Huyễn hoặc, bí ẩn, huyền thoại… là những từ dùng thiên hạ hay để
chỉ về những vùng đất Tây nguyên. Trong mỗi người, sự kì diệu của Tây
nguyên tạt đến hay dội về mỗi khác. Không rõ bởi một nỗi ám ảnh vô
hình hay sự cuốn hút từ tiền kiếp mà với tôi hễ nhắc đến vùng đất trên
là nghĩ ngay đến những cánh Rừng Ma, cái cõi khác thế giới con người,
không thuộc về người, dù ở trên mặt đất này, với tộc người K’ho gọi
nó là Bộch Cặ, người Mạ gọi Brê Bộch… Không ai làm thân với nó thì tôi
vậy_ tôi tự nhủ với mình nó cũng thuộc về mặt đất thân thương này…
Tây nguyên đang giữa mùa mưa, càng làm cho đường vào vùng sinh sống của
người K’ho, Mạ thêm lầy lội, cách trở; và đối với những cánh rừng ma
càng lẻ loi, hoang vắng đến rợn người. Thiên hạ phần đông không để ý và
không thể yêu nó cũng là lẽ thường, dễ hiểu thôi, vì những chốn thế này
vì ở đó nằm trong sự hoang lạnh tận cùng, có thời điểm chỉ toàn cho cảm
giác về mùi của chết chóc, hôi thối, tởm lợm … Người ta bảo hàng vạn
buôn làng ở nam Tây nguyên là hàng vạn rừng ma; và để lội hết những cánh
rừng ma nói trên có lẽ phải mất đến 5 năm. Đơn giản bởi bao giờ nó
cũng nằm ở giữa rừng già, dưới thung lũng xa, địa bàn hẻo lánh nhất. Tôi
khuyên mình cứ lội tới đâu thì tới, bao giờ thấy sợ thì ra, miễn sao
đừng để thành “ công dân” của rừng ma là được...
VÀO… RỪNG MA
Những nghĩa địa Trả người về với rừng - ảnh Nguyễn Hàng Tình
Rừng ma Bộch N’ho tuộc địa phận xã Bảo Thuận, huyện Di Linh trước mắt
tôi cứ như một thế giới người sống, chỉ khác là không bóng dáng người.
Lẫn giữa những mảnh tàn của rừng già là những khu nhà mồ được người sống
dựng lên cho người chết… ở. Dày đặc những nồi niêu xoong chảo, chén
bát, áo quần, rồi cả những chiếc gùi đang rệu rã, đến cái xà gạt,
chiêng, ché, đồng la, xương thú…đều có mặt, được treo bao quanh những
nấm mộ đang lụi tàn. Có lẽ đó là của cải thuộc quyền sở hữu của người
chết, mà không đâu khác chính gia đình, họ hàng của họ chia phần _theo
phong tục người K’ho, Mạ_ để họ mang theo về thế giới bên kia… xài (?!).
Trong một cánh rừng rộng chừng ba hecta này không biết cơ man nào là
nhà mồ, càng không đếm hết số Goong, Pưng, Yang _người Kinh gọi là ché,
ghè_và những thứ của cải, vật dụng mà chỉ người sống mới có thể sử dụng –
tràn ngập khắp mặt đất, trên cây. Nhìn những nhà mồ to đùng, và những
hố huyệt sâu thẳm với vô số quan tài rêu phong phủ đầy, xếp từng lớp,
dẫu không còn trình tự nữa cũng đủ để nhận định có một tập tục mai tang
chung đã diễn ra ở đây, tất nhiên ai chết trước thì nằm trước. Cảnh
tượng này cho ta dự đoán cộng đồng sơn nguyên này có thể chôn người chết
theo cùng một dòng họ, hoặc cùng một buôn làng. Những khu rừng ma như
thế này đã mấy trăm tuổi ? Không ai có thể trả lời chính xác được câu
hỏi trên, vì chả thấy công trình khoa học nào đi điều nghiên “cõi chết”
của một sắc tộc nhỏ, và cũng chả cơ quan hữu trách nào của chính quyền
rảnh hơi đặt ra tay cho một việc ở trong rừng. Nhưng tôi rằng buôn
B’Sụt _cộng đồng sử dụng rừng ma Bộch N’ho_ sống ngoài khu rừng ma đây
đã định cư dưới dãy núi Bra Yang cao nhất cao nguyên Di Linh này cách
đây khoảng 200 năm. Dĩ nhiên, trải qua bao đời rồi dân buôn B’Sụt vẫn
chỉ chôn người chết của làng ở rừng ma thân thuộc này. Có nghĩa rằng
dưới lòng đất sâu của rừng Bộch N’ho có tầng tầng lớp lớp người đã
khuất, và… tầng tầng lớp lớp những của cải, hiện vật đi theo người chết.
Cõi chết người sơn cước K’ho coi vậy mà thật hơn, dễ hiểu hơn cõi sống
của người sống trong các thành phố, khi mọi thứ cứ bày biện ra rõ ràng
và không có tranh chấp, mộ to mộ nhỏ, bôi trét màu mè tứ tung lên đô
thị. Ai giã biệt trần gian là chan hòa trong màu nâu thậm, dần dà hòa
vào màu xanh của cây lá tự nhiên. Chả có bia mộ, tức chẳng ai để tên
người chết lên bia, chả ai lưu danh muôn đời, và chả làm phiền người
sống phải nghỉ đến ngày họ chết, thậm chí tư tưởng chung là… quên luôn
người đã khuất. Triết lý sống chết thế thật hòa thuận với thiên nhiên,
trả nợ trần gian vì đã cho xuất hiện và tá túc một thời gian, đơn giản,
nhẹ tênh. Đó là văn minh hay lập bia mộ, lăng tẩm khi giã biệt trần thế
mới văn minh nhỉ (!?)
*
Mưa càng về chiều càng to hơn, những con vắt rừng _một loài động vật họ
côn trùng nhiễm thể hút máu người_ búng đầy mặt đất, buộc tôi phải bó
quần chặt hơn và bôi thêm thuốc DEP vào chân tay. Cũng phải mất nhiều
máu rồi, cho nhiều lần đi rừng, thì lần nay tôi mới sáng mắt mà “vũ
trang” theo được chai thuốc DEP này đấy. Tuy nhiên vắt lại không ngại,
mà nhìn cảnh những dây leo từu những cây cổ thụ phủ xuống những căn nhà
mồ, là âm khí bao vây cả một cánh rừng vắng lạnh tôi chợt thấy rờn rợn.
Và đặc biệt hơn là cảm giác tâm linh , cảm nhận từ thứ tập tục hủ tục
đang bao vây kia là sự tiếc rẻ, xót xa trước những vật thể văn hóa buộc
phải “chết” theo người chết, như chiêng, ché, đồng la, ngà voi… mà mỗi
thứ có khi giá trị đến hàng chục con trâu, mà thậm chí không phải hễ có
nhiều trâu là đổi được.
Không chỉ có rừng ma Bộch N’ho mà nay các buôn Hàng Uông, Hàng Piơr, Ta
Cy… dưới chân dãy Pra Yang kia cũng đều còn các rừng ma, hoang vu
không kém, như Bộch Trwel, Bộch Lũ Sơk…
*
Tạm biệt Bảo Thuận, những ngày tiếp theo, ba lô, máy ảnh và bánh mì
trên vai, tôi tiếp tục hành trình khám phá những cánh rừng dành cho
người chết trên cao nguyên Di Linh – nơi ở của sắc dân K’ho bản địa rồi
vùng B’lao, Bảo Lâm – nơi ở của nhóm sắc dân Mạ. Nếu như ở Đinh Trang
Thượng, Tân Thượng, Sơn Điền, Gia Bắc (Di Linh) những rừng ma vẫn trú
ngụ giữa rừng già thì ở Đinh Lạc, Gung Vè, Liên Đầm… hàng chục rừng ma
đã bị đẩy ra giữa những nông trại cà phê, trà bao la, mà khi nhìn theo
chỉ thấy nó như những dấu chấm hỏi lẻ loi, hoặc chứng minh vùng này vùng
kia trước đây từng là rừng già bao la. Đó là số phận rừng ma ở Tơp Bộch
ở buôn Đong Ho, xã Tân Lạc, rừng ma Bộch BobCa, rừng ma Bộch Bruisre ở
xã Liên Đầm, rừng ma Bộch Rpech ở buôn Hàng Quyệt, xã Đinh Trang Hòa,
rừng ma Bộch Kõn ở buôn N’ring… thuộc huyện Di Linh. Giai đoạn lịch sử
đầu thập niên cuối của thế kỷ 20 này, lâm tặc vẫn còn ít nhiều nhân đức,
khi mà đi cưa hạ gỗ lậu cũng chỉ bao vây chứ chưa tàn bạo đến độ xóa
sổ một cánh rừng ma. Hoặc nữa, biết đâu lâm tặc có sợ người chết nổi
giận thật mà… tránh, không đủ bản lĩnh để làm “ động” rừng. Dĩ nhiên, về
truyền thống, người bản địa K’ho, Mạ, S’tiêng thì không có nghề lâm
tặc, mà chắc nếu có làm sao họ dám đụng vào nơi tiễn biệt những người
thân yêu của họ một thời mặt đất. Nhìn những rừng ma hiện còn này, cũng
ghi nhận những người mở rẫy, mở trang trại cà phê… đã tha cho nó. Lâu
nay ai sống gần những vùng rừng núi trên đất Tây Nguyên này chẳng biết
là chỉ có những đề án khai thác gỗ do chính quyền các cấp lập ra thì
mới “dọn” sạch luôn rừng ma.
“TIỂU SỬ” RỪNG MA
Đây những vật dụng than thuộc của người sống ở nơi dành cho người đã khuất- ảnh Nguyễn Hàng Tình
Già làng K’Đúc, 80 tuổi, người Mạ, ở buôn Đăng T’Đừng, xã Lộc Tân,
huyện Bảo Lâm, nơi có rừng ma Bok Đạr bảo, hỏi rừng ma tồn tại bao nhiêu
năm rồi chẳng khác gì hỏi người Mạ ra đời từ đâu (?!). Già K’Đúc cho
biết từ bao đời nay người Mạ ở buôn làng chỉ làm theo những gì tổ tiên
làm, giống như việc an táng người chết theo quan niệm của người Mạ, vì
nếu để người chết “đi lạc” _ra khỏi rừng ma của cộng đồng buôn_sẽ là tai
họa cho lũ làng. Vì con ma lang thang kia sẽ phá hoại mùa màng, trở về
quậy phá người sống. Cứ đưa người chết _con ma_ vào rừng. Có “qui
hoạch” chỗ cho ma, bởi nguyên tắc là ma không được sinh sống cùng người
sống. Nó phải về theo tổ tiên, ông cha, về với Yàng, mà tại các khu rừng
ma đó sẽ có các cây thần như: Drê (cây đa), cây B’Năng (Dỗi), cây Grech
(kiềng kiềng), nuôi dưỡng linh hồn nó. Còn già làng K’Đeuh, 61 tuổi,
người K’ho, ở buôn B’Sụt, xã Bảo Thuận, huyện Di Linh thì cho hay để
chọn một cánh rừng làm rừng ma phải do người có uy tín và hiểu biết về
sự màu nhiệm của cây cỏ, địa thế đất đai lành, tốt nhất của làng chọn.
Nếu rừng ma mà chọn không hợp lý, đúng ý Yàng thì tai họa sẽ đến với
buôn làng, như mất mùa, bệnh tật. Và dĩ nhiên, người qui hoạch, chọn
chỗ cho ma_thường là già làng: tiếng K’ho gọi là Bàng Bon_ phải chịu
trách nhiệm trước cộng đồng, trước thần linh.
Có lẽ chính về ý nghĩa tâm linh thiêng liêng của rừng ma nên hễ buôn
nào đã có rừng ma thì dẫu lâu đời, xưa cũ, thậm chí xung quanh trụi sạch
rừng họ vẫn cứ mai táng người thân vào đó. Thế còn đồ vật tang theo
người chết, sao nhiều đến thế? Gìa làng K’Đeuh nói rằng, quan niệm
truyền thống của người K’ho: người chết và người sống luôn bình đẳng với
nhau, nên quyền lợi của cải cũng vậy. Phải chia đều. Lúc sống họ cùng
gia đình làm ra thì khi chết gia đình phải mai tang theo để họ… xuống
dưới kia có cái để dùng. Nếu không làm như vậy, người sống không hề
thấy vui mà người chết cũng sẽ tủi thân. Người dân ở buôn Hàng Quyệt,
xã Đinh Trang Hòa kể tôi nghe, ở đây từng có một người đàn ông lúc sống
rất quấn quít với con ngựa của mình, đến lúc ông chết đi gia đình và dân
làng đã dắt con ngựa kia cột bên nhà mồ, cạnh quan tài cho đến khi nó
“đi” theo ông thì thôi.
MA… CŨNG BỊ DỌA
Nhà báo Nguyễn Hàng Tình đang cố để hiểu vì sao các sắc tộc bản
địa tây nguyên phải quên đi Người thân khi đã khuất nên phải sống cùng
những Rừng ma thế này… ảnh Nguyễn Hàng Tình
Anh Molom Vinh (người K’ho) ở buôn N’joong, huyện Di Linh kể, mới tuần
trước người chồng của bà cô họ chết đi, theo đó hai chiếc chiêng cuối
cùng, một vật báu lâu đời của dòng họ đã phải “ra đi” theo ông dượng, vì
phải chôn theo cho người chết vui lòng. Theo lời anh Vinh thì hai chiếc
chiêng kia là vô giá, vì giờ đây không tìm đâu ra, đó cũng là những
chiếc chiêng cổ cuối cùng của buôn N’joong này.
*
Vì thương yêu người chết, “tôn trọng” con ma, người K’ho, Mạ ở nam Tây
nguyên sẵn sàng mai tang tự nhiên theo họ những gì quí nhất, nhiều nhất,
nói chung là hết mình và… hết của cũng vì người chết. Chỉ vào chiếc
Goong cổ tổ tiên sắm được_có thể đổi được nhiều ngựa, trâu, lúa gạo…_
nghe đâu từ thời người Chiêm Thành tiến đánh xứ Thượng (tức khoảng thế
kỷ 13- 14) bà Ka Sẹt, 60 tuổi, người K’ho, ở buôn B’Sụt, Di Linh bảo:
khi bà chết đi, chắc chắn ông K’Bròn chồng bà và con cháu sẽ mai táng nó
theo bà. Bà không cản, hoặc dặn trước họ đừng làm thế, vì mọi thứ trong
cộng đồng đã thành lệ, diễn ra tự nhiên.
Vì vậy mà tôi hiểu vì sao quá nhiều chiêng ché… nằm lăn lóc, tầng tầng
lớp lớp trong những rừng ma. Molom Vinh từng thừa nhận với tôi rằng nhà
giàu có và khá giả thì chôn nhiều của cải cho người chết, kể cả ngà voi,
những chuỗi hạt hổ phách_mua của người Chàm xa xưa_, bạc vàng càng
nhiều tang chủ càng thấy sướng, vui. Nếu gia đình nào nghèo, thì cũng
một chiêng một ché, một trống, một gùi, một xà gạt… Đồng bào K’ho, Mạ ở
xứ sở nam Tây nguyên thật ra chẳng phải là giàu mà đem lòng rộng rãi với
người chết. Tất cả chỉ vì tập tục _ một tập tục mà đứng trên phương
diện hiện sinh rõ là cực kỳ lãng phí và làm khổ người sống. Người ta
chắc chắn sẽ không hiểu hết giá trị ở góc nhìn văn hóa hay di sản từ
những chiếc chiêng ché cổ xưa kia, mà đơn giản chỉ nghĩ nó quí vì nó là
của cha ông bao đời để lại. Tuy nhiên, dẫu có là bảo vật, nhưng thêm
một người chết tức lại một chiếc chiêng (ching), chiếc ché (Drắp, srô-
lùng, tiếng K’ho; tằng cộ, tiếng Mạ)… phải ra đi.
*
Như bất kỳ một người bình thường nào, tôi chợt thấy mình có sứ phận
cho những khu rừng ma hàng trăm năm tuổi kia. Ai đếm được hàng trăm năm
hình thành, với bao thế hệ người K’ho, Mạ chết đi… đã có bao nhiêu cổ
vật đang trú ngụ dưới những tầng đất mà người đời quen gọi là nghĩa địa
ma, rừng bỏ đi đó. Rõ ràng, với những rừng ma ở xứ nam Tây nguyên thế
này, không thể xem như những nghĩa địa thông thường. Vì như Molom Vinh
đã than trách là mộ ông nội anh, cô và cha anh, đã bị những tay săn cổ
vật “từ trên trời rơi xuống”- bao đời nay trong những khu rừng ma của
người K’ho chưa hề có tình trạng này- tấn công, quật lên. Còn trưởng
công an xã Bảo Thuận, anh Pô prong Siêu thì cho biết, những khu rừng ma ở
Bảo Thuận thời gian qua xuất hiện nhiều kẻ lạ mặt xâm nhập… Tất cả
gióng lên một điều rằng đang diễn ra sự phá vỡ cấu trúc an lành của xã
hội cộng đồng sơn cước, khi chỉ cần nhìn vào hệ thống những khu nghĩa
địa lâu đời của người K’ho, Mạ thiểu số ở nam Tây nguyên qua cảnh trạng
quấy động và cướp của.
Đang đặt trong tình trạng báo động về sự an toàn. Những người K’ho ở
các buôn làng nơi tôi đi qua còn kể không chỉ có người Kinh, người từ
các nơi đến xâm nhập trái phép vào rừng ma, mà gần đây đã thấy nhiều
thanh niên K’ho bất ngờ trở thành “vệ tinh” cho những kẻ săn lùng cổ vật
ở rừng ma. Rằng trước đây, không một người K’ho, Mạ nào dám làm chuyện
động Yàng này, vì đụng đến chốn linh thiêng, đến điều cấm kỵ nhất. Nhưng Yàng ạ, Ma nào mà sống nổi với con người, nhất là giống người không hiểu rừng, cố tình không không biết mình từ đâu mà ra, tan vào đâu !
Theo quan niệm truyền thống của người K’ho, Mạ bao đời nay, tất cả của
cải, hiện vật đã đưa vào rừng ma là thuộc về người chết, người sống hết
trách nhiệm, không được can thiệp…. Ấy thế mà nay, thì họ đã bất ngờ
chột dạ, xót xa, tiếc rẻ. Không can thiệp vào những gì diễn ra ở các khu
rừng ma lâu đời, nhưng gần đây, bỗng họ tìm cách đối phó trước những
kẻ săn lùng cổ vật: đập cho nó sứt mẻ (điều này gây nên những hư hỏng cổ
vật!) chiêng, ché… khi chia phần cho người chết, vì họ tin như thế có
thể làm “nản lòng” những kẻ ăn trộm.
Mà nản được không, khi ta vẫn thường thấy cổ vật ở nhà những kẻ chơi cổ
vật, các cuộc triển lãm, đến các bảo tàng… khối gì những bảo vật vô
giá là thứ mất chân, mất đầu, khuyết lõm, nứt mẻ… Những cánh rừng ma
đang bắt đầu tuôn máu. Có ai muốn cứu lấy những khu nghĩa địa lạc lõng
giữa đại ngàn này không nhỉ !?. Rồi chợt cảm nhận về một cõi chết nhẹ
tênh thuận theo thiên nhiên như thế./.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire