http://catbuicarolineth.blogspot.fr/2014/07/truyen-ngan-song-voi-nguoi-chet-tac-gia.html
Sống Với Người
Chết (5)
(tiếp theo)
Bút Xuân Trần Đình Ngọc
Chú thím Cải quá
hạnh phúc được trở về căn nhà yêu dấu xưa, một điều vợ chồng chú không bao giờ
dám mơ tới. Giá bây giờ chú còn cái xe gắn máy, lại đi chở khách xe ôm thì sung
sướng biết bao! Hai trăm đô la đem cầm thế cái xe để lấy tiền chôn cất con và
mua thức ăn những ngày sau đó vì sau khi thằng con chết, chú quá buồn bã sinh bệnh
không đi kiếm việc làm được. Vợ chú đi làm cho một hàng cơm bình dân, may ra đủ
cho cái miệng của thím, có còn gì mà đưa về cho chồng con ngoại trừ thỉnh thoảng
cơm ế, bà chủ cho vài chén cơm với đĩa đồ ăn mang về là đã mừng.
Trước 30-4-1975,
chú Cải là Hạ sĩ I ngành Quân vận VNCH. Chú được giao một cái GMC chuyên chở
hàng từ Kho 5 Khánh Hội ra Trung hoặc xuống Hậu Giang miệt Cần Thơ, Vĩnh Long,
Sa đéc, Bạc liêu, Rạch giá. Căn nhà nhỏ này mua từ hồi đó là do hai vợ chồng
chi chắt để dành tiền lương của chú, cần lắm mới ngắt ra chút đỉnh tiêu, còn
thím buôn bán tôm cá khô ờ chợ Cầu ông Lãnh cũng phụ thêm với chú một phần, bốn
mẹ con thím không phải đụng đến lương của chú. Vì thế mà mua được căn nhà này
giá lúc đó chỉ có ba lượng vàng mà bây giờ chắc cũng phải gấp ba gấp bốn vì
ngày càng có nhiều người từ các vùng quê đổ xô vào Sàigòn làm ăn vì họ nghĩ Sàigòn
có thể sống được, có tệ cũng còn hơn ở vùng quê.
Sau khi mất Ban
Mê Thuột, 10-3-1975, lúc đó Hạ sĩ I Cải đang ở Sàigòn. Chú và Hạ sĩ Bảnh phụ
tài xế được lệnh theo đoàn công xa hơn 20 chiếc chở vật liệu quân nhu ra Đà nẵng. Chuyến đi đó
suông sẻ nhưng chuyến về, hai xe trong đoàn bị VC bắn sẻ và bị cháy, hai tài xế,
hai phụ tài và ba quân sĩ bị thương phải vào điều trị tại quân Y Viện Nha
Trang. Từ giữa tháng 3 đến cuối tháng 4-1975, chú Cải còn phải đi nhiều chuyến
nữa khi chở đạn, khi chở thực phẩm khô, khi chở xăng dầu cho các chiến trường
như An Lộc, Bình Long, Chương Thiện v.v…Rồi ngày 30-4-1975 nổ ra, như những
quân nhân binh sĩ khác, chú Cải phải cơm nắm muối mè đi trình diện học tập 10
ngày rồi mới được về. Nhờ còn chút vốn liếng cũ, chú mua cái xe gắn máy cũ làm
kế sinh nhai bằng nghề chạy xe ôm.
Sau khi dọn vào
căn nhà cũ được một tuần, lúc này là lúc phải kiếm cho ra việc làm vì tiền đã cạn.
Một người bạn mới ở xóm là anh Tư Sung rủ chú Cải đi làm thợ hồ. Tía chú Cải hồi
còn sinh thời làm thợ hồ, chú có đi theo nên cũng biết xây và tô tường tuy
không thạo lắm. Kiếm thợ xây giỏi lúc này thật khó vì nhà xây, sửa thì nhiều mà
thợ xây giỏi lại ít nên khi người chủ thầu bảo chú Cải thử xây mấy hàng cho ông
ta coi, chú hết sức trổ tài, ông chủ thầu đồng ý cho chú làm thợ xây. Thực ra
nghề của chú còn rất non tay nhưng túng thế chẳng biết làm gì, thôi đành nhắm mắt
đưa chân. Vả lại, chú nghĩ cứ làm nhiều ắt phải quen tay, cái gì không biết thì
hỏi người bạn mới là Tư Sung. Được cái ông chủ thầu chỉ cho Tư Sung và chú Cải
làm những công việc sữa chữa hoặc xây các bờ tường ngắn và thấp, không quá khó.
Những công tác lớn và khó khăn, ông ta dành cho thợ chuyên môn đã có nhiều kinh
nghiệm xây cất.
Mỗi buổi sáng sớm,
khoảng 6 giờ, chú Cải và anh Tư Sung đèo nhau bằng xe đạp từ cái xóm lội nước
quanh năm đến nơi làm việc. Trước khi vào làm, cho chắc bụng, hai người ghé vào
quán bà Bẩy Hẹ bán bún và phở ngay đầu ngõ. Quán là mảnh ni-lông to bằng cái
chiếu, một cạnh ghim bằng đinh vào bức tường nhà người ta, phía này là hai cây
tre cắm xuống đất, hai góc ni-lông được cột vào hai đầu tre để miếng ni-lông giương
lên thành cái mái che bớt nắng. Những ngày mưa, tấm ni-lông không che đủ mấy nồi
bún, nồi phở làm mẹ con bà Bẩy Hẹ quýnh quáng. Nhiều khi bà Bẩy chịu mưa ướt hết
cầm nón che cho nồi riêu bún vì mưa to quá, tấm ni-lông hứng nước cho đầy xong
dội xuống cái ào như người ta cầm cả thau lớn nước tạt vào quán. Nhưng mưa
Sàigòn không mưa dai lắm. Mùa này chỉ khoảng một lúc lại tạnh, người người lại
vui vẻ ra đường lo công việc dang dở.
Tư Sung và chú Cải
ngồi xuống cái ghế dài lúc đó còn vắng khách:
“Cho hai tô phở
bụi, bà Bẩy!”
Bà chủ quán đon
đả đón hai khách quen bằng nụ cười tươi:
“Đến ăn sớm thế
này sướng hơn là lát nữa. Khoảng nửa tiếng là đông không có chỗ ngồi. Lấy tô,
muỗng, đũa Bé ơi!”
Bé là con gái út
của ông bà Bẩy Hẹ. Bé năm nay đã 17 tuổi nhưng nó trổ mã như người 19, 20. Tấm
lưng ong của con gái miền Nam mà con gái miền Trung với miền Bắc, nhất là miền
Bắc, không có. Nó không quá dài cũng không quá ngắn, giữa thắt lại như cây đàn
ghi-ta. Đôi chân dài, chân tay thon, da dẻ hơi ngăm như gái Rạch giá chứ không
trắng như gái Cần thơ. Ngăm trông khoẻ mạnh, làm được mọi việc. Khuôn mặt không
xinh lắm nhưng có duyên và ưa nhìn, ai đã thấy là phải nhớ mãi. Đôi lông mày đậm
nét và đôi lông mi cong dài chẳng hiểu cái gene này từ đâu. Miệng nhỏ với hai
hàm răng trắng đều, lúc nào cũng sẵn sàng cười.
Ba chị đi lấy chồng,
hai anh đi lấy vợ nên chỉ còn mình Bé ở nhà với cha mẹ, mẹ bảo Bé thôi học sau
khi mới học xong lớp 8, ở nhà phụ mẹ buôn bán kiếm ăn vì làm hàng ăn thế này, một
mình bà Bẩy Hẹ không làm xuể. Ấy là ông Bẩy Hẹ đã phụ hẳn cả buổi sáng như coi
nồi hầm, luộc thịt, rửa rau cải, rau thơm, đi lấy bánh phở, bún tươi tại lò bà
Tám Lự, ông Bẩy dùng xe đạp đi về cũng phải một giờ vì khá xa. Cái xe của ông
khi xưa lúc còn buôn đồ gốm đã chở hàng đống chum vại trên đó rồi lấy thừng chằng.
Lúc dắt xe đi đường ông Bẩy không sợ bằng lúc chằng và chồng cao lên cho được
chuyến. Nhiều khi chính ông phải ngạc nhiên là tại sao ông có thể chằng chum vại
cao thế mà không sợ nó sút giây rớt xuống vỡ tan tành. Mà nào chỉ một hai, cả
chục cái theo nhau rớt xuống là hết vốn. Từ hồi vợ bán bún xáo và phở bụi ở đầu
xóm, ông Bẩy mới thôi nghề đi bán đồ gốm.
Hai tô phở bốc
khói Bé đã mang đặt trước mặt hai ông khách.
Đĩa rau sống, giá sống và rau thơm kế bên, tươi mới hái. Đĩa ớt hiểm quả
xanh quả đỏ như mời mọc. Tư Sung và chú
Cải cầm đũa. Phở bụi ít thịt nhưng được cái nhiều bánh, nhiều nước súp, có vài
ba cục xương còn dính chút thịt hay chút mỡ bò. Thế đã là sang. Chú Cải kêu:
“Chị Bẩy cho
thêm hai khúc bánh mì.”
Chả là tô phở hơi
ít với cái bao tử nên phải ăn thêm khúc bánh mì chung với nước phở mới đủ no, mới
làm việc nặng được.
Ăn xong, mỗi người
móc tiền ra trả bà Bẩy, uống chén nước trà nóng rồi vào trong xóm, chỗ căn nhà
đang sửa.
Bức tường đang
xây đã lên được hơn 1m, chiều dài chạy suốt căn nhà là 12m. Tư Sung có tay nghề
khá nên chỉ dẫn lại cho chú Cải, người hàng xóm mà Tư Sung quí mến vì tính chân
thực và hơn tuổi Tư Sung.
Khoảng 11 giờ trưa,
ông chủ thầu đến. Tư Sung và chú Cải lễ phép:
“Chào ông.”
Ông Hai Vị, ông
chủ, đi quanh “công trường làm việc” xem xét. Ông giở giấy tờ trong “cạc táp”
ra coi để xem công việc đã được đến đâu. Ông tỏ vẻ hài lòng. Hai người thợ này
và hai thằng phụ hồ làm cũng khá. Công tác này có thể chỉ hơn tháng nữa là
xong. Ông quay lại chỗ Tư Sung, chú Cải và phụ hồ đang làm:
“Nhớ cái bếp mỗi
bề chỉ có 3m, trên lợp tôn nghe không?”
“Dạ, chúng tôi
nhớ” Tư Sung trả lời.
“À, có anh nào
biết ai lái được taxi không?”
Tư Sung hỏi:
“Để làm gì, thưa
ông chủ?”
“Tôi cần mướn gấp
một người lái xe taxi thạo nghề.”
Chú Cải nói:
“Thưa ông chủ, hồi
chế độ cũ, tôi là lái xe cho quân đội. Tôi có bằng lái xe con và xe vận tải nặng.”
Hai Vị ngạc
nhiên nhìn chú Cải:
“Anh lái xe đã
bao nhiêu năm?”
“Thưa ông, tôi
có gần 10 năm.”
“Đã xẩy ra tai nạn
xe cộ bao giờ chưa?”
“Thưa chưa.”
“Anh lái được
taxi không?”
“Thưa ông, tôi
nghĩ là được.”
“Vậy chiều nay
lúc về anh ghé vào văn phòng tôi nha.”
“Dạ.”
Chiều hôm đó Tư
Sung đạp xe về một mình còn chú Cải leo xe buýt lên văn phòng của ông chủ thầu.
Chú Cải có việc lái taxi từ thứ hai sau.
###
Anh Hiến làm
công việc lái taxi cho công ty Hải Dương 3 này đã được gần hai năm. Nghề taxi
thuê xe chạy kiếm tiền bất chợt lắm, lúc đắt thì kiếm khá, lúc ế thì rất kém,
có khi ế quá chỉ đủ tiền xăng. Tài xế có tư sản như người anh rể của Hiến, mua
hẳn một chiếc rồi chạy lấy, kiếm ăn khá. Ở Việt Nam không cho trả góp chứ nếu được
thế, anh Hiến nghĩ, anh cũng mua một chiếc như xưa kia anh đã có chiếc xe Lam
ba bánh và chạy xe Lam một thời gian.
Taxi không bao
giờ giữ nhiều tiền trong túi, đó là phương châm, được kẻ chữ cả trên kính hông
và kính hậu xe. Mục đích cho kẻ gian nản lòng vì tài xế taxi không giữ tiền nhiều.
Ấy vậy mà tai nạn vẫn xẩy ra.
Bữa đó anh Hiến
vẫn làm việc như mọi khi. Khi anh đang đi trên đường Hai Bà Trưng, Phú Nhuận
thì có một đám thanh niên 3 người ăn mặc bảnh bao vẫy. Thường anh thấy đám
thanh niên nào mặt mày dữ tợn, quần áo cao bồi, dáng điệu khả nghi không phải
là người tốt thì anh Hiến coi như không thấy, anh tỉnh bơ lái đi. Lần này trông
ba thanh niên mặt mày sáng sủa, có vẻ dân khá tiền vì mặc toàn hàng hiệu có
giá, giầy dép tinh tươm, anh Hiến rà vào lề, anh không nghi ngờ gì hết. Vả lại
sáng giờ anh mới chạy được ba cuốc ngắn, anh cần kiếm thêm tiền trước khi trả
xe.
(còn tiếp)
Bút Xuân Trần Đình
Ngọc
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire