Xahoi - Khu rừng già Mã Đà, huyện Vĩnh Cửu vẫn còn hiện hữu nhiều bí ẩn, quan tài người chết không được đóng bằng gỗ mà làm bằng loại cây rừng...
Hổ vẫn thường xuyên xuất hiện, ký ức và những bí quyết để thân thiện với hổ dữ của các già làng ở đây đầy ngỡ ngàng (Ảnh minh họa)
Huyền bí những bộ quan tài như bao
tải
Đã trôi qua ký ức của mình mấy chục năm nhưng khi
được khơi lại chuyện, ông năm Hưng đã bước sang tuổi 85, một trong những người
thông tỏ nhiều kỳ bí ở Mã Đà vẫn hồ hởi kể chuyện như tất cả chỉ mới xảy ra hôm
qua. Ông Hưng bảo: “Tôi sắm sẵn cho mình một bộ quan tài được đan bằng cây
rừng rồi. Tôi thích loại quan tài này hơn. Chừng nào về bên kia với tiên tổ thì
con cháu tôi sẽ đưa tôi vào đó”.
Theo cái chỉ tay của ông Hưng chúng tôi thấy một
chiếc quan tài, toàn được kết bằng cây rừng đập dập ra giống như một chiếc bao
tải lớn. Xung quanh bên ngoài được sơn phết rất nhiều hình thù các loài thú.
Thấy khách có vẻ ngạc nhiên khó hiểu, ông Hưng giải thích: “Trong tiềm thức
của những người già chúng tôi thì lúc sống các loài thú dữ có thể là kẻ thù của
mình, nhưng khi chết đi thì chính chúng lại là người bảo vệ an toàn cho các linh
hồn. Thế nên quan tài bằng cây rừng này phải được sơn các loài thú đó. Có như
thế linh hồn mới được an nhiên”.
Theo ông Hưng cũng như các già làng ở đây thì các
bộ quan tài này phải được tước ra từ một loại cây dẻo dai hơn cây rang, mọc
trong rừng Đà Mã. Ngày xưa thì bạt ngàn, có lấy cả ngày cũng không hết nhưng giờ
đây cơn lốc phá rừng đã hạ gục gần hết. Một số vị trí còn loài cây hiếm này, các
già làng ở đây giữ làm bí mật riêng cho mình.
Ông Hưng thổ lộ: “Lớp trẻ bây giờ, người ta
mới thích quan tài gỗ chứ ngày xưa làm gì có. Các thế hệ trước tôi toàn chôn
bằng quan tài bằng cây rừng. Loại quan tài này rất linh thiêng và chỉ cần chôn
một lần không cần bốc mộ nên vô cùng thân thiện”. Sở dĩ người ta muốn được
an nghỉ ngàn thu trong những chiếc quan tài này vì có một niềm tin bất biến
rằng: thần rừng có thể bảo vệ cả linh hồn người chết. Thế nên, lúc sống người
dân Mã Đà xưa rất ít khi tàn phá các loại cây rừng quý. Trước khi chặt một cây,
họ đều tiến hành làm lễ trang trọng.
Ngay cả vào rừng lấy các loại cây nhỏ về đan
thành những chiếc bao tải làm quan tài, những cư dân già ở đây cũng phải cẩn
trọng cầu khấn trước thần rừng. Cách nhà ông Hưng không xa, ông Phí Văn Tung
cũng có chút tiếc nuối khi những nếp xưa đầy tôn nghiêm không còn nữa. Ông bảo:
“Bây giờ nhiều người lạ cứ vào rừng chặt cây lung tung. Chúng tôi cũng không
cản được. Với lại, cõ lẽ bí ẩn từ những bộ quan tài như bao tải này chỉ còn lớp
người già chúng tôi biết đến mà thôi”.
Trong ký ức của nhiều người, Mã Đà được xem là
vùng đất nguyên sơ nhất, họ tương truyền nhau câu ca “Mã Đà sơn cước anh
hùng tận”. Chính Mã Đà là giang sơn của các bộ tộc người S’Tiêng và Châu
Mạ, Châu Ro. Được coi như là cõi ma thiêng nước độc. Thế nhưng, đó chỉ là truyền
miệng còn thực tế như các già làng ở đây thổ lộ, họ vẫn chiến đấu, sinh tồn và
yêu vùng đất này, những khu rừng này như máu thịt của mình vậy. Những cánh rừng
đặc chủng ngày càng trỗi dậy trong ký ức của những người già nơi đây. Ông Tung
giãi bày: “Nếu xét cho kỹ thì bí quyết làm quan tài như chiếc bao tải bằng
cây rừng này cũng là nét văn hóa độc đáo đây. Vài người già chúng tôi chết đi
rồi, chắc nó cũng thành quá vãng”.
Nơi đây vốn là quê hương lâu đời của những loài
cây cổ thụ có tên và không tên, của những vạt rừng già mênh mông không vết chân
người, của những con suối chảy xiết như suối Mã Đà, suối Ma Sô, suối Đạt Bo. Nơi
đây cũng là đất thánh của các giống thú quý hiếm như hà mã, voi, cọp, beo, gấu,
khỉ, dọc… là sào huyệt của các giống bò sát như trăn, rắn, thuồng luồng, cá sấu,
kỳ đà. Nhưng sự phong phú này cũng đang suy kiệt cùng với mức độ đô thị hóa.
Xưa kia, nếu là người lạ, không thuộc các bộ tộc
thông tỏ địa lý trong vùng mà vô cớ xâm nhập và Mã Đà dễ dính phải những rủi ro.
Bởi suối Mã Đà với hai nhánh nhỏ là suối Ràng và suối Rạc là những con suối giết
người. Nước suối đục ngầu pha màu đỏ chảy như thác. Cây mã tiền mọc thành rừng
trên đầu nguồn dòng suối. Trái mã tiền rất độc rụng đầy theo dòng suối không
biết ăn phải chết ngay. Bởi thế nên chỉ cách đây vài chục năm thôi, Mã Đà vẫn là
vùng đất rất thiêng, tiếng nói của các già làng ở đây vẫn có trọng lượng, ngay
cả những tên phá rừng khét tiếng cũng bị thuần phục.
Nhưng giờ đây, Mã Đà đã khác xưa, có lúc người ta
mang máy móc tràn vào rừng nên sức mạnh từ sự linh thiêng không còn cản ngăn
được sự chai sạn và đầy toan tính trong những tâm hồn tham lam nữa. Nhiều già
làng ở Mã Đà còn kể cho chúng tôi nghe câu chuyện đầy huyền bí rằng:
Mấy chục năm trước, bên cạnh suối Mã Đà mọc lên rất nhiều loại cây có thể làm
quan tài được. Loại cây này dẻo dai có thể làm dây tới kéo khúc gỗ hàng tạ cũng
không đứt. Dưới suối có một con cá sấu mũi đó, nếu ai tham lam vào tàn sát rừng
sẽ bị con cá sấu này trị tội. Khi đó có một chủ đồn điền người Pháp Oderra rất
hung tợn, ông ta có rất nhiều vợ.
Vợ cả của ông này tên là Lưu Chanh, bà Chanh cũng
rất hung tợn không xem rừng già ra gì cả, thích là phá. Một buổi sáng, bà ta dạo
chơi trên kéo bà ta xuống. Huy động người bắt cá sấu để cứu vợ nhưng khi bắt
được cá sấu thì Oderra chỉ còn tìm thấy trong bụng nó các món đồ trang sức của
vợ ông ta. Từ đó và một thời gian dài về sau nữa, gần như không ai dám bén mảng
vào tàn phá rừng già Mã Đà nữa.
Ký ức từ những đêm đuổi hổ
Ngày ông Ma Năm Chúc cùng với một số người thân
của mình luồn sâu vào vùng thâm sơn cùng cốc Mã Đà đê lập nên bộ tộc S’Tiêng,
cách đây hơn nửa thế kỉ, nhiều vùng đất còn rất hoang vu và rậm rạp. Ban đầu,
ông chọn Tây Ninh làm mảnh đất định cư nhưng thời tiết ở đó quá nắng nóng, lại
thường thay đổi, đất đai kém màu mỡ nên sinh sống được vài năm lại chuyển về
Bình Dương. Vào khu rừng già huyện Dầu Tiếng, lập lán trại được hai năm, bà mới
biết, ở vùng này thường xuyên xảy ra tình trạng mưa lũ gây chết người nên họ di
cư về Mã Đà.
Nghĩ lại như mới hôm qua, ông Chúc kể: “Khu
rừng già ở Bình Dương ngày đó dường như không muốn bảo vệ con người. Thiên tai
diễn ra rất nhiều, có lần đi rừng về, mấy người trong tốp di cư chúng tôi bị cây
bỗng nhiên đè chết, thê thảm lắm. Ám ảnh trước điều đó nên chúng tôi lại di cư
đi nơi khác. Mỗi cuộc di cư như thế cũng kham khổ và nheo nhóc lắm. Có lần phải
ăn của mỳ và quả cây rừng hàng tháng trời để tồn tại để tìm kiếm vùng đất khác.
Đến Mã Đà này dẫu huyền bí, dẫu có khắc nghiệt nhưng chúng tôi
luôn có cảm giác nó che chở cho con người, bao bọc và tạo ra nhiều ân huệ từ các
vụ rẫy bội thu”.
Ban đầu những người S’Tiêng vào Mã Đà, hổ báo còn
xuất hiện liên tục. Đi đến đâu, họ cũng muốn tìm được mảnh đất rộng để còn gọi
thêm những người cùng bộ tộc vào cùng quần tụ mưu sinh. “Không ít đêm mệt
mỏi, thức trắng và suy nghĩ hay mình lại quay về lập làng ở vùng đất khác. Nhưng
không biết đi đâu được nên đành bám trụ lại thôi”, ông Chúc nhớ lại.
Ngay khi đặt chân đến khu rừng già hun hút của Mã
Đà, ông Chúc đã cảm nhận rõ ràng, đây chính là nơi mình cùng bộ tộc của mình cần
tìm đến, là bến neo đậu trong hành trình tìm kiếm suốt bao năm của mình. Rừng
núi hoang vu, bốn bề mây phủ, nhìn đâu cũng chỉ thấy bạt ngàn rừng già. Những
người tiên phong này quyết định tìm chỗ đất trống, khai hoang làm rẫy. Lạ, mảnh
đất này cứ gieo cái gì xuống cũng nảy nở rất nhanh, tươi tốt phì nhiêu, chẳng
cần phân tro, tưới tắm gì.
Chẳng bấy lâu sau, làng S’Tiêng (có người gọi bộ
tộc S’Tiêng) hình thành. Cả làng đêm nào cũng canh cánh trong nỗi lo thú rừng
viếng thăm. Những người già như ông Chúc này lại làm công việc nặng nhọc là canh
thú dữ cho buôn làng. Đêm nào các ông cũng đốt đuốc sáng trưng ở giữa làng và để
sẵn cung tên. “Ngày đó hổ, gấu, voi và các loại thú rừng khác nhiều vô kể.
Nói chi xa, mới cách đây hơn 10 năm, gấu và hổ còn lảng vảng ở đây nhiều lắm,
giờ thì hết rồi, dân làng chỉ săn các loại con dúi, con mang, còn các loại thú
lớn này toàn người nơi khác đến săn bắt hết. Hồi đó, đêm nào chúng cũng lang
thang vào khu làng”.
Học được kinh nghiệm từ các cuộc di cư, những già
làng đầu tiên vào Mã Đà hái một số loại lá cây rừng làm thành dung dịch đặc
biệt, loại dung dịch này khiến nhiều loại thú dữ rất dị ứng, khi gặp sẽ bỏ đi
ngay. Nhưng có nhiều loại như gấu, sói rừng chúng không hề sợ nên ông Chúc và
các cao niên trong bộ tộc đành nghĩ ra cách, làm các xác chết giả treo ngả
nghiêng xung quanh đống lửa, khin nhìn thấy, chúng sẽ sợ và rút lui. Nhiều sáng
kiến hay là thế nhưng chẳng đêm nào ông Chúc và các già làng dám ngủ trọn hết
đêm.
Cứ nhớ mãi đêm ấy, khi vừa chợp mắt ông nghe thấy
tiếng gặp sột soạt bên trái nhà, mơ mơ, tỉnh tỉnh nhìn ra thấy một con gấu đang
lù lù tìm cách chiu vào nhà. Ông cùng hai già làng khác hốt hoảng thức dậy, vật
lộn với con gấu cho đến sáng. Xòe đôi bàn tay còn hằn sâu mấy vết sẹo, ông nói:
“Dù đã học hỏi được nhiều kĩ thuật tránh gấu từ những ngày di cư trong các
khu dừng ở Tây Ninh nhưng tôi vẫn bị nó cào cho bươm bã, máu chảy ròng
ròng.
Sau đêm đó, không còn thấy chúng xuất hiện
nữa. Hình như thú dữ dần dần nó thấy sợ mình, có lúc đối diện nhau tôi chỉ cầm
đuốc nhìn nó nhưng nó vẫn không dám tấn công. Có lần một con hổ to hơn người
đuổi nhưng tôi kịp tót lên cây và xối dung dịch lạ (luôn mang theo người – PV)
vào mặt nó, nó gầm lên một hồi rồi lao đi mất hút”. Sau vụ đánh nhau với
gấu, ông Chúc rút ra kinh nghiệm làm thật nhiều thòng lọng bằng dây rừng để
trang bị cho các gia đình trong làng. Khi gặp thú, càng giăng nhiều thòng lọng,
chúng các dễ dính bẫy, mà dây rừng thì rất bền chặt.
Một trong những kinh nghiệm độc đáo được ông Chúc
cùng nhiều người già còn sống ở Mã Đà tích lũy được trong việc thuần phục hổ là:
“Phải điềm tĩnh và đừng bao giờ manh động trước, khi tình huống bức bách thì
nên di chuyển hình chữ chi vì loài hổ rất háo thắng và nóng tính nên chúng thích
lao thẳng vào mục tiêu của mình. Sau những trận chiến đấu với hổ đó, với các
dụng cụ riêng và dung dịch của buôn làng mình chế tạo ra, hổ không còn mấy xuất
hiện nữa. Sau này, chúng tôi còn tìm cách thân thiện với chúng chứ cũng không
bao giờ dám bắn giết.
Bởi bắn giết cũng là một trong những nguyên
nhân khiến cho cơn phẫn nộ của loài hổ trào dâng lên. Bao nhiêu năm đối mặt với
hổ ở Mã Đà này, tôi nghiệm ra rằng, loài động vật này có tính bảo vệ bầy đàn rất
cao. Khi một con bị bắn chết, những con khác sẽ trả thù cho đồng loại của
mình”.
Bây giờ Mã Đà hổ còn nhưng không nhiều nữa. Tuy
đã được các khu bảo tồn tiến hành bảo vệ nhưng thỉnh thoảng những kẻ xấu vẫn săn
bắn trộm khiến cho nhiều già làng ở đây càng thêm phần xót xa.
Diện kiến vua đánh giặc và diệt
hổ
Già làng Tơ Tơ được xem là cuốn tư liệu sống về
những sự kiện, những huyền bí và cả những hào hùng ở chốn thâm sâu Mã Đà này.
Già làng Tơ Tơ là tên gọi theo tiếng Châu Ro, S’Tiêng. Tên tiếng kinh của ông là
Nguyễn Văn Nổi. Người dân trong làng thường gọi ông với cái tên thân mật là ông
Năm Nổi (vì là con thứ năm trong gia đình).
Ông Tơ Tơ là một trong những người tiên phong vào
Mã Đà đầu tiên. Dẫu xuất phát từ nông dân chính hiệu, lại quanh năm chỉ bám riết
lấy rừng già, nhưng khi bước qua tuổi 20, thấy quân Pháp manh nha tổ chức các
cuộc xâm chiếm và săn thú, phá rừng trong Mã Đà, ông đã trỗi dậy khát khao phải
tiêu diệt những kẻ lạ và ác cứ thích xâm chiếm buôn làng mình.
Thế nên ông không chỉ là vua diệt hổ ở xứ rừng
sâu này mà còn là vua diệt giặc bảo vệ bình yên cho buôn làng. Chỉ lên những tấm
bằng khen treo chi chít trên vách tường gỗ nhà mình, già làng Tơ Tơ kể:
“Quân giặc cũng ác như con thú ấy. Nó coi dân trong các bộ tộc của mình
chẳng ra gì cả. Muốn bắt, muốn giết, muống mang ra làm trò chơi là làm thôi. Ai
cũng sợ sệt chúng hết, thấy là lảng tránh. Nhưng mỗi lúc như thế tôi lại nảy ra
sáng kiến phải làm sao mà tiêu diệt chúng như tiêu diệt con thú ấy.
Sau này, được tổ chức cách mạng hướng dẫn,
khát vọng đánh giặc của tôi càng lên cao hơn. Đánh được nhiều giặc nên được từng
đó bằng khen đó. Bằng khen thì vui lắm, nhưng không vui bằng việc thấy dân làng
bình yên đâu. Mỗi lần thấy có người chết lòng quặn đau lắm”. Sau khi Pháp
thôi xâm chiếm, Mỹ tiếp tục cho máy bay tổ chức những tràn càn lên khu rừng già
Mã Đà. Ông Tơ Tơ lại miệt mài vận động bà con theo cách mạng đánh Mỹ. Chính tay
ông đã bắn rơi một chiếc máy bay Mỹ trong lúc chúng đang thực hiện âm mưu rải
bom xuống vùng đất này, bởi khi đó có một lực lượng cách mạng của ta đang lập
căn cứ ở đây.
Sau này vì là người thông thạo địa hình Mã Đà
cũng như gan dạ và dũng cảm nên ông Tơ Tơ được tổ chức cách mạng chọn làm một
cán bộ giao liên nòng cốt. Bất cứ tài liệu quan trọng nào đưa ông vận chuyển đều
được an toàn. Trong những đêm luồn rừng sâu thăm thẳm, không chỉ đối đầu với
quan địch mà Tơ Tơ còn phải đương đầu với ông ba mươi. Có lần hổ cạp mất cả
miếng thịt trên bắp tay ông nhưng ông vẫn thoát. Sau lần đó kỹ năng chiến đấu
với hổ của ông ngày càng điêu luyện hơn.
Ông kể rằng gặp cọp, báo, nếu xác định không thể
chạy nhanh hơn nó thì người săn cọp nên đứng lại. Khi khoảng cách sát nhau hãy
nhìn trừng trừng vào mắt nó, con cọp sẽ nhảy tới vồ. Lúc này nếu là thợ săn tinh
nhuệ thì rút ngay mác hoặc xà gạc nhanh chóng đưa một nhát chí mạng vào yết hầu
con cọp, như thế nó sẽ dễ dàng bị hạ gục.
Trong một lần đi giao tài liệu ở căn cứ về, ông
đã tiêu diệt một lúc hai con hổ hung hãn khi chúng đang vào làng bắt người.
Trong cuộc đời diệt hổ của mình, có lẽ đáng nhớ nhất với ông là ông hổ ba móng,
nặng gần 200 kg. Ông thổn thức kể rằng: "Đó là vào khoảng những năm 1944,
trên đường đi đánh giặc về gần đến cổng làng thì ông nghe tiếng khóc thét của
hai gia đình hàng xóm rất thê thảm. Ngước nhìn vào phía rừng sâu thấy con hổ ba
móng đang ngoạm một đứa trẻ".
Ngày hôm sau, nó lại tiếp tục vào nhà sàn bắt
người ăn thịt. Nỗi kinh hãi ngập tràn khắp xóm, người dân luôn sợ sệt, đến mức
đêm cũng không dám ngủ. Tiếng khóc vì đau buồn của các bà mẹ mất con cứ văng
vẳng trong đêm vắng càng khiến cho ông thêm phần căm tức con hổ quái ác này. Ông
nung nấu quyết tâm phải hạ gục nó bằng được.
Là một thủ lĩnh, một già làng, một vua diệt giặc
đáng tôn kính của buôn làng nên khi biết ông có ý định khăn gói vào rừng tiêu
diệt con hổ quái ác này, cả làng đã túa ra giữ ông lại vì sợ nếu ông thua, hổ sẽ
giết chết ông mất. Ai cũng một mực cầu xin ông ở lại. Nhưng ông quắc mắt lên quả
quyết: “Nếu tau chết thì nó cũng chết. Bao nhiêu năm diệt hổ tau biết điểm
yếu của nó. Nếu tau và nó đều chết thì buôn làng mới bình yên được không nó sẽ
về ăn thịt trẻ con tiếp, không biết bao nhiêu đứa trẻ mới vừa cái bụng tham lam
của nó đâu”.
Tính đến ngày ông giăng bẫy để bắt hổ ba móng thì
nó đã ăn thịt hết hơn 10 đứa trẻ con trong làng. Sau khi bố trí xong hầm bẫy
xung quanh, ông lấy chính bản thân mình làm mồi nhử, bãy của ông được chế tác từ
những loại cây rừng, có lẫy sắt, khi dính vào hổ khỏe đến mấy cũng sẽ bị giam
chặt chân mình trong đó.
Thấy ông nằm lơ đễnh, tưởng đó là miếng mồi ngon,
con hổ ba móng lao thẳng tới và lập tức bị sập bẫy. Lúc đó ông dùng tất cả sức
lực của mình đánh vào các chỗ hiểm của hổ, chẳng mấy chốc nó đã bị hạ gục trong
tiếng reo hò vui mừng của buôn làng. Nhớ lại, già làng Tơ Tơ bảo, chỉ cần bàn
chân của nó lệch đi một bước là trượt bẫy ngay. Lúc đó cuộc chiến sẽ càng trở
nên cam go và không chừng mình làm mồi giả sẽ biến thành mồi thật cho nó
xơi.
Theo sự biến chuyển của thời gian, giờ những
người di cư đầu tiên cùng lực lượng hùng hậu người S’Tiêng và Châu Ro ở Mã Đà
không còn có cuộc sống sung túc khi cứ bám mãi lấy rừng rẫy nơi đây. Vì diện
tích rừng rẫy ngày càng thu hẹp. Những đặc ân từ rừng cũng không còn cho họ cuộc
sống no đủ. Các loại thú cũng đã được bảo vệ nghiêm ngặt.
Dân cư lại ngày càng đông lên nên không bám được
vào rừng mà sinh tồn nữa, một lượng lớn người S’Tiêng, Châu Ro ở Mã Đà này lại
tiếp tục cuộc di cư từ rừng sâu xuống khu vực hồ Trị An để mưu sinh bằng nghề
săn bắt cá. Xưa kia săn thú và làm rẫy thì giờ săn cá và đánh lưới. Dẫu nhọc
nhằn, nhiều khó khăn và bỡ ngỡ nhưng cuộc di cư này cũng hợp với lẽ thường nên
họ vui lòng chấp nhận, chỉ mong sớm được tiếp cận cuộc sống hiện đại. Long hồ
này cũng còn là nơi quần tụ của một số dân nghèo là người Việt từ Campuchia trở
về.
http://xahoi.com.vn/xa-hoi/phong-su/chuyen-chua-ke-ve-nhung-dem-duoi-ho-o-ma-da-147923.html
http://xahoi.com.vn/xa-hoi/phong-su/chuyen-chua-ke-ve-nhung-dem-duoi-ho-o-ma-da-147923.html
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire