Nga), một kịch phẩm như Hamlet hay
Macbeth của một William Shakespeare (1564-1612, đại thi hào & kịch tác gia Anh) đã gây ảnh hưởng tốt đẹp
và lớn lao cho nền văn học của một nước Nga hay một nước Anh như thế nào. Tuy nhiên, dù
các tác phẩm văn học có tuyệt tác đến mấy mà không qua sự giới thiệu
hay phê bình của những nhà bình luận hay phê bình văn học thì
độc giả không nhiều và tiếng tăm không vang dội, ảnh hưởng văn học
cũng hạn chế. Vì vậy, ở các nước có nền học thuật tân tiến --nhất
là ở Âu Châu-- như Pháp, Nga, Đức, Anh, ngoài những trường phái sáng
tác văn chương của ba thế kỷ XVII, XVIII, XIX, và đầu thế kỷ XX,
trong năm thập niên sau của thế kỷ này các học giả, triết gia, nhà
văn, nhà giáo, nhà bình luận văn học của các quốc gia nầy đã sáng
lập những luận phái phê bình với những hệ lý thuyết phê bình văn
học mà tôi đề cập một phần nhỏ ở trên --dù mỗi luận phái có những
quan điểm và phương pháp riêng về phê bình trong lý thuyết-nhìn chung,
đã đóng góp lớn lao cho sự phát triển học thuật từ văn chương, hội
hoạ, triết lý, đến kiến trúc, kể cả nghệ thuật tạo hình dạng lẫn
tri thức cho một xã hội lớn mạnh về vật chất lẫn tâm linh, nên hiện
nay dường như trong các xã hội đó khoa học và tôn giáo đã phải
nhường bước văn học. Trong năm thập niên đó, nếp sống trí não và tâm
thức trỗi dậy mạnh mẽ hơn trong lớp người bình dân và trung lưu, phụ
nữ, da màu và thuộc địa nhất là vùng Châu Mỹ. Từ trong nhà ra mọi
ngõ, sách vở, báo chí, tập san, tập thơ, các quyển tiểu
thuyết theo với độc giả trung lưu và bình dân trên máy bay, tàu thuỷ,
tàu hoả, xe điện, xe bus; trong lều, bạt của các nhà thám hiểm; trong
hành lý hay sách tay của những nhà du lịch. Đó là điều các nhà tân
luận về các lý thuyết phê bình văn học hầu hết các luận phái đều
quan tâm. Riêng về văn học, như đã nói, tác phẩm tự nó không có nghĩa
gì cả nếu không có độc giả. Nhà phê bình là một độc giả đặc biệt
hơn vì có phương pháp đọc và phương pháp nghiên cứu, phân tích và lối
viết khoa học theo lý thuyết các luận phái tân học thì mới giúp
được cho các độc giả không chuyên nhìn thấy hết vẻ đẹp của văn bản
(text) hay tác phẩm (work) kể cả chữ (hay ký hiệu diễn đạt
--signifier) và chất (nghĩa --signified--hay nội dung) hàm chứa sự phát
triển thầm lặng của tri thức nhân loại --the silent working of the mind
in the development of secular humanism-- từ đó hình thành một xã hội lý
tưởng hơn, cũng từ đó tìm ra chân lý của kiếp sống con người trong
mỗi thời đại và vĩnh cửu như một Đức Phật, một Khổng Tử, một Lão
Trang, một Voltaire hay một Jean Paul Sartre đã nhìn thấy. Từ đó chúng
ta không bỡ ngỡ về các danh từ như thuyết bản thể (essentialism) và
thuyết hiện sinh (existentialism).
Roland
Barthes là một điển hình mà các vị học giả, các nhà sáng
tạo nghệ thuật, các nhà lý luận và phê bình văn học, văn gia, thi sĩ
Việt Nam không thể bỏ qua. Ông bắt đầu viết về lý thuyết Cấu Trúc
Luận từ thập niên 1950 và hai thập niên kế tiếp 1960, 1970 như:
“Mythologies” (1957), “On Racine” (1963), “Elements of Semiology” (1964) và
“Système de la Mode” (1967). Với tác phẩm sau ông cũng đã trở thành
người phê bình phân tích tính trang trọng của hệ thống sáng tạo thời
trang và nghệ thuật vũ thoát y. Nhưng tác phẩm chính về luận thuyết
cấu trúc luận là quyển “Introduction to the Structural Analysis of
Narrative” (1966). Quan trọng hơn có thể là quyển “Michelet Par Lui-même”;
trong quyển nầy Barthes dùng lý luận hiện tượng (Phenomenology) vào phê
bình. Khi phê bình Racine ông đã dùng cả phân tâm học (Psychoanalysis)
của Freud. Năm 1968 Barthes xuất bản “The Death of the
Author” bắt đầu bước chuyển quan trọng từ Structuralism sang Post-Structuralism. Sau đó, khi phê bình tác phẩm
“Sarrassin của Balzac”
(Honoré de
Balzac, 1799-1850, đại văn hào Pháp, tác giả
quyển tiểu thuyết tả chân nổi tiếng “Comédie Humaine”) Barthes đã dùng cả phân tạo
thức --deconstruction-- như Jacques Derrida. Barthes tách tác phẩm 30
trang nói trên của Balzac thành 561 tiểu luận đề (lexis) và viết bài
phê bình S/Z dài trên hai trăm trang năm 1970. (4) Năm 1973, khi xuất bản quyển
“The Pleasure of the Text”, ông đã hoàn toàn chuyển hướng. Quyển sách
này và bài phê bình Sarrassin của Balzac biến Roland Barthes thành
người cha đẻ của thuyết Hậu Cấu Trúc Luận –Post-Structuralism.
Nhưng người cha đẻ thứ hai của
Post-Structuralism Jacques Derrida, cũng là người Pháp, có thể nổi
tiếng hơn Barthes. Năm 1966, Giáo sư Triết gia Jacques Derrida trong bài
giảng luận “Structure, Sign and Play” có ít nhiều xa gần với quan điểm
triết học của Nietzsche, Heidegger và Phân Tâm luận của Freud đã đả
phá “thứ” được gọi là “chuẩn đích” hay “trung tâm” của mọi vật –the
norm or centre of all things- thí dụ như thời Phục Hưng cho rằng con
người là chuẩn để so sánh mọi tạo vật khác trong vũ trụ, nói cách
khác con người là trung tâm của vũ trụ; lối quy nạp quan trọng hoá
người da trắng “white Western” phương Tây là biểu trưng của trang phục,
tư cách, kiến trúc và tri thức và nhiều thứ khác nữa như chuẩn mực
từ đó người ta nhận ra sự sai trái, biến dạng hay dị biệt của một
ai đó không theo chuẩn mực quy nạp của nền văn minh đó. Nhưng rồi theo
thời gian, đến thế kỷ XX, người ta đã nhận ra lớp dưới của màu mỡ,
sự thực bị bóc trần, và bộ mặt khác đã hiện rõ trong xã hội đó, với
nhiều sư kiện đi ngược với sự tiến hoá của nhân loại, với một
sự kiện vô tiền tuyệt hậu “Holocaust” đã huỷ diệt tiếng tăm một
Âu Châu văn minh.
Jacques Derrida (1930- ) cho rằng lịch sử chuyển
dịch, khoa học phát hiện con người sống trong thời gian và không gian
không phân định như trong một vũ trụ của một tương đối chuyển dần mà
không nơi nào là chuẩn định của vũ trụ --a notion of relativity
destroyed the ideas of time and space as fixed and central absolutes—[quan
điểm nầy có thể Derrida bị ảnh hưởng bởi thuyết tương đối về thời
gian của Albert Einstein (1879-1955) từng làm thay đổi thuyết hấp dẫn
vạn vật của Issac Newton (1642-1727)], và cuối cùng là sự cách mạng
tri thức và nghệ thuật phá vỡ cái hoà âm du dương của âm nhạc, cái
quy củ từ chương của văn chương và những thứ mà người ta gọi là sự
tiêu biểu trên mặt nổi của nghệ thuật. Tóm lại trong vũ trụ nầy
không có những điểm chuẩn cố định –“In the resulting universe are no
absolutes or fixed points, so that the universe we live in is ‘decentred’ or
inherently relativistic.” Một lần nữa ta thấy ở đây một chữ đảo ngược
Pháp bị Anh hoá “decentred”, được hiểu là dẹp bỏ “quan niệm về trung
ương” (5) Nó vừa mang nghĩa decentralize của Anh ngữ lại vừa mang nghĩa
décentrer của vật lý học và décentraliser của chính trị học theo
Pháp ngữ.
Nhận định trên đây của Jacques Derrida là quan
điểm triết học phá vỡ mọi quan niệm về một “trung tâm” trong tư tưởng
con người tạo ảnh hưởng sâu rộng trên nhiều mặt, trừu tượng, siêu
hình, lẫn hiện thực trong xã hội loài người kể cả tín ngưỡng,
chính trị, nghệ thuật và văn học. Chúng tôi chỉ xin đề cập sơ qua
một vài phạm trù. Về chính trị đó là quan điểm phá vỡ trung ương
tập quyền không bằng cách mạng bạo lực như của chủ thuyết hung bạo
Marxism-Leninism đập phá một chính quyền và tạo nên một chính quyền
độc tài toàn trị hơn. Quan điểm của Derrida phá vỡ trung tâm “hệ” là
lý thuyết cách mạng đẩy mạnh tiến trình dân chủ và dân quyền lên
mức độ cao nhất cho đến nay. Còn về văn học đó là một cuộc cách
mạng mang tính năng của một “hành trình chuyển hoá ngôn từ văn học”
không còn bị gò bó vào một nghĩa, một ý chơn phương, mà từ một
chật hẹp, cách điệu đến những biến nghĩa, biến thái, có thể khó
hiểu gút mắc hơn và cũng có thể rộng mở hơn mà giới văn học nhìn
thấy trong thi ca nhiều hơn so với các thể văn khác. Những giải trình
cách mạng văn học đó của Derrida chỉ chúng tôi nhìn thấy rõ hơn chữ
nghĩa thi ca Cung Trầm Tưởng trong “Một Hành Trình Thơ”.
Tôi tự
hỏi, chỉ Một Hành Trình Thơ thôi ư?
Không, không chỉ là một hành trình của định
mệnh mà tác giả bị bó chặt vào với sự vận chuyển của lịch sử,
không tự giải thoát được sự ràng buộc thân thể mình trong một xã
hội đảo lộn với những hành trình tiếp nối và bất định của tự
thân. Nếu có thể nói rõ hơn thì dù bước bước đi vào vô định, dù
thì thầm, lao xao, dù an định hay chấn động “phiếm định”, Cung đã bỏ
lại tất cả mọi thứ về vật chất mà mang theo trên hành trình trong
hai túi hành lý tim và óc chỉ có hai thứ: tình yêu và thơ.
Cung đã đi, đi qua những quãng hành trình không dễ quên trong đời. Không
chỉ một mà đến bốn.
Hành trình thứ nhất, theo tôi không phải là hành
trình từ quê ra tỉnh hay từ tỉnh ra Hà Nội của cậu ấm Cung Thức
Cần. Hành trình thực sự vào đời của một nhà thơ lớn sau nầy là hành
trình du học ở Pháp. Mơ và mộng của tuổi thanh xuân trong không gian
đầy ánh sáng và tình yêu bắt đầu sinh sôi với những khúc Tình Ca cho
đến khi trở về thủ đô miền Nam:
“Với thơ thới của đời lên sung thiệm,
Nắng phố phường trải lụa
nõn hồng tơ,
Em thanh tâm tan lễ sớm nhà thờ,
Ngay quán hẹn gót thon dài
thoắt bước.”
Cung Trầm Tưởng tên thực Cung Thức Cần, người cùng
tuổi, cùng thời, với Nguyên Sa Trần Bích Lan. Hai nhà thơ trí thức
nầy đều được đào tạo ở Pháp, chịu ảnh hưởng đậm đà văn hoá Pháp
–nhất là nền văn học của các trường phái lãng mạn và siêu thực của
văn học Pháp, nhưng không thấy một thể hiện nào của thuyết hiện sinh
trong những vần thơ tình yêu tuyệt tác của mình và cũng không thấy dấu
vết gì của thơ Pháp trong hình thức sáng tác của các nhà thơ nầy,
chỉ trừ chất trữ tình và lãng mạn. Cả hai đều là những nhà thơ có
tầm vóc lớn ngay khi trở về thủ đô Nam Việt Nam. Riêng, tôi đọc thơ
Cung Trầm Tưởng trước thơ Nguyên Sa. Bốn câu thơ trên trong bài thơ “Về
Một Thành Phố Thân Yêu” là lúc nhà thơ này đã đặt chân trên đất Sài
Gòn rồi, mà tôi chỉ mới đọc gần đây. Trước đó, nhiều bài thơ của
Cung, không biết từ đâu mà từ lúc nào đã nằm sâu trong trí nhớ của
tôi, trước khi Phạm Duy phổ thành nhạc và Cung đổi một số chữ, như
các bài Mùa Thu Paris, Michèle Bài Ru Nghìn Lành, Chưa Bao Giờ Buồn
Thế, Khoác Kín, Kiếp Sau, Và Kiếp Sau Nữa --hay hai bài thơ ‘Bù Em”.
Tuy nhiên bài thơ tiêu biểu được nhiều người yêu thơ thích và nhớ nhất
là bài “Chưa Bao Giờ Buồn Thế”. Xin ghi lại bài thơ nầy với bản ngày
xưa tôi nhớ và bản mới có sửa chữa trong tập thơ MHTT để biết rằng
gần nửa thế kỷ sau khi làm những bài thơ này, Cung vẫn ray rứt và
gọt giũa lại thi ngữ của ông:
CHƯA BAO GIỜ BUỒN THẾ
[BẢN
CŨ]
[BẢN
MỚI]
Lên xe tiễn em
đi
Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn
thế
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông Paris
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia
ly.
Sướt mướt làm chia ly.
Tiễn em về xứ
mẹ,
Tiễn em về xứ mẹ,
Anh nói bằng tiếng
hôn Anh
nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu
hơn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa
cách.
Một trăm ngày xa
cách.
Ga Lyon đèn
vàng,
Ga Lyon đèn vàng,
Tuyết rơi buồn mênh
mang, Tuyết
rơi cuồng mênh mang,
Cầm tay em muốn
khóc,
Cầm tay em muốn khóc,
Nói chi cũng muộn
màng. Nói
chi cũng muộn màng.
Hôn nhau phút này rồi chia tay
Hôn nhau phút này rồi chia tay
tức
khắc.
tức khắc.
Khóc đi em, khóc đi em
Khóc đi em, khóc đi em
Để luồn qua mái
tóc
Để luồn qua tóc rối
Những vì sao rụng ướt vai
mềm.
Những vì sao rụng ướt vai mềm.
Khóc đi em, khóc đi em,
Khóc đi em, khóc đi em,
Hỡi người yêu Xóm Học
Hỡi người yêu Xóm Học
Để sương thấm bờ đêm
Để sương thấm bờ đêm
Đường anh đi tràn ngập
lệ
Đường
anh đi ngùi ngậm lệ
buồn
em.
nồng em.
Ôi! đêm
nay
Ôi! đêm nay
Chưa bao giờ buồn
thế
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông
Paris
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia
ly.
Rét cắt nghìn phân ly.
Tàu em đi tuyết
phủ,
Tàu em đi tuyết phủ
Toa em lạnh gió
đầy, Toa
em lạ lẫm đầy,
Làm sao em không
rét
Làm sao em yên thấm
Cho ấm mộng đêm nay,
Cho ấm mộng đêm nay
Và mơ ngon trên khắp nẻo
Và xuôi ngon trên trống trải
đường
rầy.
đường dài.
Trời em đi có sao?
Trời em đi có sao?
Mình anh đêm ở
lại,
Mình anh đêm ở lại
Trời mùa đông
Paris
Trời mùa đông Paris
Không bao giờ có sao,
Đêm thường hiếm hoi sao,
Trời mùa đông
Paris
Trời mùa đông sinh ly
Chưa bao giờ buồn
thế!
Chưa bao giờ buồn thế!
Bài thơ trên đây, CTT sáng tác năm 1954 và các bài
thơ khác làm trong mấy năm sau đó là thời kỳ Cung còn là du sinh quân
sự ngành kỹ sư khí tượng ở quân trường Salon, Pháp --nơi mà chúng tôi
thuở đó hằng mơ ước được vào học. Cung thường lên xuống Paris với
ánh đèn vàng trên sân ga Lyon và con tàu xuyên vùng tuyết trắng mênh
mang của những đêm mùa đông trong cảnh ngậm ngùi của những lần em
tiễn anh hay anh tiễn em, như trên. Một lần ghi thành thơ sau nhiều lần
đưa tiễn đã trở thành dấu ấn trữ tình thiên thu trong thi ca lãng mạn
của CTT. Các nhà thơ vốn dĩ thuộc nòi tình. Tình yêu và những giấc
mơ. Thơ Cung trong những hành trình ngắn vào ra kinh đô ánh sáng nầy
đẹp vô cùng. Nói cách nào đi nữa hay thay đổi chữ thế nào đi nữa
thì thơ của Cung Trầm Tưởng ở giai đoạn khởi đầu “làm thơ” của ông
đã đi vào tim và óc của chúng tôi, thế hệ vừa rời khỏi băng nhà
trường ở sáu thập niên trước, và của những thế hệ trẻ hơn, các học
sinh ở các năm cuối trung học và sinh viên đại học. Chúng tôi mê thơ
tình lãng mạn của Cung và mê thơ tình lãng mạn của Nguyên Sa vài năm
sau đó đến tận những ngày nay. Tuy nhiên nếu phải làm cái việc bình thơ của hai bậc
thi hào nầy, thì có lẽ viết về Nguyên Sa sẽ dễ hơn bội phần so với
viết về Cung Trầm Tưởng.
Nguyên Sa tốt nghiệp Cử nhân Văn Chương &
Triết học ở Đại học nổi tiếng Sorbonne, Pháp, trở về Sài Gòn thủ
đô miền Nam ở độ tuổi thanh niên, tuy đã lập gia đình, mà đã dạy
triết ở các lớp lớn trung học và đại học làm thầy các cô các cậu
mười tám, đôi mươi, chỉ trẻ hơn ông không là mấy, nên không dễ gì mà
không tương tư một trò-em nào đó với tấm áo lụa Hà Đông –tất nhiên
là màu trắng-- đi dưới nắng Sài Gòn và với mái tóc ngắn đẹp ngổi
ở chiếc băng nào đó của một lớp học triết nào đó rất ư là dễ yêu,
nên “thầy” cầm lòng không đậu đã từng viết bài thơ muốn quên cũng
không dễ:
ÁO LỤA HÀ ĐÔNG
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông,
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng.
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh,
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bay vội vã vào trong hồn mở cửa.
Gặp một bữa, anh đã mừng một bữa,
Gặp hai hôm thành nhị hỷ của tâm hồn.
Thơ học trò anh chất lại thành non
Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu.
Em không nói đã nghe từng giai điệu,
Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh,
Anh trông lên bằng đôi mắt chung tình
Với tay trắng, em vào thơ diễm tuyệt.
Sau đó thì em đi, vì em có cuộc đời riêng của em
mà thầy không biết, nên em đi không từ giã, và đi đâu thầy cũng chẳng
biết; từ đó thầy không còn gặp nữa thầy nhớ, thầy than:
Em chợt đến, chợt đi, anh cũng biết
Trời chợt mưa, chợt nắng, chẳng gì đâu.
Trời chợt mưa, chợt nắng, chẳng gì đâu.
Nhưng sao đi mà chẳng bảo gì nhau
Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại.
Để anh giận, mắt anh nhìn
vụng dại
Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời,
Em đi rồi sám hối chạy trên môi
Những năm tháng trên vai gầy bỗng nặng.
Em ở đâu hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông,
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng.
Không biết em có giữ hộ thầy bài thơ này hay
không, nhưng chắc chắn là có hàng nghìn em khác giữ hộ cho thầy, và
hàng vạn vạn độc giả mê thơ giữ bài thơ nầy và hàng nhiều chục bài
thơ đẹp khác của Nguyên Sa. Cuộc sống của thi sĩ đẹp quá vì ông có
một vùng trời nắng đẹp mà làm thơ, một gia đình đẹp với hai ngôi
trường vợ chồng ông mở ra dạy học trò, yên lành êm ả, chỉ gợn những
cơn buồn thoáng chốc mà khi vào thơ nó trở thành đẹp hơn tất cả
những gì ông đã có. Nhà thơ không bận tâm nhiều với cuộc sống vật
chất nhất là ở giữa lòng thủ đô miền Nam. Ở đó, ông nhìn thấy rất
it́ về sự tàn phá của chiến tranh ngoài đời thực và trong tâm hồn
ông, nên thơ ông tôi cũng đọc khá nhiều mà không thấy đến một câu nói
về cuộc chiến tang điền thương hải của đất nước. Nguyên Sa sống thoải
mãi như một nhà mô phạm, một nhà thơ và một triết gia dạy triết tây
trong khi mang tâm hồn của Trang Chu “à quoi bon de lutter ainsi pour
vivre”. Mãi đến sau nầy người ta mới đọc được một ít bài thơ về
cuộc chiến đó, Nguyên Sa viết lúc trước được sưu tập lại in ở hải
ngoại, và người yêu thơ không muốn nhớ vì cho rằng tác giả có thể
đã để nàng thơ lạc lối cũ trong bối cảnh không ít người phất cờ
theo hướng gió mới. Đó là khi miền Nam sắp và mới sụp đổ. Sau ngày
đó, khi định cư ở Hoa Kỳ, chắc là ông đã cảm thấy cuộc đời không
nuông chiều ông nữa như khi còn ở quê nhà --đúng hơn là khi ông sống ở
Sài Gòn. Nhà thơ thực sự mất môi trường sáng tác, đã trở thành một
chủ báo, viết báo và viết văn, vật vã trong cuộc sống mới cho đến
cuối đời. Hoa Kỳ không là môi trường thích nghi của Nguyên Sa, không là
Paris. Trong hoàn cảnh bất như ý, ông cũng làm thơ, như “Lục Bát Nguyên
Sa” và những bài thơ cuối đời, nhưng đã không gây được tiếng vọng vang
xa như những bài thơ cũ của ngày cũ. Chữ thơ không còn là mê ngữ mang
mang nên người yêu thơ không còn đọc những bài thơ trữ tình tuyệt vời
của ông nữa.
Nguyên Sa là một đồng điệu của Cung Trầm
Tưởng trong quãng thời gian trước và là một cách điệu rất xa ở
quãng thời gian sau, sau sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam. Sau ngày đó
Cung Trầm Tưởng cũng đã nhận chịu gian khổ của một vận mệnh
sống-chết chỉ là một đường tơ sợi tóc mong manh như hàng trăm nghìn
nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị, các bậc trí thức, nhà thơ, nhà
văn, nhà báo, sĩ quan và giới hành chánh cao cấp miền Nam. Dĩ nhiên
là cơ cực, thống khổ gấp nhiều lần hơn so với những vị, những người
đã phải bỏ mà đi sống ở quê người. Đất chết là môi trường sống của
những cuộc cách mạng lớn trong tư tưởng con người, nhất là những con
người có tâm hồn, những nhà thơ, nhà văn. Và cách mạng tư tưởng của
một nhà thơ là cách mạng ngôn ngữ thi ca. Cung Trầm Tưởng gọi là
“ngữ sự”.Thi cảm cũng thay đổi lớn lao. Ông hoàn toàn trở thành nhà
thơ siêu thực.
CTT không hề nhận là mình làm cách mạng chữ
và chất của thi ca. Nhưng khi trả lời một cuộc phỏng vấn ông đã
phát biểu: “Tôi tự cảm thấy không thể cứ tiếp tục giam hẹp thơ mình
vào trong khuôn hạn của một cái tôi lãng mạn thuở trước với những
biểu tượng nào là căn gác trọ vắt lưng trời ở Xóm Học Paris, nào
là chiếc ghế đá vườn Lục Xâm. nào là công trường lá đổ trước quán
nhỏ hẹn hò trên tả ngạn sông Seine, hay một sân ga đèn vàng một chiều
đông tiễn em về xứ mẹ. Những dấu ấn này dù co đậm đà đến đâu chăng
nữa thì cũng đã sống xong đời sống hữu dụng của chúng rồi. Cõi thơ
của tôi bây giờ mở về những chân trời bát ngát hơn của đất nước, vũ
trụ và lịch sử." (6)
Thực ra Cung vẫn còn mãi trằn trọc về những sáng
tác đầu tay của ông như bài thơ dẫn trình ở trên. Cung vẫn còn muốn
chỉnh thi ngôn cho đến độ chín hung vàng, vì suy cho cùng, vốn dĩ cái
nghiệp dĩ thi ca của ông nặng oằn những con chữ nên tôi tin chắc là
không một bài thơ nào thuộc tình ca của ông “đã sống xong đời sống
hữu dụng của chúng.” Nhưng một điều chúng tôi dám tin là Cung đã
thực sự thay đổi lớn lao về thơ trên hành trình của mình vượt qua
khung trời đất mẹ vào vũ trụ. Trên đây chúng tôi chỉ nêu một vài thí
dụ về tiến trình biến chuyển thi ngữ của Cung mong nói lên rằng thơ
là hành trang bất ly thân của những hành trình lớn trong cuộc đời
Cung, nên Cung đã tập trung tất cả các tập thơ của mình vào chung một
tập thơ dầy và đặt cho nó cái tên “Một Hành Trình Thơ “.
Trên hành trình dài dẵng này, hành trang
chính của Cung mang theo nằm trong túi tim đã được chuyển dần
lên túi não xuyên qua dòng thời gian từ khi ở Pháp về cho đến
khi ông bị vào tù trong luyện-hoả-ngục mười năm và sau đó biệt
xứ lưu vong cho đến nay. Tất nhiên CTT đã động não trong sáng tạo thi
ngữ để chuyển tải chất thơ khác hơn tất cả mọi thi nhân cùng thời
đại mà lý luận phê bình văn học ngày nay gọi bằng những từ rất khó
hiểu như mythemes, morphemes hay phonemes --một phức hợp ngữ hay một đặc
phẩm, một nhóm ngữ vựng hay một khổ thơ có nhiều từ phong phú, một
biệt ngữ hay một cách ngữ-- không một thi nhân nào khác đã sử dụng
cho đến hôm nay. Và như vậy cuộc cách mạng ngôn ngữ thơ của Cung Trầm
Tưởng cũng là cuộc cách mạng của sự trưởng thành từ một thanh niên
yêu đời, yêu cuộc sống, đến sự nghi hoặc và chán chường về thế kỷ
mình đang sống và hơn nữa đã chiến đấu vượt thoát để đi vào vĩnh
hằng ...
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire