Đi hết cuộc đời chẳng biết dại, khôn
Đam mê ca nhạc thì nhiều người, nhưng chẳng ai phải trả giá
đắt như ông Lộc Vàng. Vì nó mà ông đã đi tù 14 năm, vợ ông đang từ diễn
viên phải ra vỉa hè bán đậu phụ. Những ngày hết tiền, vợ ở nhà bệnh nặng
chờ chết, ông ngậm ngùi đi hát giữa đêm khuya. Ở tuổi già đáng lẽ tận
hưởng cuộc sống an nhàn, ông lại bán cả nhà cửa, mở quán lá café âm nhạc
để thỏa cái kiếp đam mê của mình.
Nghệ sĩ Lộc Vàng :
Đi hết cuộc đời chẳng biết dại, khôn
Triệu Vương
Người đàn ông đứng trên
sân khấu nhỏ giữa cả trăm con mắt kia không có dáng vẻ một ông lão sắp
cái tuổi 70. Đôi mắt rưng rưng hoài niệm, ông cất giọng trầm ấm “ Dù cho
mưa, tôi xin đưa em đến cuối cuộc đời...”.
Phía dưới những hàng
ghế nhỏ, khán giả của ông phần lớn tóc đã ngả mầu, họ vỗ tay liên tục,
ánh mắt hướng về ông có phần âu yếm, ngưỡng mộ. Người đàn ông đó chẳng
ai khác là chú Lộc, người đời đặt cho cái danh “Lộc Vàng”, chủ nhân quán
cafe cùng tên nằm trên đường Ven Hồ.
Dù vào tù vẫn không hết đam mê
Người ta
kinh doanh thì lời, nếu có lỗ cũng chỉ bỏ cuộc. Còn ông, bán sạch nhà
cửa, đất cát để ... bù lỗ. Ông có thấy mình dại không ?
Nếu nói dại, khôn thì đi hết cuộc đời con người ta mới
biết mình dại hay khôn. Tôi đam mê những bản nhạc của ông Đoàn Chuẩn –
Từ Linh, Văn Cao, Đặng Thế Phong, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng…, (những
bản nhạc ngày trước bị gọi là nhạc vàng còn bây giờ thì họ gọi là nhạc
tiền chiến), đến mức bị đi tù ở cái tuổi trai trẻ. Cớ gì bây giờ chỉ vì
ít tiền, mình dừng cái đam mê yêu nhạc của mình.
Con cái ông không giận ông sao ?
Không có chuyện con cái tôi buồn rầu vì bố đâu. Hai
con tôi đều học âm nhạc, đứa con trai chơi guitar, tối thứ năm nào cũng
lên quán đệm đàn cho bố hát. Cháu cũng trong đội chơi guitar có tiếng
tốt ở Hà Nội. Con trai tôi đã kết hôn, ở nhà bên ngoại, vì bên đó cũng
neo người. Còn con gái tôi thì đang học đàn tam thập lục ở Nhạc Viện,
cháu sống ở quán với tôi.
Con tôi chẳng có gì phải hận tôi. Từ xưa đến giờ, từ
lúc kết hôn với mẹ chúng nó, rồi hai đứa ra đời, kinh tế gia đình một
mình tôi chèo chống.
Đi tù vì mê nhạc, ông không sợ âm nhạc hay sao mà vẫn để con mình “dấn thân” vào môn nghệ thuật ấy ?
Thời chúng tôi, cứ ngồi vào đàn hát dễ bị mắng là lũ
“xướng ca vô loài”, còn thời bây giờ, thấy bọn trẻ ngồi đàn hát, hiểu
biết nghệ thuật thì bố mẹ mừng phát khóc vì chúng ngoan, chúng không tụ
tập chơi game, chích hút, cờ bạc. Tôi hạnh phúc khi thấy các con mình
học tập và say mê âm nhạc, khi con người ta còn yêu nghệ thuật, yêu cái
đẹp thì còn lương tri.
Còn cái thời của tôi nó khác. Khi ấy là những năm
1960, chúng tôi gồm ba anh em là anh Thành, anh Toán và tôi mỗi lần tụ
tập đàn, hát là phải đóng cửa kín mít cửa, sợ hàng xóm nghe được. Ba anh
em góp tiền mua trà ấm, “bó củi” (10 điếu thuốc lá cuộn theo bó), ngồi hát say sưa đến sáng mới thôi.
Năm 1968, ba anh em chúng tôi bị bắt (cười),
Tòa án Nhân dân TP Hà Nội tuyên bố tội danh là : “Tuyên truyền văn hóa
trụy lạc của chủ nghĩa đế quốc phá hoại nền văn hóa của chủ nghĩa xã
hội”. Anh Toán xử 15 năm tù cộng 5 năm mất quyền công dân, tôi 10 năm tù
cộng 4 năm mất quyền công dân, anh Thành thì 5 năm tù và 3 năm mất
quyền công dân.
Khi ra tù, anh Thành mắc một chứng bệnh sợ đàn, sợ
nghe nhạc, anh ấy cứ nhìn thấy đàn guitar là anh sợ bủn rủn, không dám
động vào vì sợ đi tù lần nữa. Còn anh Toán thì bị mất nhà cửa, cứ lang
thang đầu đường, xó chợ. Tôi nói anh ấy về ăn cơm với mình và dậy thằng
Linh, con trai tôi học đàn.
Khi ấy, gia đình tôi vẫn rất nghèo, thậm chí có những
hôm buổi trưa giờ đi ngủ, nhà chỉ có 9m2, hai vợ chồng ngồi ngoài hiên
quạt nan để ở trong nhà anh Toán và thằng Linh ngủ.
Vợ ông không ngại ngần cái sự “xướng ca vô loài” từng mang đến bất hạnh cho người thân sao ?
Có thời gian sau này tôi đi hát cho chương trình Ca
khúc Trữ tình, do Khắc Huề làm chỉ đạo. Mọi người biết, đến mời tôi hát ở
chỗ Ủy ban Nhân dân Mặt trận Tổ quốc (đường Tràng Thi). Tôi đi hát, Mai
bế thằng Linh đi theo. Mấy ông bạn của tôi đùa : “Cái con này, mày ở nhà nghe thằng Lộc hát mãi rồi không biết chán à ?” Mai bảo : “Không
anh ơi! Em đi theo nhà em không phải để nghe nhà em hát đâu, mà chẳng
may nhà em có bị bắt một lần nữa thì em còn biết đường để tiếp tế.”
Ông đã may mắn gặp người phụ nữ ấy như thế nào ?
Mai là bạn thân của em anh Thành, người chơi guitar
trong nhóm nhạc chúng tôi trước đây. Cô ấy thường đến nhà anh Thành
chơi, ngồi nghe chúng tôi hát. Tình cảm của chúng tôi chớm nở từ năm
1965, biết tin tôi đi tù Mai vẫn yêu, vẫn chờ đợi tôi 12 năm trời.
Gia đình nhà vợ không phản đối một người con rể đi tù như ông sao ?
Thời gian đó, gia đình nhà Mai không có ý kiến gì,
nhưng phía Đoàn Tuồng Bắc Trung Ương nơi Mai đang công tác có cấm đoán.
Trưởng đoàn gọi Mai lên giáo dục : “Em là con người lí lịch tốt mà em yêu cái thằng đi tù vậy à ?” Mai đứng dậy nói thẳng : “Tôi nói anh biết, anh không biết gì về anh Lộc thì anh không có quyền nói động gì đến anh Lộc”.
Tức quá, Mai bỏ đoàn luôn, về nhà bán đậu phụ ngoài vỉa hè. Còn tôi
được ra tù sớm hơn án ban đầu 2 năm, tôi trốn đi làm bánh mì trong miền
Nam, rồi làm hàng bao nhiêu nghề để kiếm sống, vì khi đó tôi vẫn còn mất
quyền công dân 4 năm.
Trước khi bị bắt, tôi làm lái xe cho hợp tác xã (HTX),
sau khi ra tù, bôn ba chán rồi về làm nghề quét vôi gia truyền của gia
đình. Bố đẻ tôi là ông cai thầu vôi số 1 ở Hà Nội. Bố tôi dậy nghề này
cho tôi từ thuở trẻ trâu, cho đến giờ nó vẫn là nghề chính, nghề mưu
sinh. Còn cái chức danh nghệ sĩ Lộc Vàng, hay tài tử Lộc Vàng cũng chỉ
là danh hư mà chính khán giả thương mến đặt cho mình thôi.
Cuộc đời tôi mất mát quá nhiều
Cuộc sống hôn nhân của ông sau đó thế nào ?
Vất vả lắm ! Chị cứ thử nghĩ xem, một diễn viên triển
vọng của Đoàn, người nhà nước, có lương phiếu nhà nước thì bỏ về đi bán
đậu phụ ngoài vỉa hè, sau đó kết hôn với một người quét vôi.
Chúng tôi cưới năm 1981, tiền nong làm gì có, tất cả đi vay khắp nơi để gây dựng cuộc sống mới. Nhà Mai chỉ có mình cô ấy và bà cụ đã già yếu, sống trong căn buồng 9 m2 ở trong cùng số nhà 128 Bùi Thị Xuân, nằm ngay trên nóc nhà vệ sinh, tôi
về ở rể tiện bề chăm sóc mẹ già. Từ đó trở đi, tôi cứ đi làm nghề vôi
cho HTX, còn hai mẹ con Mai buổi sáng sớm đi làm giá rau ngoài chợ Hôm.
Năm 1982 vợ chồng chúng tôi sinh cậu con trai lớn,
thằng bé được 9 tuổi thì tai vạ ập xuống. Hàng xóm sát vách có một thằng
con rể hay cờ bạc, cô con gái có ít tiền đi Tây về, mang về gửi bố mẹ
giữ hộ. Hai vợ chồng đánh nhau, cô kia sợ quá chạy xộc vào buồng nhà tôi
nấp thì bị chồng đuổi theo chém chết. Mẹ vợ tôi hoảng hốt kêu người cứu
thì anh ta quát im mồm, sau đó chém gẫy đùi để cảnh cáo, con giai tôi
sợ quá chạy ra ngoài hành lang, anh ta lao theo chém ngang lưng, khâu 31
mũi, may mà không vào xương sống.
Sau tai nạn ấy, gia đình tôi vay không biết bao nhiêu
tiền. Nhiều người hay tin, thương cảm cho hộp sữa, cân đường, ít tiền.
Còn gia đình hàng xóm gây vạ cho gia đình tôi thì cứ coi như không, cố ý
lẩn tránh không đền bù thiệt hại. Sau lần ấy, tôi rất sợ những cái vạ
trên trời rơi xuống.
Năm 45 tuổi, Mai sinh thêm đứa con thứ hai. Vợ tôi nằm
trên bàn đẻ, mất máu rất nhiều do băng huyết (mắt đỏ hoe, im lặng hồi
lâu). Ba năm sau, cô ấy lại bị trận cảm lạnh, đưa vào bệnh viện lao họ
tiêm thuốc kháng sinh quá liều, nên bị chuyển sang bệnh gan. Từ lúc Mai
sinh con bé thứ hai đến lúc cô ấy qua đời là 10 năm, nhưng mỗi tháng ít
nhất cũng mất 5 triệu tiền thuốc, tháng nào nhiều phải đến 20 triệu.
Ông đã cáng đáng vợ ốm đau triền miên, con cái thì nheo nhóc bằng cách nào ?
Khi ấy tôi là chủ thầu sơn vôi rồi, cũng kiếm được
tiền. Nhưng vợ bệnh như vậy thì chẳng khác nào “tiền vào nhà khó như gió
vào nhà trống”. Tôi sống trong cảnh vay nợ khắp nơi, nói cho đúng là
lừa bạn bè để có tiền mua thuốc cho vợ. Mình sang nhà bạn, nói là “đang
có công trình làm dở chưa quyết toán, vay tiền trả lương cho anh em, vài
bữa nữa gửi lại họ,” chứ mình nói vay tiền mua thuốc cho vợ ai dám cho
vay. Gần đến hạn trả nợ của người này, tôi lại đi vay của người khác để
trả. Cứ nợ quanh quanh, khốn nỗi đi làm ăn ai người ta cũng biết mình là
con người rất đàng hoàng nên hỏi vay ai người ta cũng cho vay.
Bệnh tình của vợ ông có thuyên giảm ít nhiều không ?
Bị xơ gan cổ chướng, tây y cũng chữa mãi rồi. “Có bệnh
thì vái tứ phương” người ta chỉ mình đi đâu cũng đi, Lào Cai, Yên Bái…
rồi thậm chí ngươi ta còn mách lấy cây hoa cứt lợn mọc trên nấm mồ về
sắc thuốc. Thế là tôi cứ đi khắp các bãi tha ma, cứ nhìn thấy cây hoa
cứt lợn nào thì lạy, ít tuổi hơn thì lạy bằng cháu, nhiều tuổi hơn thì
lạy ông bà, mang về hàng bao tải chữa bệnh cho vợ. Thấy trên báo chí
người ta bảo lấy cây dứa dại chữa bệnh, tôi mua hàng xe dứa dại sắc
thuốc cho vợ uống.
Năm 2000, khu đất ngôi nhà cũ 9m2 được mua lại, cả xóm hơn bán được
hơn 600 cây vàng, nhà tôi nhỏ nhất nên được nhận 60 cây. Gia đình trả
nợ hết 30 cây, 30 cây còn lại mua mảnh đất ở Kim Mã, rồi tôi lại tiếp
tục vay tiền xây được ngôi nhà 3 tầng. Ở nhà mới được một năm rưỡi thì
vợ tôi mất.
Trước đây tôi hay đi hát quán café nhưng sau này vợ ốm
nằm một chỗ thì không hát nữa. Ngày sinh nhật ông Đoàn Chuẩn cái năm
2002, quán café lại nhờ tôi hát giúp 2 bài, tiền catse họ trả là 200
ngàn đồng. Lúc đó tôi nghĩ, bây giờ vợ ốm đau nằm đó, chẳng biết cô ấy
sẽ đi lúc nào mà tiền bạc trong nhà thì không có. Nhưng mình đi hát, ai
trông được cô ấy buổi tối đây ? Vì mẹ già gẫy chân vẫn ngồi một chỗ,
thằng Linh con trai biết vệ sinh cho mẹ thế nào, cô con gái thì còn quá
nhỏ. Tôi đành cho cô ấy uống thuốc ngủ, dặn con trông mẹ, mẹ tỉnh phải
gọi điện thoại cho bố ngay.
Thế là tôi vội vàng thuê xe ôm mất 6 nghìn đồng đến
quá café để hát, (giọng run run), mình lên hát, mồm thì hát nhưng mắt cứ
nhìn vào cái điện thoại, hát xong tôi nói với chủ quán “Thôi mày đưa tiền cho, anh đi về”. Mấy ngày sau thì cô ấy ra đi.
Đời tôi có ăn quả đắng thì tôi vẫn muốn con mình được hưởng những vị mát ngọt
Cuộc sống vất vả như vậy sao ông vẫn muốn mở quán nhạc, để rồi phải bán nhà bán cửa ?
Năm 1991, tôi và một người bạn từng thuê một cái nhà
trên đường Hoàng Hoa Thám để mở quán café nhạc. Sửa quán xá xong hết thì
không xin được giấy phép, vì lý lịch của tôi vẫn còn vết đi tù, họ
ngại. Đến năm 1997, biết mình khó rồi nên tôi lại kết hợp với một người
bạn, nhờ anh ấy xin giấy phép kinh doanh nhưng cũng không được. Tôi mất
trắng 30 triệu đầu tư làm nội thất cho quán lần nữa. Cho đến lần thứ 3
này tôi mới thực hiện được mong muốn mở một quán café âm nhạc, được đứng
trên sân khấu thường thường xuyên, được hát cho mọi người nghe những
bài mà trước đây mình từng yêu mến.
Nhưng
tôi thấy, để có được những đêm hát giữa mọi người như vậy, ông đã trả
cái giá quá đắt. Cái giá mà một người khôn ngoan, thức thời sẽ không bao
giờ hành động như vậy?
Từ nhỏ, tôi ảnh hưởng niềm say mê âm nhạc từ bố mình.
Bố tôi trước đây không học hành qua bất kỳ trường lớp âm nhạc nào, nhưng
ông hát cải lương, tuồng, chèo… rất tốt. Ông từng là thầy dậy hát cho
ông Lê Chiêm, người hát chính của rạp hát Kim Phụng (rạp có trước năm 1954).
Tôi đã mất cả tuổi trẻ của mình để được hát những ca
khúc đấy! Nó như ăn sâu vào máu thịt con người tôi rồi. Những bài hát
ngày xưa tôi hát thì giờ đã được phổ cập, được gọi là những ca khúc
thuộc dòng nhạc chính thống. Bản thân các nhạc sĩ ấy đều đã được vinh
danh. Chỉ còn lại 3 chúng tôi… (nghẹn ngào). Cuộc đời của mình mất mát quá nhiều !
Ông không nên đặt lên vai con mình những điều nặng nề ấy ?
Người ta nói “có bị đánh mới biết đòn đau”, nhưng
không vì thế mà tôi nói những suy nghĩ của mình cho đám trẻ. Đời tôi có
ăn quả đắng thì tôi vẫn muốn con mình được hưởng những vị mát ngọt,
không lẽ tôi phải đặt lên vai chúng sự nặng nề của quá khứ? Tôi luôn để
các con mình được sống và lớn lên bình thường trong thời cuộc của chúng.
Triệu Vương
Ông Lộc Vàng tên thật là Nguyễn Văn Lộc, sinh năm
1945, tại Hà Nội. Ông là con thứ 3 trong gia đình có 5 anh em, cha làm
cai thầu vôi. Tuổi trẻ, ông thường tụ tập đàn hát với nhóm bạn bè các
nhạc phẩm của Văn Cao, Đoàn Chuẩn – Từ Linh, Ngô Thụy Miên, Công Phụng…
Ngày 27-3-1968 ông Lộc bị bắt vì tội “tuyên truyền văn hóa trụy lạc” với
mức án 10 năm tù và 4 năm mất quyền công dân. Ông được ra tù sớm hơn 2
năm (ngày 26-3-1976).
Mười năm sau ngày ông Lộc ra tù, tháng 12 năm 1986, Bộ
Chính trị thông qua Nghị quyết số 5 về tự do sáng tạo, do tướng Trần Độ
thuộc Ban Văn hóa soạn. Kết quả là những tác phẩm của một số văn nghệ
sĩ trước kia bị cấm như Nhất Linh và Khái Hưng được tái bản. Sang năm
1987, năm nhân vật trong phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm cũng được phục
hồi danh dự, trong số đó có nhạc sĩ Văn Cao (được truy tặng Giải thưởng
Hồ Chí Minh năm 1996). Cũng từ đây, Việt Nam bắt đầu phổ cập các ca khúc
trước năm 1954 từng bị cấm của các nhạc sĩ Văn Cao, Đoàn Chuẩn- Từ
Linh; Doãn Mẫn; Đặng Thế Phong; Nguyễn Văn Khánh; Nguyễn Văn Thương...
Năm 1991 và 1997, ông Lộc xin giấy phép mở quán café âm nhạc nhưng bị từ chối vì lý lịch.
Năm 2007, cuối cùng ông Lộc Vàng cũng được cấp phép mở
một quán lá café ca nhạc ở đường Ven Hồ. Tối thứ 2, 5, 7 hàng tuần,
những người yêu dòng nhạc Tiền Chiến lại có mặt ở đây để nghe những kỷ
niệm của mình sống dậy.
NGUỒN : Một phiên bản của bài này đã được đăng lần đầu
trên tạp chí Mốt & Cuộc Sống cách đây một thời gian (11.2011).
Bản này là toàn văn nguyên tác, do tác giả gửi cho Diễn Đàn.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire