Nguồn: SB-TN (10/21/2012)
http://safeshare.tv/w/qNesuycytG
Tin
Saigon - Nhà thơ Tô Kiều Ngân, một trong những người đồng sáng lập ban
thi văn Tao Đàn trên đài phát thanh Saigon năm 1955, vừa qua đời ngày
hôm qua tại Saigon, hường thọ 86 tuổi. Nhà thơ Tô Kiều Ngân thế danh Lê Mộng Ngân,
sinh năm 1926 tại Huế. Ông bắt đầu sinh hoạt văn nghệ từ năm 1948. Tác
phẩm đầu tiên của ông là kịch thơ 4 màn Ngã Ba Đường do ban kịch Sông Ô
trình diễn trên sân khấu Huế. Năm 1950, Tô Kiều Ngân gia nhập quân đội.
Năm 1952 ông đưa gia đình vào Nam. Tại đây, ông lần lượt viết cho các
báo Đời Mới, Người Sống Mới, đồng thời cộng tác với một vài tờ báo xuất
bản tại Hà Nội như Hồ Gươm, Giác Ngộ.
Năm 1955 ông
cùng Đinh Hùng và vài người nữa thành lập ban thi văn Tao Đàn trên đài
phát thanh Saigon. Sau đó, ông cùng Thanh Nam chủ trương tuần báo Thẩm
Mỹ, rồi cộng tác với Sáng Tạo, Văn Nghệ Tiền Phong, Tiểu Thuyết Tuần San
và nhiều tờ báo khác. Về mặt quân đội, có thời ông làm chủ bút tờ Quân
Đội bán nguyệt san, đồng thời chủ trương biên tập nguyệt san Văn Nghệ
Chiến Sĩ của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Theo cáo phó của gia đình, linh
cữu nhà thơ được quàn tại tư gia ở quận Bình Thạnh. Lễ động quan vào
ngày 24 tháng 10 và sau đó sẽ hỏa táng tại nghĩa trang Bình Hưng Hòa.
Trước bàn thờ và linh cữu của nhà thơ Tô Kiều Ngân (ảnh: Văn Quang)
> Tang Lễ nhà thơ Tô Kiều Ngân (youtube) - Lê Xuân Thìn
> Bộ hình ảnh Tang Lễ - Lê Xuân Thìn
Nhà thơ Tô Kiều Ngân - từ đời lính đến Tao Đàn
Văn Quang – Viết từ Sài Gòn
Thi sĩ Tô Kiều Ngân Lâu
lắm rồi, tôi không gặp anh Tô Kiều Ngân, mặc dù chúng tôi cùng ở chung
một thành phố Sài Gòn. Được tin anh từ trần vào ngày 20-10 vừa qua khiến
tôi ngỡ ngàng. Sau khi xác nhận, tôi gọi điện thoại cho Huy Sơn ở Mỹ
trước tiên vì Huy Sơn và Tô Kiều Ngân cùng tôi từng có thời gian dài
cùng làm việc trong tòa soạn 3 tờ báo của Quân Đội là Bán nguyệt san
Chiến Sĩ Cộng Hòa, Nguyệt san Phụng Sự và tuần báo Thông Tin Chiến Sĩ.
Sau này Huy Sơn được chuyển sang Bộ Tư Lệnh Không Quân làm tờ báo Lý Tưởng với Hoàng Song Liêm. Huy Sơn, sau khi ở tù cải tạo ra, đi Mỹ theo diện HO.
Tô Kiều Ngân và tôi không đi theo diện HO, mỗi người có một lý do riêng. Tô Kiều Ngân ở lại, có gia đình vợ con, có nhà cửa đàng hoàng. Còn tôi lông bông ở trọ, ở chui hết trong chợ Bàn Cờ đến Trương Minh Giảng rồi đến chợ An Đông, cuối cùng về cái chung cư Nguyễn Thiện Thuật và là “dân ABC đi ở thuê” với bốn năm cái “không”. Vợ con đi tuốt hết nên trở thành độc thân thứ thiệt, không đồng xu dính túi, không bạn bè, không nghề ngỗng gì mặc dù qua 12 năm, 2 tháng 26 ngày ở “trại cải tạo”, tôi trồng rau muống rất giỏi. Khối đội phải nhờ tôi đến gieo hạt rau muống cho khu ruộng mới. Tôi gieo hạt đều lắm và… có tay nên ruộng nào cũng tốt. Thế mà về Sài Gòn thất nghiệp nặng. Tôi cứ nhìn mấy cái hè phố mới được đào xới lên để lát gạch mới, và ước ao rằng chỗ đó cho tôi trồng rau muống thì thành phố không thiếu rau. Cái ước mơ thật ngu xuẩn, vậy mà khi còn ở trong cái gọi là “trại cải tạo”, đôi khi tôi lại cho điều đó có thể thành sự thật! Bởi 12 năm, người ta dạy chúng tôi được có thế thôi và thành phố vào những năm đó toàn dép lốp, nón cối làm chuẩn thì việc trồng rau ở hè phố gọi là “tăng gia sản xuất” cũng có thể được lắm chứ. Hè phố là một sự “lãng phí của bọn tư sản”. Ý nghĩ chưa hẳn là hoàn toàn ngu xuẩn.
Tôi không rõ anh Tô Kiều Ngân được tha về năm nào và cũng không biết anh ở đâu. Cái ngõ Phan Văn Trị, nơi anh ở trước kia, tôi có đến một hai lần, nhưng không chắc anh còn ở đó không. Sau này tôi mới biết tin anh ở mạn Bình Thạnh và rất ít khi lên trung tâm thành phố gặp bạn bè. Anh có những nơi vui chơi riêng ở miền “ngoại ô”. Cho đến khi vợ chồng anh Trần Thiện Hiệp tổ chức kỷ niệm lễ thành hôn vàng bạc 40 hay 50 năm gì đó, khoảng năm 2007-2008 tôi mới gặp lại Tô Kiều Ngân. Anh có vẻ khỏe mạnh hơn lần cuối chúng tôi gặp nhau trong “trại cải tạo” ở Sơn La, vào khoảng năm 1977-78.
Sau này Huy Sơn được chuyển sang Bộ Tư Lệnh Không Quân làm tờ báo Lý Tưởng với Hoàng Song Liêm. Huy Sơn, sau khi ở tù cải tạo ra, đi Mỹ theo diện HO.
Tô Kiều Ngân và tôi không đi theo diện HO, mỗi người có một lý do riêng. Tô Kiều Ngân ở lại, có gia đình vợ con, có nhà cửa đàng hoàng. Còn tôi lông bông ở trọ, ở chui hết trong chợ Bàn Cờ đến Trương Minh Giảng rồi đến chợ An Đông, cuối cùng về cái chung cư Nguyễn Thiện Thuật và là “dân ABC đi ở thuê” với bốn năm cái “không”. Vợ con đi tuốt hết nên trở thành độc thân thứ thiệt, không đồng xu dính túi, không bạn bè, không nghề ngỗng gì mặc dù qua 12 năm, 2 tháng 26 ngày ở “trại cải tạo”, tôi trồng rau muống rất giỏi. Khối đội phải nhờ tôi đến gieo hạt rau muống cho khu ruộng mới. Tôi gieo hạt đều lắm và… có tay nên ruộng nào cũng tốt. Thế mà về Sài Gòn thất nghiệp nặng. Tôi cứ nhìn mấy cái hè phố mới được đào xới lên để lát gạch mới, và ước ao rằng chỗ đó cho tôi trồng rau muống thì thành phố không thiếu rau. Cái ước mơ thật ngu xuẩn, vậy mà khi còn ở trong cái gọi là “trại cải tạo”, đôi khi tôi lại cho điều đó có thể thành sự thật! Bởi 12 năm, người ta dạy chúng tôi được có thế thôi và thành phố vào những năm đó toàn dép lốp, nón cối làm chuẩn thì việc trồng rau ở hè phố gọi là “tăng gia sản xuất” cũng có thể được lắm chứ. Hè phố là một sự “lãng phí của bọn tư sản”. Ý nghĩ chưa hẳn là hoàn toàn ngu xuẩn.
Tôi không rõ anh Tô Kiều Ngân được tha về năm nào và cũng không biết anh ở đâu. Cái ngõ Phan Văn Trị, nơi anh ở trước kia, tôi có đến một hai lần, nhưng không chắc anh còn ở đó không. Sau này tôi mới biết tin anh ở mạn Bình Thạnh và rất ít khi lên trung tâm thành phố gặp bạn bè. Anh có những nơi vui chơi riêng ở miền “ngoại ô”. Cho đến khi vợ chồng anh Trần Thiện Hiệp tổ chức kỷ niệm lễ thành hôn vàng bạc 40 hay 50 năm gì đó, khoảng năm 2007-2008 tôi mới gặp lại Tô Kiều Ngân. Anh có vẻ khỏe mạnh hơn lần cuối chúng tôi gặp nhau trong “trại cải tạo” ở Sơn La, vào khoảng năm 1977-78.
Mừng cho người chết trong nhà tù “cải tạo”Anh
Tô Kiều Ngân không ở cùng trại tù với tôi, anh đi “lao động” bị ngã gãy
tay, phải đưa về trạm xá gần trại giam tôi ở từ năm 1976 khi được đưa
ra Sơn La “học tập”. Dịp đó, nhạc sĩ Thục Vũ, tên thật là Vũ Văn Sâm, ở
cùng đội trồng rau với tôi, anh bị đau gan đến vàng mắt. Ban đầu còn
được ở lại trại, không phải đi lao động. Tôi có nhiệm vụ “thó” một ít
rau sống, cung cấp cho anh hàng ngày. Nhưng khi bệnh tình quá nặng, Thục
Vũ được đưa sang bệnh xá. Nói là bệnh xá, chứ ở đây cũng chẳng có thuốc
men gì chữa chạy cho bệnh nhân. Thậm chí mỗi lần lên khám bệnh xong,
anh y tá bôi cho tí dầu cù là vào tay rồi bảo về uống đi hoặc nằm ngửa
cổ ra để “cán bộ y tế” nhỏ cho vài giọt nước củ tỏi vào mũi. Thế là
xong. Bệnh nhân nặng chỉ còn việc nằm chờ chết. Thục Vũ cũng ở trong
trường hợp ấy.
Một buổi sáng sớm, tôi đang lúi húi trồng luống xu hào, bỗng thấy bên mình có cái gì kêu phần phật. Từ từ ngước lên, tôi thấy một mảnh quần trây-di rách bị gió thổi bay lắc lư làm nên tiếng động nghe cũng… vui tai. Tôi nhận ra ông Phan Lạc Phúc, khoác chiếc áo trây di cũng tả tơi “đồng bộ” với cái quần rách. Nước mắt ông Phúc chảy rất chậm trên mặt, ông nghẹn ngào cất tiếng:
- Thằng Sâm chết ở bệnh xá đêm qua rồi.
Tôi lặng người, bởi mới hôm qua, tôi lẻn sang bệnh xá thăm, Thục Vũ đưa cho tôi hai gói thuốc lào nhỏ, anh nói: “Tôi mệt không hút thuốc được nữa”. Ngồi nói chuyện vài phút, anh Tô Kiều Ngân ở trạm xá này cũng đến ngồi chơi. Tôi thấy Thục Vũ vẫn còn khỏe, vậy mà đêm qua đã ra đi.
Sau đó, anh Tô Kiều Ngân nói với tôi lời an ủi đúng nhất, ngắn nhất và cũng bi thảm nhất: “Mừng cho nó, từ nay nó không còn biết đói rét và không ai hành hạ được nó nữa”.
Một buổi sáng sớm, tôi đang lúi húi trồng luống xu hào, bỗng thấy bên mình có cái gì kêu phần phật. Từ từ ngước lên, tôi thấy một mảnh quần trây-di rách bị gió thổi bay lắc lư làm nên tiếng động nghe cũng… vui tai. Tôi nhận ra ông Phan Lạc Phúc, khoác chiếc áo trây di cũng tả tơi “đồng bộ” với cái quần rách. Nước mắt ông Phúc chảy rất chậm trên mặt, ông nghẹn ngào cất tiếng:
- Thằng Sâm chết ở bệnh xá đêm qua rồi.
Tôi lặng người, bởi mới hôm qua, tôi lẻn sang bệnh xá thăm, Thục Vũ đưa cho tôi hai gói thuốc lào nhỏ, anh nói: “Tôi mệt không hút thuốc được nữa”. Ngồi nói chuyện vài phút, anh Tô Kiều Ngân ở trạm xá này cũng đến ngồi chơi. Tôi thấy Thục Vũ vẫn còn khỏe, vậy mà đêm qua đã ra đi.
Sau đó, anh Tô Kiều Ngân nói với tôi lời an ủi đúng nhất, ngắn nhất và cũng bi thảm nhất: “Mừng cho nó, từ nay nó không còn biết đói rét và không ai hành hạ được nó nữa”.
Đám tang Thục Vũ, hình ảnh bi thảm nhất trong cuộc đời chúng tôiNhưng vào buổi chiều năm 1977, khi đồi núi Sơn La bắt đầu chạng vạng, chúng tôi đang làm những công việc cuối cùng ở vườn rau thì bất chợt nhìn sang lối ra từ bệnh xá một khung cảnh hết sức đau lòng. Trên con đường đá cũ nhỏ, vòng theo sườn núi cao vút chập chùng, cách vườn rau là cái ao, đám tang bắt đầu di chuyển chậm chạp. Hai anh cai tù vác súng AK đi đầu, theo sau là một anh tù cầm vài nén nhang, đến 4 anh tù khiêng cỗ quan tài mộc, sau cùng lại là 2 anh cai tù vác súng AK. Suốt con đường dài âm u đó, chỉ có đám người ấy lặng lẽ chuyển động như những bóng ma.
Ở vùng đồi núi bóng tối đổ xuống rất nhanh, mang theo sương mù mỏng dăng ngang triền dốc dựng đứng như những bức tường đá của nhà giam thiên nhiên, chẳng cách nào thoát ra được. Chúng tôi biết chắc đó là đám ma Vũ Văn Sâm tức nhạc sĩ Thục Vũ. Tất cả hơn ba chục tù nhân trong đội rau đứng ngẩn ra, dán mắt nhìn theo cái đám ma thê thảm ấy. Ông Phan Lạc Phúc, đến bên tôi, không nói lời nào, quay mặt đi giấu nước mắt. Nhìn sang phía bên trạm xá, Tô Kiều Ngân và mấy anh bác sĩ trẻ cũng là tù, đứng sau hàng rào kẽm gai cũng ngơ ngẩn. Ngân vẫy tay cho tôi và anh Phan Lạc Phúc chẳng biết để làm gì. Là một sự cảm thông tận cùng hay nói lời từ biệt.
Mấy tay coi tù cũng đứng lặng, nhìn chúng tôi và họ hiểu rằng lúc đó dù bắt chúng tôi thu dụng cụ về trại cũng chẳng ai chịu về, dù có bị bắn tại chỗ. Tất cả đứng như tượng gỗ dõi theo đám tang đi trong buổi hoàng hôn lạnh ngắt, dần khuất vào cuối con đường cong phía chân núi. Sương mù bắt đầu tỏa xuống. Ai đó bỗng cất lên tiếng hát “Sơn La âm u núi khuất trong sương mù. Đoàn tù tha hương cất bước lê trên đường…”. Một bài hát xưa cũ của những nhà cách mạng thương tiếc những chiến sĩ bị giặc bắt cầm tù ở Sơn La. Sao lúc này nó hợp với chúng tôi thế.
Hình ảnh cái đám ma Thục Vũ còn in đậm trong tâm khảm chúng tôi cho đến bây giờ. Tôi chắc anh Tô Kiều Ngân, đến cuối đời cũng chưa quên được hình ảnh này. Nó trở thành những kỷ niệm rất riêng nhưng cũng lại rất chung của những ai đã từng sống dở chết dở qua những cái được gọi là “trại cải tạo”.
Tô Kiều Ngân và cuộc đời binh nghiệpCó lẽ nhiều thính giả và độc giả biết đến anh Tô Kiều Ngân qua “Tiếng sáo Tao đàn” hơn là biết đến “đời lính” của anh. Tôi thì khác, tôi biết anh từ khi cùng làm chung trong mấy tờ báo của quân đội.
Trở lại chuyện xưa, khi tôi mới được lệnh về Nha Chiến Tranh Tâm Lý lúc đó còn trực thuộc Bộ Quốc Phòng, (sau này mới đổi tên thành Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu), từ năm 1957, khi tôi bắt đầu về làm Trưởng Ban Báo Chí (hồi đó chưa được gọi là Phòng), tôi phụ trách điều hành chung. Hồi đó anh Tô Kiều Ngân phụ trách tờ báo có tên là “Quân Đội”, sau này cụ Ngô Đình Nhu yêu cầu đổi tên, nên chúng tôi đề nghị và được chấp thuận đổi tên thành báo “Chiến Sĩ Cộng Hòa”, ra nửa tháng một kỳ. Báo dành chung cho mọi quân nhân. Tờ nguyệt san Phụng Sự, dành cho sĩ quan do anh Huy Sơn phụ trách. Tòa soạn vỏn vẹn chỉ có chừng 10 người, bởi việc in ấn đã do nhà thầu đảm nhiệm hàng năm. Chúng tôi chịu trách nhiệm biên tập phần nội dung. Ngoài 3 người chúng tôi còn các anh Viêm Hồng, Lý Quảng, Phy Phy… Sau này, khi Cục Tâm Lý Chiến về đường Hồng Thập Tự mới có thêm Huy Vân, Tường Linh, Vũ Công Uẩn. Rồi còn có cả anh Đỗ Tốn, tác giả “Hoa Vông Vang” trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, cũng về làm việc tại Ban Báo Chí. Nhưng ông “công tử con quan” đó chỉ đến cho có mặt rồi lại phóng xe đi. Anh lớn tuổi và cũng là nhà văn thuộc hệ đàn anh, vả lại anh về đó chẳng còn bao lâu đến ngày giải ngũ. Sau nữa có thêm Thanh Nam tái ngũ về làm báo CSCH cùng chúng tôi.
Khi mới bước chân vào “nghề làm báo” tôi chỉ là anh viết lách, chưa hề quen với nghề nghiệp này. Công việc mới tuy có thích hợp với khả năng và mong đợi của tôi, nhưng thật ra nghề làm báo chẳng giống nghề viết lách tí nào. Nghề đọc văn người khác, chọn bài và sửa bài không dễ dàng.
Bạn có biết bài học đầu tiên trong nghề làm báo của tôi là gì không? Đó là nghề sửa morrasse, tức là làm “thầy cò”. Những năm ấy, tất cả báo chí VN còn in typo, sắp chữ bằng tay rồi làm bản kẽm, hình ảnh làm clicher cho vào khuôn. Báo Quân Đội không phải kiểm duyệt nên không bị “đục bỏ”. Tuy nhiên làm thầy cò cũng không dễ. Phải biết các ký hiệu thay thế chữ nghĩa. Ngoài ra còn phải biết “dàn trang”, biết trình bày từng bài dài ngắn sao cho đúng khuôn khổ tờ báo... Đó là chút xíu về “kỹ thuật” mà tôi phải học qua các anh Tô Kiều Ngân và Huy Sơn. Tôi và hai anh ấy cùng sửa morrasse, nhưng đến dernière morrasse cho nhà in chạy máy thì tôi phải ký.
Tô Kiều Ngân rời khỏi báo Quân ĐộiCuộc đời binh nghiệp của Tô Kiều Ngân khởi thủy từ khi làm tờ báo Tiếng Kèn của Địa Phương Quân ngoài Huế. Năm 1953, anh được đồng hóa vào quân đội và đưa gia đình từ Huế vào Saigon.
Chúng tôi cùng làm chung trong Ban Báo Chí từ năm 1957, lúc đó anh mang cấp chuẩn úy. Cho đến khi dọn về Hồng Thập Tự, gần cầu Thị Nghè. Một năm sau, tôi được lệnh đi Quân Khu 3 thành lập Đại Đội Văn Nghệ cho quân khu này dưới quyền tướng Đỗ Cao Trí. Đại đội này có cả sự đóng góp rất quan trọng của nhạc sĩ Anh Bằng.
Khi Đại đội thành lập xong, đi trình diễn được ở các tỉnh thuộc quân khu, tôi trở lại Nha CTTL. Lúc đó Phòng Tài Liệu do anh Vũ Quang Ninh làm trưởng phòng đang thu thập tài liệu để làm cuốn “Trăm hoa đua nở” về vụ án “Nhân văn giai phẩm tại miền Bắc”. Tôi lại được lệnh về đây phụ giúp anh Ninh thu thập và phân tích những tài liệu này.
Bỗng một buổi sáng, vào khoảng năm 1960, tôi được lệnh trở lại Ban Báo Chí ngay. Khi trở lại tòa soạn tôi mới biết anh Tô Kiều Ngân vừa được thuyên chuyển đi đơn vị khác, cũng trong ngành Chiến tranh chính trị (CTCT). Quả thật tôi không hề biết vì lý do nào. Có thể vì nhu cầu công vụ và cũng có thể vì những lý do khác. Tôi cũng không thể tìm hiểu rõ hơn.
Anh đến tuổi được giải ngũ năm 1974 khi mang cấp Thiếu Tá phục vụ tại Phòng CTCT Trường Võ Bị Đà Lạt.
Lúc đó, để đáp ứng quân số tăng, quân đội có hơn một triệu quân nhân, tờ báo Chiến Sĩ Cộng Hòa phát hành 200.000 số một kỳ, tính ra mỗi tiểu đội được 1 tờ.
Sau đó vì nhu cầu tin tức chiến trường ngày một cao, chúng tôi phải làm thêm tờ Thông Tin Chiến Sĩ, ra khổ lớn hơn, tuần 1 kỳ gồm 8 trang.
Đến “cuộc chơi” ở Ban Tao ĐànKhoảng thời gian tôi và anh Tô Kiều Ngân làm việc với nhau chừng hơn 3 năm và cũng có khá nhiều kỷ niệm của thời trai trẻ.
Tô Kiều Ngân rất tài hoa và cũng đào hoa, nhưng anh rất it khi đi ăn chơi cùng chúng tôi. Anh hơn tôi đến 6 tuổi và đã có gia đình nên chơi khác với cánh còn “xê li bạt” … Tôi nhớ hồi đó Huy Sơn, Nguyễn Ái Lữ và tôi, còn rách như cái mền, nhưng thứ bảy chủ nhật lại ngứa chân muốn đi nhảy. Ông Nguyễn Ái Lữ hiền như bụt, vài lần rủ Tô Kiều Ngân, anh cũng không chịu đi. Anh dành thì giờ cho ban Tao Đàn.
Đó là khoảng thời gian từ 1957- 1960, anh Tô Kiều Ngân là một trong những nhân vật chủ chốt của Ban Tao Đàn ở Đài Phát Thanh Sài Gòn. Với hơn 20 năm trong cuộc đời quân ngũ (1953-1974) thì Tao Đàn đối với anh chỉ là một cuộc chơi. Nhưng cuộc chơi ấy lại để lại dấu ấn đậm nét nhất, đáng giá nhất trong cuộc đời anh và thi ca VN.
Theo anh Phan Lạc Phúc thì sự khai sinh và công việc của Ban Tao Đàn rất đa dạng. Xin trích lược bài nhận định của anh Phan Lạc Phúc tức ký giả Lô Răng:
Những nhân vật then chốt của Ban Tao Đàn“Người khai sinh và điều khiển chương trình Tao Đàn, như cả nước đều biết, là thi sĩ Đinh Hùng. Chương trình Tao Đàn có thể chia ra làm 3 bộ phận. Bộ phận quan trọng nhất là ban biên tập và diễn đọc gồm Đinh Hùng, Thanh Nam, Thái Thủy; vài năm sau có Huy Quang Vũ Đức Vinh từ Nha Trang vào cộng tác. Bộ phận thứ 2 là ban ca ngâm gồm những tài tử nam, nữ trình diễn thường xuyên hay tùy hứng. Người “đa năng” nhất trong ban Tao Đàn là Tô Kiều Ngân. Anh vừa là tài tử diễn ngâm, vừa biên tập, vừa trong ban nhạc. Tiếng sáo Tô Kiều Ngân réo rắt thường được coi là “indicatif” của Tao Đàn, hợp cùng tiếng đàn thập lục trầm bổng của Bửu Lộc, tiếng piano trầm ấm trước của Ngọc Bích, sau của Phạm Đình Chương. Về giọng ngâm nam ngoài họ Tô, còn có Hoàng Thư; một thời giọng ngâm Thanh Hùng cũng có góp tiếng trên đài. Tô Kiều Ngân tuy giọng không khỏe nhưng anh là người ngâm “khéo” nhất, ngâm giọng Bắc, giọng Trung đều nhuyễn. Hoàng Thư có chất giọng say sưa, mạnh mẽ được đời nhớ mãi trong Bài ca Ngư phủ của Vũ Hoàng Chương. Thanh Hùng với giọng thổ pha kim, xuất sắc trong những tác phẩm bi hùng. Có những giọng ngâm không có mặt lâu năm trên đài nhưng vẫn được đời ghi nhớ như Quách Đàm trong những bài lục bát hay Thiếu Lang trong Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác.
Về giọng ngâm nữ lúc khởi đầu phải nhắc tới cái ngọt ngào của Giáng Hương nhưng các tay sành điệu đều không thể nào quên giọng ngâm đổ hột đặc sắc của bà Đàm Mộng Hoàn, một danh tiếng vang lừng tại Khâm Thiên tiền chiến trong Tỳ bà Hành. Giọng ngâm nữ nhiều năm làm thổn thức trái tim thính giả là Hồ Điệp trong những bài thơ nức nở TTKH. Về sau có một giọng nữ như sương như khói làm khởi sắc những vần ca dao dân tộc và những bài ca huyền sử. Đó là giọng ngâm Hoàng Oanh”. (ngưng trích).
Tiếng sáo của những cảm xúcThật ra Tô Kiều Ngân hoạt động trong nhiều lãnh vực, làm báo, viết văn (tác phẩm đầu tay của anh là tập truyện ngắn “Người đi qua lô cốt”), làm thơ, ngâm thơ, bài sáo anh thổi ở Tao Đàn do chính anh sáng tác và đã xuất bản. Nhưng nổi tiếng nhất vẫn là tiếng sáo Tao Đàn. Bây giờ người ta nhớ đến tài năng tuyệt vời của anh vì tiếng sáo đó và giọng ngâm thơ mang âm điệu Huế hơn tất cả những thứ khác. Nếu so sánh với tiếng sáo của Nguyễn Đình Nghĩa, theo nhận xét của tôi, mỗi người có một cái hay riêng. Tiếng sáo của Tô Kiều Ngân cất lên theo cảm xúc từ bài thơ của tác giả và phong cách của người ngâm thơ nên bay bổng và dễ làm rung động lòng người hơn. Tiếng sáo của Nguyễn Đình Nghĩa hay về bài bản. Nếu anh thổi một bài như Thiên Thai, rất điêu luyện. Nhưng nhiều thính giả vẫn nhớ họ Tô hơn.
Từ biệt Tô Kiều Ngân, người cuối cùng của Tao Đàn ra điNhận được tin Tô Kiều Ngân mất, sau khi điện thoại cho Huy Sơn và Hoàng Song Liêm, tôi gọi cho Hàm Anh (còn có bút danh là Sài Gòn Cô Nương), bởi Hàm Anh là con gái nhà phê bình Thượng sĩ, trước đây ở cùng xóm Phan Văn Trị với gia đình anh Tô Kiều Ngân. Chúng tôi mang vòng hoa tới căn nhà khá đẹp của gia đình anh ở trong một xóm nhỏ thuộc quân Bình Thạnh.
Người đón tiếp chúng tôi rất vồn vã chính là bà quả phụ Tô Kiều Ngân. Nhưng tôi đã đọc cái cáo phó của gia đình trên một tờ báo nước ngoài. Nếu chú ý, bạn sẽ thấy một sự… hơi lạ. Đó là có tới hai bà cùng ký tên chung là vợ. Một bà là Phạm Thị Thìn, một bà là Lê Thị Kim Hoa. Một sự “chính danh” ít thấy trên bản cáo phó nào. Tôi phải ghi lại sự kiện này cho đúng, xin chia buồn đến cả 2 gia đình.
Tôi phải lựa lời khơi gợi lại chuyện cũ xem có đúng bà này là “đệ nhất phu nhân” thời xưa tôi đă gặp không. May quá, đệ nhất phu nhân Tô Kiều Ngân nhận ra tôi ngay. Chị ân cần nắm tay tôi thân thiết. Các con trai, con gái anh, cả dòng trước dòng sau, cũng thân mật như vậy. Con gái lớn của anh (là vợ của nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan, mất cách đây 2 năm) cũng tới thăm hỏi. Tôi có cảm tưởng như gia đình anh và tôi chưa xa nhau bao giờ.
Tôi và cháu Hàm Anh cùng vào trước linh cữu anh, từ biệt người bạn cũ. Anh ra đi là người cuối cùng cộng tác thường xuyên, là trụ cột của ban Tao Đàn. Nhà văn Tạ Quang Khôi tính nhẩm rằng:
- Thi sĩ Đinh Hùng, trưởng ban Tao Đàn của đài phát thanh Saigon, mất năm 1969 vì ung thư bao tử. Hoàng Thư, một giọng ngâm nam rất truyền cảm, mất cách đây khoảng 20 năm ở Saigon. Hồ Điệp mất tích trên đường vượt biên. Thanh Nam qua đời năm 1985 ở Seattle (tiểu bang Washington) vì ung thư cuống họng. Huy Quang Vũ Đức Vinh mất cuối năm 2005 vì bị tai biến mạch máu não trong khi bác sĩ đang giải phẫu để làm by pass (ở Seattle). Thái Thủy ra đi vì ung thư phổi ở Nam Cali cách đây gần 3 năm.
Từ biệt Tô Kiều Ngân, từ biệt nhóm Tao Đàn nhưng tiếng sáo, giọng ngâm của Tao Đàn còn lại mãi trong đời sống thi ca Việt Nam và trong lòng người Việt yêu thơ khắp nơi.
Văn Quang – 26-10-2012
Linh cữu và bàn thờ nhà thơ Tô Kiều Ngân tại nhà riêng 56/7/4 Điện Biên Phủ, Q. Bình Thạnh ngày 23-10-2012.
Bà quả phụ Tô Kiều Ngân và con trai cùng Văn Quang bên bàn thờ nhà thơ Tô Kiều Ngân.
Bạn đọc muốn nghe lại giọng ngâm của nhà thơ Tô Kiều Ngân có thể vào đường dẫn này:
Thơ Áo lụa Hà Đông của Nguyên Sa - Tô Kiều Ngân ngâm
http://www.youtube.com/watch?v=C3E5k60Cvig
Bạn đọc muốn nghe lại giọng ngâm của nhà thơ Tô Kiều Ngân có thể vào đường dẫn này:
Thơ Áo lụa Hà Đông của Nguyên Sa - Tô Kiều Ngân ngâm
http://www.youtube.com/watch?v=C3E5k60Cvig
Xin mời nghe chương trình của đài SBS Radio Úc Châu về ban Tao Đàn, Tiếng Nói Thi Ca Miền Tự Do:
Phần 1:
- Hồi ức của Trần Ngọc Ninh, Văn Quang, Phan Lạc Phúc
- Phỏng Vấn Hoàng Oanh
- “Đi Chùa Hương” thơ: Nguyễn Nhược Pháp - tiếng ngâm Hoàng Oanh
- Hồi ức của Trần Ngọc Ninh, Văn Quang, Phan Lạc Phúc
- Phỏng Vấn Hoàng Oanh
- “Đi Chùa Hương” thơ: Nguyễn Nhược Pháp - tiếng ngâm Hoàng Oanh
Phần 2:
- “Bẽn Lẽn” thơ Hàn Mặc Tử - tiếng ngâm Hồ Điệp ngâm
- Phỏng vấn Nguyễn Đình Toàn
- Hồi ức Thái Thủy
- "Bài Ca Ngư Phủ" thơ: Vũ Hoàng Chương - tiếng ngâm Hoàng Thư
- Hoàng Oanh nói về hoạt động làm việc của ban Tao Đàn
- Nói về Thái Thủy
- “Bẽn Lẽn” thơ Hàn Mặc Tử - tiếng ngâm Hồ Điệp ngâm
- Phỏng vấn Nguyễn Đình Toàn
- Hồi ức Thái Thủy
- "Bài Ca Ngư Phủ" thơ: Vũ Hoàng Chương - tiếng ngâm Hoàng Thư
- Hoàng Oanh nói về hoạt động làm việc của ban Tao Đàn
- Nói về Thái Thủy
Phần 3:
- Phỏng vấn Đoàn Yên Linh
- Phỏng vấn Hoàng Oanh
- Nói về Hoàng Thư, Hồ Điệp
- “Đi Chùa Hương” – thơ Nguyễn Nhược Pháp - tiếng ngâm Hoàng Oanh & Hồ Điệp
- Nói về Tô Kiều Ngân
- “Giọng Huế” - thơ: Tô Kiều Ngân - giọng ngâm Tô Kiều Ngân
- “Phong Kiều Dạ Bạc” - thơ: Trương Kế - giọng ngâm Tô Kiều Ngân
- “Tống Biệt Hành” - thơ: Thâm Tâm - giọng ngâm Tô Kiều Ngân
- Phỏng vấn Đoàn Yên Linh
- Phỏng vấn Hoàng Oanh
- Nói về Hoàng Thư, Hồ Điệp
- “Đi Chùa Hương” – thơ Nguyễn Nhược Pháp - tiếng ngâm Hoàng Oanh & Hồ Điệp
- Nói về Tô Kiều Ngân
- “Giọng Huế” - thơ: Tô Kiều Ngân - giọng ngâm Tô Kiều Ngân
- “Phong Kiều Dạ Bạc” - thơ: Trương Kế - giọng ngâm Tô Kiều Ngân
- “Tống Biệt Hành” - thơ: Thâm Tâm - giọng ngâm Tô Kiều Ngân
Đinh Hùng Thanh Nam Thái Thủy Huy Quang Vũ Đức Vinh
Hồ Điệp Thanh Hùng Hoàng Thư Hoàng Oanh
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương Nhạc sĩ Ngọc Bích
Thủ bút của Thi sĩ Đinh Hùng ký tặng Tô Kiều Ngân
Tống Biệt Hành - thơ: Thâm Tâm - diễn ngâm: Tô Kiều Ngân
Gửi Người Dưới Mộ - thơ: Đinh Hùng - diễn ngâm: Tô Kiều Ngân
Màu Tím Hoa Sim - thơ: Hữu Loan - diễn ngâm: Tô Kiều Ngân
Áo Lụa Hà Đông - thơ: Nguyên Sa - diễn ngâm: Tô Kiều Ngân
Những Con Đường Trắng - thơ: Tô Kiều Ngân; phổ nhạc: Trầm Tử Thiêng Tiếng hát Hoàng Oanh: > MP3 >Youtube
Những Con Đường Trắng
Nhạc: Trầm Tử Thiêng - Lời: thơ Tô Kiều Ngân
Ngày xưa Huế có con đường trắng
Ơi con đường trắng
Áo trắng đơn sơ,
Áo trắng ngây thơ,
Áo trắng như mơ,
Áo trắng học tròNàng Tôn Nữ tóc nghiêng vành nón,
Ơi nghiêng vành nón,
Tiếng guốc khua vang,
Ánh mắt mênh mang,
Ríu rít như chim,
Khắng khít tìm đànCác em đi vàng thu, lá thu bay
Ðường lên trường Ðồng Khánh gió heo may
Tôi đứng chờ bên dòng Hương xanh ngát,
Nghe lòng mình xao xuyến, ngất ngây say ...Hò ... ơ ... ờ ... ơ ... ơ ... í ... í ... i ... à ... ơi
Ngày nay Huế có nhiều con đường trắng
Áo qua Ðông Ba,
Áo về Thượng Tứ,
Áo lên Bến Ngự,
Áo ngược Phú Cam ...Hò ơi, ơi! Ðầu xanh mà ai quấn khăn tang
Mùa xuân chừ héo hắt
Hò ơi Mùa xuân mà héo hắt,
dấu hờn chưa nguôi ...Hò ơi, ơi ...Ngày nay Huế có nhiều con đường trắng
Ơi con đường trắng,
Áo chế thương đau,
nước mắt tuôn mau,
Áo trắng ngây ngây,
Áo trắng lạnh ngườiCòn đâu nữa những con đường trắng,
Những con đường trắng
Cuối phố Ðông Ba,
Áo trắng đi qua,
Áo trắng ngây thơ,
Bóng dáng ngọc ngà ...
Tiếng Chuông Linh Mụ - thơ: Tô Kiều Ngân - phổ nhạc: Hoàng Nguyên
Tiếng hát: Hoàng Oanh & Duy Khánh
ĐINH HÙNG & VŨ HOÀNG CHƯƠNG Tác giả: Tô Kiều Ngân
Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương
Những thi sĩ không… nhà !
Những thi sĩ không… nhà !
Lịch
sử văn học Việt Nam đã ghi nhận tên tuổi họ, nhưng trong biến thiên của
lịch sử dân tộc không ít văn thi sĩ tên tuổi phải chìm nổi cùng vận
mệnh đất nước….Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương là những nhà thơ nổi tiếng
từ hồi “phong trào thơ mới”. Họ đều là những “đại gia” trong làng thơ
nhưng cả hai, không ai tự tạo được cho mình một mái nhà mà suốt đời toàn
đi ở nhà thuê.
Năm 1954, khi vào Sài Gòn, hai người thuê một căn nhà lợp tôn, vách ván tại xóm Hòa Hưng. Vũ Hoàng Chương cùng vợ ở trên gác, dưới nhà là tổ ấm của gia đình Đinh Hùng. Nhị vị này là anh em: Vũ Hoàng Chương lấy chị ruột Đinh Hùng là bà Đinh Thị Thục Oanh nên hai nhà sống chung với nhau trong bước đầu nơi xứ lạ, quê người là điều dễ hiểu.Tuy nhiên thực tế lại rất… khó sống. Quen với cảnh “miếu nguyệt, vườn sương”, “cách tường hoa ảnh động” nay phải giam mình trong căn gác gỗ nóng hầm hập, hơi nóng từ mái tôn phả xuống như muốn luộc chín người,Vũ Hoàng Chương cảm thấy nguồn thơ đang bị nắng Sài Gòn làm cho khô cạn.
Dưới nhà, Đinh Hùng cũng chẳng hơn gì, anh cũng đánh trần ra, vừa quạt, vừa nắm viết “Kỳ Nữ gò Ôn Khâu”, “Đao phủ thành Đại La” cho các nhật báo Sài Gòn thời đó. Ngoài viết tiểu thuyết dài từng kỳ, anh còn vẽ tranh vui và giữ luôn mục “Đàn ngang cung” là mục thơ trào phúng ký tên Thần Đăng.Vũ Hoàng Chương dạy học tại trường Văn Lang. Đinh Hùng viết báo và bình thơ tại Đài phát thanh.Cả hai kiếm tiền không đến nỗi chật vật nhưng cả hai đều không tậu được cho mình một mái ấm là vì họ trót dính đến nàng tiên nâu nên kiếm tiền bao nhiêu đều tan thành mây khói.
Để kiếm một chỗ ở thoải mái hơn họ Đinh và họ Vũ tạm chia tay nhau, mỗi gia đình đi thuê một nơi ở khác.Tác giả “Thơ Say” dọn về chợ Vườn Chuối (đường Nguyễn Đình Chiểu bây giờ).Họ Đinh thì mướn một căn gác hẹp ở xóm lao động gần đường Frères Louis (trước 1975 là đường Võ Tánh, nay là Nguyễn Trãi). Xóm lao động này có ngõ dẫn ra đường Lê Lai.Con đường nằm bên cạnh ga xe lửa Sài Gòn, hồi đó chưa lập thành công viên như bây giờ, quang cảnh còn rất vắng. Chỗ ở mới cũng không hơn gì căn nhà ở xóm Hòa Hưng, chật hẹp, tối tăm, nóng bức.
Mỗi lần xong việc ở đài phát thanh, Đinh Hùng thường rủ chúng tôi về nơi anh ở, không phải ở nhà anh mà là họp nhau tại một quán rượu ở gần nhà, đường Lê Lai.Đường này thường đêm vắng ngắt, có lần uống say, Đinh Hùng cao hứng mở cuộc thi… bò ra đường xem ai bò nhanh. Thế là Thanh Nam, Tô Kiều Ngân, Đinh Hùng, Thái Thủy, Hoàng Thư, Quách Đàm… hăng hái tham gia môn vận động chưa từng diễn ra ở bất cứ vận động trường nào! Bò xong rồi nằm lăn ra đường, vừa đọc thơ, vừa cười.
Ít lâu sau, Đinh Hùng lại đổi nhà. Lần này anh thuê được một căn gác, nhà tường hẳn hoi, tại đường Trần Văn Thạch, gần chợ Tân Định, nay đổi tên là Nguyễn Hữu Cầu.Nhà lợp ngói lại ở mặt tiền nhưng vào nhà chẳng thấy bàn ghế gì, chỉ thấy một chiếc giường nằm chình ình ngay giữa nhà. Trên giường chất chồng đủ thứ: mền gối, sách vở, ấm chén và có một thứ không thể thiếu đó là chiếc bàn đèn thuốc phiện. Đinh Hùng nằm lọt thỏm vào giữa “giang sơn” của anh, vừa “dìu hồn theo cánh khói” vừa tìm ý thơ.Tác giả “Đường vào tình sử” có thói quen nằm mà viết. Anh nằm vắt chân chữ ngũ, đặt tập giấy lên đùi.Có lẽ lâu ngày nên quen, trong tư thế đó, chữ viết anh vẫn bay bướm, rõ ràng, không dập xóa, trang bản thảo nào cũng sạch sẽ, xinh đẹp.
Khi cần đi đâu , họ Đinh lại vớ lấy chiếc sơ mi đã mặc bốn, năm hôm trước, quàng bên ngoài chiếc áo vét cũ, cà vạt đàng hoàng.Tắm ư, chỉ cần vào “toa-let” mở nước ở “la-va-bô”, nhúng đầu vào bồn nước rồi hất lên, chảy xơ qua là xong. Trông Đinh Hùng lúc nào cũng ăn mặc chỉnh tề nhưng đừng ai ngồi quá gần anh, vì anh ít khi… tắm.
Vũ Hoàng Chương lại đổi nhà một lần nữa. Lần này anh mướn nhà ở đường Nguyễn Khắc Nhu, ở gần nhà Bình Nguyên Lộc.Tuy được đi dự Hội nghị Thi Ca quốc tế ở nước ngoài, có thơ dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, tiền kiếm được có thể mua một căn nhà bực trung nhưng họ Vũ vẫn đi ở nhà thuê.
Vào các năm 1973 – 1975, vợ chồng anh được nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội mời về cho ở một căn gác tại toà biệt thự đồ sộ của bà ở đường Nguyễn Trọng Tuyển.Nói là cho ở nhưng họ Vũ phải trả tiền điện, tiền nước và tiền điện thoại. Anh đặt tên chỗ ở mới này là “Gác Mây”.
Nơi đây, tôi và bạn bè đã có lần uống rượu với Vũ Hoàng Chương, nghe anh đọc thơ Tuy Lý Vương và phát hiện ra cái thôn Vỹ Dạ ở Huế đã đi vào thơ Hàn Mạc Tử không phải là Vỹ Dạ mà là Vỹ Dã (cánh đồng lau).
Nhưng rồi Vũ Hoàng Chương cũng không an trú lại “Gác Mây” được bao lâu.
Sài Gòn 75 , bạn bè của chủ nhân Mộng Tuyết vào ra thăm bà tấp nập.Có lẽ thấy sự hiện diện của Vũ Hoàng Chương ở tại nhà mình có sự không tiện nên bà đánh tiếng để họ Vũ dọn đi. Phải đi thôi nhưng phải đi đâu?Thời buổi khó khăn, tiền đâu để đặt cọc, thuê nhà? Anh đành dắt díu vợ con về tá túc tại căn nhà bé bằng bàn tay của bà quả phụ Đinh Hùng bên khu Khánh Hội.
Đinh Hùng ra đi trước Vũ Hoàng Chương. Anh mất vì bệnh ung thư tại bệnh viện Bình Dân, an táng tại nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. Đám tang trọng thể.Thuở sinh thời, Đinh Hùng từng viết trong thơ:
Khi tôi chết các em về đấy nhé
Cảm tấm lòng tri ngộ với nhau xưa
Tay cầm hoa, xoả tóc đến bên mồ…
Điều mong ước đó, kỳ diệu thay lại biến thành hiện thực: trong đám tang của anh người ta thấy có hai chục cô thiếu nữ mặc áo trắng, xỏa tóc, tay cầm hoa lặng lẽ sắp hàng đi theo linh cửu.Họ đến bên mồ và lặng lẽ thả những bó hoa xuồng lòng huyệt, ngậm ngùi tiễn đưa người thi sĩ. Hiện tượng này không do một sự sắp đặt mà do một cảm ứng tự nhiên.
Đinh Hùng mất rồi, vợ anh phải trả căn nhà ở gần chợ Tân Định lại cho chủ.Đang chưa biết ở đâu thì may thay, một vị tướng quân hồi đó, rất yêu thơ mà lại có chức quyền nên đã vận động cấp cho bà quả phụ Đinh Hùng một căn nhà ở khu Khánh Hội.
Bà Đinh Hùng với con trai là Đinh Hoài Ngọc không thể ôm một căn nhà lớn để mà nhịn đói nên đã bán căn nhà đó đi rồi rút lui vào vùng sâu, vùng xa của bến Phạm Thế Hiển lúc đó còn đìu hiu lau lách, dựng một mái chòi để sống qua ngày.
Chính nơi đây, Vũ Hoàng Chương đã cùng vợ con sống chui rúc những ngày cuối đời của anh trước khi “được” đưa đến ở một toà nhà to lớn, kiên cố, có lính gác ngày đêm, đó là… khám Chí Hoà!
Vũ Hoàng Chương bệnh hoạn, suy sụp rất nhanh nên ít lâu sau khi được thả ra, anh lặng lẽ ra đi.Đám tang anh cũng cử hành trong lặng lẽ, nghèo nàn, hiu hắt.
Năm 76, Sài Gòn xong, mọi người còn bận rộn với những vấn đề to lớn, đa số bạn bè và người hâm mộ anh kẻ đi tập trung cải tạo, kẻ đi nước ngòai, người còn lại thì do không biết tin anh chết nên đám tang anh chỉ thưa thớt dăm người đi đưa, trong đó có nhà thơ Bàng Bá Lân và Tôn Nữ Hỷ Khương
Mười năm sau, 1986 mộ Vũ Hoàng Chương được cải táng về chôn tại nghĩa địa của chùa Giác Minh tại Gò Vấp. Suốt một đời lận đận vì nỗi không nhà, giờ đây hai con người tài hoa kia đã có một chỗ ở trang trọng, miên viễn đó là chỗ ngồi lâu bền trong văn học sử và điều an ủi lớn nhất là họ còn sống mãi trong tâm hồn những khách yêu thơ.
TÔ KIỀU NGÂN
Năm 1954, khi vào Sài Gòn, hai người thuê một căn nhà lợp tôn, vách ván tại xóm Hòa Hưng. Vũ Hoàng Chương cùng vợ ở trên gác, dưới nhà là tổ ấm của gia đình Đinh Hùng. Nhị vị này là anh em: Vũ Hoàng Chương lấy chị ruột Đinh Hùng là bà Đinh Thị Thục Oanh nên hai nhà sống chung với nhau trong bước đầu nơi xứ lạ, quê người là điều dễ hiểu.Tuy nhiên thực tế lại rất… khó sống. Quen với cảnh “miếu nguyệt, vườn sương”, “cách tường hoa ảnh động” nay phải giam mình trong căn gác gỗ nóng hầm hập, hơi nóng từ mái tôn phả xuống như muốn luộc chín người,Vũ Hoàng Chương cảm thấy nguồn thơ đang bị nắng Sài Gòn làm cho khô cạn.
Dưới nhà, Đinh Hùng cũng chẳng hơn gì, anh cũng đánh trần ra, vừa quạt, vừa nắm viết “Kỳ Nữ gò Ôn Khâu”, “Đao phủ thành Đại La” cho các nhật báo Sài Gòn thời đó. Ngoài viết tiểu thuyết dài từng kỳ, anh còn vẽ tranh vui và giữ luôn mục “Đàn ngang cung” là mục thơ trào phúng ký tên Thần Đăng.Vũ Hoàng Chương dạy học tại trường Văn Lang. Đinh Hùng viết báo và bình thơ tại Đài phát thanh.Cả hai kiếm tiền không đến nỗi chật vật nhưng cả hai đều không tậu được cho mình một mái ấm là vì họ trót dính đến nàng tiên nâu nên kiếm tiền bao nhiêu đều tan thành mây khói.
Để kiếm một chỗ ở thoải mái hơn họ Đinh và họ Vũ tạm chia tay nhau, mỗi gia đình đi thuê một nơi ở khác.Tác giả “Thơ Say” dọn về chợ Vườn Chuối (đường Nguyễn Đình Chiểu bây giờ).Họ Đinh thì mướn một căn gác hẹp ở xóm lao động gần đường Frères Louis (trước 1975 là đường Võ Tánh, nay là Nguyễn Trãi). Xóm lao động này có ngõ dẫn ra đường Lê Lai.Con đường nằm bên cạnh ga xe lửa Sài Gòn, hồi đó chưa lập thành công viên như bây giờ, quang cảnh còn rất vắng. Chỗ ở mới cũng không hơn gì căn nhà ở xóm Hòa Hưng, chật hẹp, tối tăm, nóng bức.
Mỗi lần xong việc ở đài phát thanh, Đinh Hùng thường rủ chúng tôi về nơi anh ở, không phải ở nhà anh mà là họp nhau tại một quán rượu ở gần nhà, đường Lê Lai.Đường này thường đêm vắng ngắt, có lần uống say, Đinh Hùng cao hứng mở cuộc thi… bò ra đường xem ai bò nhanh. Thế là Thanh Nam, Tô Kiều Ngân, Đinh Hùng, Thái Thủy, Hoàng Thư, Quách Đàm… hăng hái tham gia môn vận động chưa từng diễn ra ở bất cứ vận động trường nào! Bò xong rồi nằm lăn ra đường, vừa đọc thơ, vừa cười.
Ít lâu sau, Đinh Hùng lại đổi nhà. Lần này anh thuê được một căn gác, nhà tường hẳn hoi, tại đường Trần Văn Thạch, gần chợ Tân Định, nay đổi tên là Nguyễn Hữu Cầu.Nhà lợp ngói lại ở mặt tiền nhưng vào nhà chẳng thấy bàn ghế gì, chỉ thấy một chiếc giường nằm chình ình ngay giữa nhà. Trên giường chất chồng đủ thứ: mền gối, sách vở, ấm chén và có một thứ không thể thiếu đó là chiếc bàn đèn thuốc phiện. Đinh Hùng nằm lọt thỏm vào giữa “giang sơn” của anh, vừa “dìu hồn theo cánh khói” vừa tìm ý thơ.Tác giả “Đường vào tình sử” có thói quen nằm mà viết. Anh nằm vắt chân chữ ngũ, đặt tập giấy lên đùi.Có lẽ lâu ngày nên quen, trong tư thế đó, chữ viết anh vẫn bay bướm, rõ ràng, không dập xóa, trang bản thảo nào cũng sạch sẽ, xinh đẹp.
Khi cần đi đâu , họ Đinh lại vớ lấy chiếc sơ mi đã mặc bốn, năm hôm trước, quàng bên ngoài chiếc áo vét cũ, cà vạt đàng hoàng.Tắm ư, chỉ cần vào “toa-let” mở nước ở “la-va-bô”, nhúng đầu vào bồn nước rồi hất lên, chảy xơ qua là xong. Trông Đinh Hùng lúc nào cũng ăn mặc chỉnh tề nhưng đừng ai ngồi quá gần anh, vì anh ít khi… tắm.
Vũ Hoàng Chương lại đổi nhà một lần nữa. Lần này anh mướn nhà ở đường Nguyễn Khắc Nhu, ở gần nhà Bình Nguyên Lộc.Tuy được đi dự Hội nghị Thi Ca quốc tế ở nước ngoài, có thơ dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, tiền kiếm được có thể mua một căn nhà bực trung nhưng họ Vũ vẫn đi ở nhà thuê.
Vào các năm 1973 – 1975, vợ chồng anh được nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội mời về cho ở một căn gác tại toà biệt thự đồ sộ của bà ở đường Nguyễn Trọng Tuyển.Nói là cho ở nhưng họ Vũ phải trả tiền điện, tiền nước và tiền điện thoại. Anh đặt tên chỗ ở mới này là “Gác Mây”.
Nơi đây, tôi và bạn bè đã có lần uống rượu với Vũ Hoàng Chương, nghe anh đọc thơ Tuy Lý Vương và phát hiện ra cái thôn Vỹ Dạ ở Huế đã đi vào thơ Hàn Mạc Tử không phải là Vỹ Dạ mà là Vỹ Dã (cánh đồng lau).
Nhưng rồi Vũ Hoàng Chương cũng không an trú lại “Gác Mây” được bao lâu.
Sài Gòn 75 , bạn bè của chủ nhân Mộng Tuyết vào ra thăm bà tấp nập.Có lẽ thấy sự hiện diện của Vũ Hoàng Chương ở tại nhà mình có sự không tiện nên bà đánh tiếng để họ Vũ dọn đi. Phải đi thôi nhưng phải đi đâu?Thời buổi khó khăn, tiền đâu để đặt cọc, thuê nhà? Anh đành dắt díu vợ con về tá túc tại căn nhà bé bằng bàn tay của bà quả phụ Đinh Hùng bên khu Khánh Hội.
Đinh Hùng ra đi trước Vũ Hoàng Chương. Anh mất vì bệnh ung thư tại bệnh viện Bình Dân, an táng tại nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. Đám tang trọng thể.Thuở sinh thời, Đinh Hùng từng viết trong thơ:
Khi tôi chết các em về đấy nhé
Cảm tấm lòng tri ngộ với nhau xưa
Tay cầm hoa, xoả tóc đến bên mồ…
Điều mong ước đó, kỳ diệu thay lại biến thành hiện thực: trong đám tang của anh người ta thấy có hai chục cô thiếu nữ mặc áo trắng, xỏa tóc, tay cầm hoa lặng lẽ sắp hàng đi theo linh cửu.Họ đến bên mồ và lặng lẽ thả những bó hoa xuồng lòng huyệt, ngậm ngùi tiễn đưa người thi sĩ. Hiện tượng này không do một sự sắp đặt mà do một cảm ứng tự nhiên.
Đinh Hùng mất rồi, vợ anh phải trả căn nhà ở gần chợ Tân Định lại cho chủ.Đang chưa biết ở đâu thì may thay, một vị tướng quân hồi đó, rất yêu thơ mà lại có chức quyền nên đã vận động cấp cho bà quả phụ Đinh Hùng một căn nhà ở khu Khánh Hội.
Bà Đinh Hùng với con trai là Đinh Hoài Ngọc không thể ôm một căn nhà lớn để mà nhịn đói nên đã bán căn nhà đó đi rồi rút lui vào vùng sâu, vùng xa của bến Phạm Thế Hiển lúc đó còn đìu hiu lau lách, dựng một mái chòi để sống qua ngày.
Chính nơi đây, Vũ Hoàng Chương đã cùng vợ con sống chui rúc những ngày cuối đời của anh trước khi “được” đưa đến ở một toà nhà to lớn, kiên cố, có lính gác ngày đêm, đó là… khám Chí Hoà!
Vũ Hoàng Chương bệnh hoạn, suy sụp rất nhanh nên ít lâu sau khi được thả ra, anh lặng lẽ ra đi.Đám tang anh cũng cử hành trong lặng lẽ, nghèo nàn, hiu hắt.
Năm 76, Sài Gòn xong, mọi người còn bận rộn với những vấn đề to lớn, đa số bạn bè và người hâm mộ anh kẻ đi tập trung cải tạo, kẻ đi nước ngòai, người còn lại thì do không biết tin anh chết nên đám tang anh chỉ thưa thớt dăm người đi đưa, trong đó có nhà thơ Bàng Bá Lân và Tôn Nữ Hỷ Khương
Mười năm sau, 1986 mộ Vũ Hoàng Chương được cải táng về chôn tại nghĩa địa của chùa Giác Minh tại Gò Vấp. Suốt một đời lận đận vì nỗi không nhà, giờ đây hai con người tài hoa kia đã có một chỗ ở trang trọng, miên viễn đó là chỗ ngồi lâu bền trong văn học sử và điều an ủi lớn nhất là họ còn sống mãi trong tâm hồn những khách yêu thơ.
TÔ KIỀU NGÂN
KỶ NIỆM TAO ĐÀN - Phan Lạc Phúc
Đầu
năm 1956 tôi từ biệt nghề "chiến binh lội ruộng" về Phòng 5 bộ Tổng
tham mưu làm sĩ quan thông tin báo chí. Lúc bấy giờ tôi chưa có vợ con
gì, khoác cái ba lô lên lưng là có thể đi cùng trời cuối đất. Về Sài Gòn
chưa biết ở đâu tôi xáp vô ở với bạn cũ Thanh Nam ở ngõ Nancy (đường
Phan Văn Trị). Tôi và Thanh Nam chơi với nhau từ khi tôi từ ngoài khu về
Hà Nội ăn dầm nằm dề trên căn gác phố hàng Bông nhà Nguyễn thiệu Giang,
tập tọng làm văn nghệ văn gừng dưới sự hướng dẫn của đàn anh Đinh Hùng.
Trong nhóm chúng tôi ngày ấy ngoài Thanh Nam, Nguyễn Thiệu Giang còn có
Nguyễn Minh Lang, Phan Nghị, Huy Quang Vũ Đức Vinh, những người Thanh
Nam nhắc đến trong bài hành tuổi 40 vài chục năm sau:
.. Bạn cũ hãy nương theo rét lạnh
Về đây cùng nhập một cơn say
Chí lớn chia nhau đầy gác nhỏ
Bụi hồng chưa khiến tóc xanh phai
Dăm bảy lòng sông ôm biển cả
Coi đời dưới mắt nhẹ không ai
Cơn mê nhập cuộc sầu chưa bén
Thân thế chưa đau cát bụi này ..
Về đây cùng nhập một cơn say
Chí lớn chia nhau đầy gác nhỏ
Bụi hồng chưa khiến tóc xanh phai
Dăm bảy lòng sông ôm biển cả
Coi đời dưới mắt nhẹ không ai
Cơn mê nhập cuộc sầu chưa bén
Thân thế chưa đau cát bụi này ..
Sau
hiệp định Genève 1954 nhóm chúng tôi tan tác kẻ đi người ở. Theo anh
Đinh Hùng vào Nam có Vũ Đức Vinh, Phan Nghị và tôi. Thanh Nam đã vào Sài
Gòn trước (1953). Ở lại có Nguyễn Minh Lang, Nguyễn Thiệu Giang. Bây
giờ (1956) tôi ở với Thanh Nam, gặp lại anh Đinh Hùng và có thêm những
người bạn mới. Ở cùng nhà ngõ Nancy lúc bấy giờ có nhà thơ Thái Thủy
(tác giả Lá thư Gửi mẹ), kịch sĩ kiêm "ngâm" sĩ và vũ sư (múa Trấn thủ
Lưu đồn) Hoàng Thư, nhà báo Vũ Quang Ninh, quản đốc đài phát thanh Quân
đội. Một lũ "xê li bạt" ở với nhau, không có đàn bà, không có trẻ con,
ăn uống tùy tiện, tối đến sải chiếu ra, chăng màn ngủ, mỗi anh một góc,
không phiền ai. Nhà này trước đây còn có văn sĩ Tạ Quang Khôi (xước danh
Tạ ống khói) nhưng ít lâu nay ông "Ống khói" tạm biệt nơi này vô Đại
học Sư phạm rồi. Nhà này phải để sàn rộng rãi là có lý do của nó. Ông
Hoàng Thư thỉnh thoảng tập múa Trấn thủ Lưu đồn nên phải có chỗ cho "vũ
sư" tập dượt. Vũ sư mặc quần đùi, thân thể hom hem nhưng múa rất hăng,
vừa múa vừa hát "Trấn thủ ấy mấy lưu đồn. Ngày thì canh điếm ấy tối dồn
là việc quan, chém tre mà đẵn gỗ trên ngàn ..".
Nhà
một lũ độc thân nên anh em dễ dàng hội họp, gặp nhau "phùng trường tác
hí". Sải chiếu ra, ăn nhậu dài dài. Hay đến đây là đàn anh Đinh Hùng, có
khả năng đặc biệt vừa nằm vừa viết văn chương Tao Đàn mà chữ nghĩa vẫn
rồng bay phượng múa. Có ông Vũ Khắc Khoan gõ muỗng vào ly mà "Hồ trường,
hồ trường ta biết rót về đâu". Có ông Mai Thảo với ông Phạm Đình Chương
rượu uống tì tì, càng uống mặt càng tái đi. Có ông Anh Ngọc say ngất
ngư mà vẫn hát "Anh đến thăm em một chiều mưa'". Có ông Tạ Tỵ ngày Tết
chạy sang, sải chiếu ra, rút bất.
Văn
nghệ sĩ đến đây nhiều như thế nên người ta bảo ngõ này là ngõ "văn
nghệ". Khu này cũng có khá đông anh em ta cư ngụ. Từ chợ Nancy quẹo vô
ngõ Phan Văn Trị là nhà của nhà văn, nhà thơ kiêm "sáo sĩ" Tô Kiều Ngân.
Đi thêm dăm chục bước chân là nhà Thanh Nam. Trước cửa nhà Thanh Nam là
nhà Tạ Tỵ họa sĩ, văn, thi sĩ. Ngay cạnh nhà Thanh Nam là nhà ban Hợp
ca Hạc Thành của anh em nhạc sĩ Nhật Bằng, Nhật Phượng, Thể Tần, Hồng
Hảo. Xế bên kia một chút là nhà của ký giả lão thành Thượng Sĩ, nhà phê
bình, điểm sách trên tờ Tin Mới của Hà Nội năm xưa (nhà văn nữ Sài Gòn
Cô Nương xuất hiện trên làng báo hải ngoại mấy năm gần đây là con gái
anh Thượng Sĩ).
Năm ấy
(1956) là thời kỳ cực thịnh của ban Tao Đàn, phù hợp với giai đoạn khởi
đầu của nền Đệ Nhất Cộng Hòa khi miền Nam VN vừa có một thể chế mới, một
tương lai mới. Pháp đã rút hết về nước. Trên phương diện truyền thanh,
các đài của Pháp như Pháp Á, Con nhạn (Hirondelle) nhất loạt đóng cửa;
đài quốc gia (lúc bấy giờ chưa có TV) cũng như các chương trình phát
thanh có bổn phận phải "lớn lên" cho kịp với tình hình. Ban Tao Đàn
ngoài trách nhiệm đã được minh thị "tiếng nói của thơ văn miền Tự Do"
còn tiềm ẩn một nghĩa vụ "đem theo văn hóa của 1 triệu người miền Bắc
vừa định cư ở miền Nam". Thơ, văn Tao Đàn phần đông là văn hóa Bắc Hà,
là những làn điệu của văn minh sông Hồng, sông Mã giao duyên cùng văn
minh Hương Giang và Cửu Long Giang.
Bao
nhiêu năm đã trôi qua, bây giờ từ vĩ tuyến 17 trở vào trong, chúng ta
có một lối ngâm thơ đã trở thành phổ biến: ngâm thơ Tao Đàn. Nó xuất
hiện thường xuyên trong cải lương miền Nam hay bài chòi miền Trung. Nó
là cái còn lại, là dấu ấn của văn nghệ sĩ đã đưa Tao Đàn vào đời sống
văn hóa.
Người khai sinh
và điều khiển chương trình Tao Đàn, như cả nước đều biết, là thi sĩ Đinh
Hùng. Năm 1956 tôi ở nhà Thanh Nam, nơi anh Đinh Hùng thường tới viết
bài, các cộng sự thân thiết nhất của anh đều ở quanh đây nên có thể nói
nơi đây là "đại bản doanh" của chương trình Tao Đàn. Chương trình Tao
Đàn có thể chia ra làm 3 bộ phận. Bộ phận quan trọng nhất là ban biên
tập và diễn đọc gồm Đinh Hùng, Thanh Nam, Thái Thủy; vài năm sau có Huy
Quang Vũ Đức Vinh từ Nha Trang vào cộng tác. Bộ phận thứ 2 là ban ca
ngâm gồm những tài tử nam, nữ trình diễn thường xuyên hay tùy hứng.
Người "đa năng' nhất trong ban Tao Đàn là Tô Kiều Ngân. Anh vừa là tài
tử diễn ngâm, vừa biên tập, vừa trong ban nhạc. Tiếng sáo Tô Kiều Ngân
réo rắt thường được coi là "indicatif" của Tao Đàn, hợp cùng tiếng đàn
thập lục trầm bổng của Bửu Lộc, tiếng piano trầm ấm trước của Ngọc Bích,
sau của Phạm Đình Chương. Về giọng ngâm nam ngoài họ Tô, còn có Hoàng
Thư; một thời giọng ngâm Thanh Hùng cũng có góp tiếng trên đài. Tô Kiều
Ngân tuy giọng không khỏe nhưng anh là người ngâm "khéo" nhất, ngâm
giọng Bắc, giọng Trung đều nhuyễn. Hoàng Thư có chất giọng say sưa, mạnh
mẽ được đời nhớ mãi trong Bài ca Ngư phủ của Vũ Hoàng Chương. Thanh
Hùng với giọng thổ pha kim, xuất sắc trong những tác phẩm bi hùng. Có
những giọng ngâm không có mặt lâu năm trên đài nhưng vẫn được đời ghi
nhớ như Quách Đàm trong những bài lục bát hay Thiếu Lang trong Hồ Trường
của Nguyễn bá Trác.
Về
giọng ngâm nữ lúc khởi đầu phải nhắc tới cái ngọt ngào của Giáng Hương
nhưng các tay sành điệu đều không thể nào quên giọng ngâm đổ hột đặc sắc
của bà Đàm Mộng Hoàn, một danh tiếng vang lừng tại Khâm Thiên tiền
chiến trong Tỳ bà Hành. Giọng ngâm nữ nhiều năm làm thổn thức trái tim
thính giả là Hồ Điệp trong những bài thơ nức nở TTKH. Về sau có một
giọng nữ như sương như khói làm khởi sắc những vần ca dao dân tộc và
những bài ca huyền sử. Đó là giọng ngâm Hoàng Oanh.
Sang
đến thập niên 1960 sức truyền lan của Tao Đàn có sút giảm đi. Thi ca
miền Nam Tự Do với một thẩm mỹ mới, một thẩm mỹ chênh vênh (esthétique
de choc) đã ngự trị thi đàn. Thơ có vần đang chuyển sang không vần của
thơ tự do. Người ta ưa đọc thơ hơn là ngâm thơ. Nhưng đó lại là một vấn
đề khác. Mỗi thời điểm có vấn đề riêng của nó.
Ngày
xưa đàn anh Đinh Hùng có nói: "Mỗi một người bạn là một phần đời sống
của mình". Thoạt đầu, tôi nghĩ là đàn anh "bốc" đàn anh phán vậy thôi.
Nhưng càng già càng thấy đàn anh nói đúng. Bây giờ nói về thời gian sống
ở ngõ Nancy còn lại những ai ? Đinh Hùng, Thanh Nam, Thượng Sĩ, Hoàng
Thư, Phạm Đình Chương, Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo, Nhật Bằng, Tạ Tỵ, Phan
Nghị .. đều bỏ chúng ta mà đi rồi. Người gần nhất "lên đường" là Huy
Quang Vũ Đức Vinh. Khi nghe tin Vũ Đức Vinh ngắc ngoải, hai ông còn lại
ngày xưa ở nhà Thanh Nam là Vũ Quang Ninh và Thái Thủy vội bay sang
Seattle thăm bạn. Tới nơi thấy bạn mình đã hôn mê nhưng khi nghe "Vũ
Quang Ninh, Thái Thủy sang thăm ông đây" thì người hấp hối bỗng chảy hai
hàng nước mắt. Vũ Đức Vinh, người bạn thường gọi tôi "bạn cũ trên 50
năm" đã từ biệt chúng ta như thế.
Bây giờ còn có người mà kể lại; mai đây không biết còn kể lại với ai ?
Phan Lạc Phúc
Chia Tay "Tao Đàn" - Phan Lạc Phúc
"
... Trong những tháng ngày ở với Thanh Nam trong ngõ Nancy (Phan văn
Trị) lúc rảnh rỗi, tôi thường theo anh em, bè bạn lên đài phát thanh xem
ban Tao Đàn trình diễn.
Trước ngày thu khoảng một ngày, anh Đinh Hùng trửơng nhóm mới ngỏ ý với Thái Thủy thư ký của ban biên tập là trong chương trình sắp tới Đinh Hùng, Thanh Nam, Huy Quang (đôi khi cả Tô Kiều Ngân nữa) mỗi người "nói" bao nhiêu phút, đề tài gì; thư ký Thái Thủy sau khi thiết lập bảng "phân công"có bổn phận sửa soạn sẵn một số bài vở dự trữ để nếu cần "lấp khoảng trống" (bouche trou) và tham khảo với anh Đinh Hùng về việc đề nghị nghệ sĩ diễn ngâm cho từng bài.
Ngày ấy kỹ thuật thu thanh còn thô sơ nên trách nhiệm của nghệ sĩ khá nặng nề.
Vào phòng thu âm, đèn đỏ bật lên (on air) là nghệ sĩ trình diễn thẳng (vivant) từ đài phát thanh tới thính giả. Một lời đã nói ra rồi là "Nhất ngôn ký xuất, Tứ mã nan truy", hay dở, đúng sai gì cũng không thể nào sửa chữa được nữa; không như bây giờ, kỹ thuật tân tiến, nghệ sĩ, ca sĩ thu thanh trước vào băng, dĩa, chuẩn bị thật chu đáo, o ép từng câu, từng chữ cho thật vừa ý rồi đến giờ, bấm máy phát đi. Vì vậy nên ngày nay có hiện tượng ca sĩ "nhép" tức là trình diễn trước khán, thính giả hằng nghìn, hằng vạn người mà chỉ "nhép" môi, băng, dĩa đã hát thay cho ca sĩ.
Tiện lợi thì thật là tiện lợi nhưng nó mất đi một cái rất quí, cái thật. Đây là máy hát, không phải là người hát. Đứng về phương diện bản lĩnh, người nghệ sĩ một mình đứng trước cử tọa nó chứng tỏ sự tự tin, nếu không muốn nói là hào khí của người làm nghệ thuật trong khi người ca sĩ "nhép" đã tự rút lui, nhờ kỹ thuật hành nghề giúp..."
Trước ngày thu khoảng một ngày, anh Đinh Hùng trửơng nhóm mới ngỏ ý với Thái Thủy thư ký của ban biên tập là trong chương trình sắp tới Đinh Hùng, Thanh Nam, Huy Quang (đôi khi cả Tô Kiều Ngân nữa) mỗi người "nói" bao nhiêu phút, đề tài gì; thư ký Thái Thủy sau khi thiết lập bảng "phân công"có bổn phận sửa soạn sẵn một số bài vở dự trữ để nếu cần "lấp khoảng trống" (bouche trou) và tham khảo với anh Đinh Hùng về việc đề nghị nghệ sĩ diễn ngâm cho từng bài.
Ngày ấy kỹ thuật thu thanh còn thô sơ nên trách nhiệm của nghệ sĩ khá nặng nề.
Vào phòng thu âm, đèn đỏ bật lên (on air) là nghệ sĩ trình diễn thẳng (vivant) từ đài phát thanh tới thính giả. Một lời đã nói ra rồi là "Nhất ngôn ký xuất, Tứ mã nan truy", hay dở, đúng sai gì cũng không thể nào sửa chữa được nữa; không như bây giờ, kỹ thuật tân tiến, nghệ sĩ, ca sĩ thu thanh trước vào băng, dĩa, chuẩn bị thật chu đáo, o ép từng câu, từng chữ cho thật vừa ý rồi đến giờ, bấm máy phát đi. Vì vậy nên ngày nay có hiện tượng ca sĩ "nhép" tức là trình diễn trước khán, thính giả hằng nghìn, hằng vạn người mà chỉ "nhép" môi, băng, dĩa đã hát thay cho ca sĩ.
Tiện lợi thì thật là tiện lợi nhưng nó mất đi một cái rất quí, cái thật. Đây là máy hát, không phải là người hát. Đứng về phương diện bản lĩnh, người nghệ sĩ một mình đứng trước cử tọa nó chứng tỏ sự tự tin, nếu không muốn nói là hào khí của người làm nghệ thuật trong khi người ca sĩ "nhép" đã tự rút lui, nhờ kỹ thuật hành nghề giúp..."
NHÀ THƠ TÔ KIỀU NGÂN VÀ BAN THI VĂN TAO ĐÀN - Biên soạn: Phan Anh Dũng
Xin vui lòng gởi ý kiến xây dựng và tài liệu về:
dathphan1@gmail.com
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire