KINH THI CHỌN LỌC
Lời nói đầu:
Kinh Thi
(ca dao Trung quốc trước thời của Khổng tử) có 300 thiên. Mỗi thiên có
nhiều bài cùng một đề tài, tổng cộng chừng một ngàn bài.
Kinh Thi
có ba loại thơ. Thơ Phong và thơ Nhã là những bài ngụ ý dạy đời và
nhiều bài hiện còn rất phổ thông. Thơ Tụng gồm những bài ca cho
triều đình và miếu đường, đã lỗi thời vì chỉ xưng tụng những mẫu
mực của thời phong kiến (nhất là nhà Chu. Cả ba loại Phong, Nhã và
Tụng đều xúc tích, cô đọng tới độ, nhiều bài, nếu không có chú
giải (của Mạnh tử và Chu Hy) thì không thể hiểu nổi.
Kinh Thi
dùng thể thơ cổ phong. Vì vậy cổ phong là thể thơ lý tưởng để dịch.
Nếu dịch bằng thể lục bát hoặc song thất lục bát thì hồn thơ và
mức cô đọng, xúc tích, của Kinh Thi sẽ dễ bị mờ nhạt (dùng một câu
6,7, hoặc 8 chữ để dịch một câu chỉ có 3, 4, hoặc 5 chữ). Một người bạn qúa niên của tôi, gốc Hoa
kiều Chợ Lớn, đã nói với tôi rằng, có lần, ông đề nghị với Hồ
Dzếng dịch ca dao Việt sang thơ Hán để ông gởi về đăng trên một tuần
báo ở Thượng Hải nhưng HD giải thích rằng, làm như vậy sẽ mất vẻ
dịu dàng, uyển chuyển của ca dao Việt vì Hán ngữ không có thể thơ
yêu vận (một thể thơ duy nhất chỉ có ở VN mà chữ chót của câu lục
vần với chữ thứ sáu của câu bát. Yêu: cái lưng). Dịch Kinh Thi cũng
vậy. Dùng thể cổ phong mới dễ diễn đạt nét đặc thù của nó. Tôi sẽ
lựa một số bài điển hình trong bộ Khổng Tử Kinh Thi của Tạ Quang
Phát, xuất bản tại Hà Nội, để đối chiếu.
Thơ cổ phong
phân làm ba loại: Phú, Tỷ và Hứng.
Phú là
những bài nói rõ tên, rõ việc.
Tỷ là
những bài thấy việc hư hỏng đương thời mà không dám nói rõ, chỉ
dùng lối so sánh để̉ diễn đạt một ý kín đáo.
Hứng
là những bài mượn vật, mượn việc để nói lên ý chính.
Tỷ và
Hứng khác nhau ở chỗ Tỷ thì mượn vật, mượn việc làm thí dụ mà
không nói rõ ý chính, còn Hứng thì mượn vật, mượn việc để nói rõ
ý chính.
Một nhận xét:
Hội
nhập văn hóa của người để làm giầu cho văn hóa của mình là một
việc vô cùng tế nhị. Trong một ngàn năm bị Tàu đô hộ, người Việt đã
rất khôn ngoan học được nhiều điều hay đẹp của họ mà vẫn giữ được
văn hóa đặc thù của mình. Đó là nhờ việc giữ vững phong tục và ngôn ngữ Việt.
Không như Mãn Châu, cướp nước Tàu mà bắt dân mình hoàn toàn theo phong
hóa Tàu kể cả phong tục, tư cách và ngôn ngữ, để sau này bị mất
nước và bị đồng hóa. Riêng về bộ môn thơ, người Việt đã biết dùng
mọi thể thơ của Tàu (cổ phong, tam, tứ, ngũ, lục, thất ngôn và Đường
luật) để làm giầu cho thơ Việt mà̀ vẫn phát huy tối đa thể thơ lục bát, một thể thơ duy
nhất trên thế giới dùng yêu vận (chữ cuối của câu lục vần với chữ
thứ 6 của câu bát. Yêu: cái lưng). Theo thiển ý của Con Cò, dùng thể
thơ cổ phong để̉ dịch Kinh Thi còn có thêm một ý nghĩa nữa: phân
biệt ca dao Việt (chuyên dùng thể lục bát) với ca dao Tàu (chuyên dùng
thể cổ phong).
THIÊN THỨ 20
KINH THI
Bài 1
Biểu Hữu Mai
Biểu
hữu mai
Kỳ thực
thất hề
Cầu
ngã thứ sĩ
Đãi kỳ
cát hề
Bài 2
Biểu
hữu mai
Kỳ thực
tam hề
Cầu
ngã thứ sĩ
Đãi kỳ
kim hề
Bài 3
Biểu
hữu mai
Khuynh
khuông hý chi
Cầu
ngã thứ sĩ
Đãi kỳ
vị chi
Chú gỉai:
Thiên
này thuộc phú.
Biểu: rụng. Thứ: qúi vị. Đãi: kịp.
Cát: ngày tốt.(ngược với hung là ngày
xấu). Hý: lượm. Vị chi: ý nói
chỉ cần hẹn ước cũng kịp.
Ý
chính:
Thiếu
nữ trong tuổi xuân xanh (giống như cây hoa mai nở rộ trong mùa xuân) mong lấy
gấp chồng hiền (e sẽ lọt vào tay người đàn ông bạc, bẽo xấu xa do cha mẹ ép
gả vì sợ con gái qúa lứa, ế chồng). Câu 2 của bài 1: hoa còn lại 7 phần,
dịch là: mới rụng có 3 phần. Câu 2 của bài 2 cũng dịch tương tự như vậy.
Lời bàn
của ConCò:
Lời
thơ trong bài này sao mà dễ thương qúa vậy! Người nữ đã trưởng thành, nóng
lòng mong lấy được chồng vừa ý trước khi cha mẹ muốn gả chồng gấp cho con gái
(vì nghĩ rằng đã qúa lứa). Từng đoạn, từng lời, nhẹ nhàng bay bướm, không thể chê
ở chỗ nào, không thể làm gọn gàng hơn (chỉ 15 chữ cho mỗi bài) mà hay
hơn được! Nhịp độ dồn dập từ bài 1 tới bài 3 (chọn gấp ngày để xem
mắt, đến ngay hôm nay để xem mắt, đến ngay hôm nay để̀ hứa hôn) mô tả
lòng mong đợi của cô gái về sự chiếu cố gấp gáp của người tình.
Rất ngây thơ. Rất tha thiết. Rất đứng đắn. Rất ngậm ngùi. Một tuyệt
chiêu.
THIÊN
THỨ 20
Con Cò
Bài 1
Trái
Mai Rụng
Mai đã rụng
Ba phần mười cây.
Qúi nhân tới ngay!
Xem mắt chọn ngày.
Bài 2
Mai đã rụng
Bẩy phần mười cây.
Qúi nhân tới ngay!
Xem mắt hôm nay.
Bài 3
Mai đã rụng
Nghiêng gỉo lượm đầy.
Qúi nhân tới ngay!
Một nhời cũng kịp.
PHỤ
BẢN
Một
bản dịch của Tạ Quang Phát trong Khổng Tử Kinh Thi
Bài
3
Hôm
nay mai đã rụng đầy,
Chỉ
đành nghiêng giỏ đêm mai nhặt vào.
Tìm
em mà cưới vị nào,
Một
câu đến nói hẹn nhau được rồi.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire